Tính cách mạng trong trào lưu triết học ánh sáng Pháp thế kỷ XVIII

Tóm tắt: Dựa vào những tư liệu đã công bố, bài báo đưa ra những kiến giải

mới về Trào lưu Triết học Ánh sáng Pháp. Thứ nhất, trào lưu đã phủ nhận

thiết chế nhà nước cũ – chế độ phong kiến, đề ra thiết chế nhà nước mới,

thiết chế cộng hòa; thứ hai, đề cao quyền tự do của con người; thứ ba, tấn

công trực diện vào hệ tư tưởng Thiên chúa giáo, lực lượng cản trở, kìm hãm

nhận thức của con người dưới thời kỳ Trung Cổ. Đây là những kiến giải

chứng minh tính cách mạng và sự tiến bộ của Trào lưu Triết học này. Những

yếu tố đó thúc đẩy Cách mạng tư sản Pháp đi đến triệt để trong thời Cận đại.

pdf 7 trang phuongnguyen 1640
Bạn đang xem tài liệu "Tính cách mạng trong trào lưu triết học ánh sáng Pháp thế kỷ XVIII", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính cách mạng trong trào lưu triết học ánh sáng Pháp thế kỷ XVIII

Tính cách mạng trong trào lưu triết học ánh sáng Pháp thế kỷ XVIII
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế 
ISSN 1859-1612, Số 01(17)/2011: tr. 89-95 
TÍNH CÁCH MẠNG TRONG TRÀO LƯU 
TRIẾT HỌC ÁNH SÁNG PHÁP THẾ KỶ XVIII 
 LÊ THÀNH NAM - TRẦN THỊ DUNG 
 Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế 
Tóm tắt: Dựa vào những tư liệu đã công bố, bài báo đưa ra những kiến giải 
mới về Trào lưu Triết học Ánh sáng Pháp. Thứ nhất, trào lưu đã phủ nhận 
thiết chế nhà nước cũ – chế độ phong kiến, đề ra thiết chế nhà nước mới, 
thiết chế cộng hòa; thứ hai, đề cao quyền tự do của con người; thứ ba, tấn 
công trực diện vào hệ tư tưởng Thiên chúa giáo, lực lượng cản trở, kìm hãm 
nhận thức của con người dưới thời kỳ Trung Cổ. Đây là những kiến giải 
chứng minh tính cách mạng và sự tiến bộ của Trào lưu Triết học này. Những 
yếu tố đó thúc đẩy Cách mạng tư sản Pháp đi đến triệt để trong thời Cận đại. 
Trong bất cứ một cuộc cách mạng xã hội nào, yếu tố tư tưởng luôn giữ một vai trò quan 
trọng và có ý nghĩa hết sức lớn lao. Nó là động lực thúc đẩy đấu tranh và có những 
trường hợp đã tạo nên những thay đổi lớn trong lịch sử. Bàn về vấn đề này, C. Mác cho 
rằng: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ 
khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận 
cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng” [1, tr. 325]. 
Trào lưu Triết học Ánh Sáng là một minh chứng sinh động cho lý luận nêu trên. 
Trong số các cuộc cách mạng nổ ra buổi đầu thời cận đại thì cuộc cách mạng tư sản 
Pháp được xem là Đại cách mạng, có tính chất triệt để nhất. Bởi lẽ, trước hết xã hội 
Pháp lúc bấy giờ là nơi hội tụ những mâu thuẫn xã hội đạt tới cực điểm. Nhu cầu một 
cuộc cách mạng nổ ra là tất yếu. Mặt khác, để có được sự triệt để đó, cách mạng Pháp 
đã được chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt tư tưởng trong một trào lưu triết học mà lịch sử gọi là 
“Trào lưu Triết học Ánh Sáng” với các đại diện tiêu biểu, như: Voltaire, Montesquieu, 
Rousseau, Meslies, Diderot... Những tư tưởng mà các nhà triết học đưa ra trong trào lưu 
Triết học Ánh sáng mang ý nghĩa quan trọng không những đối với cách mạng Pháp mà 
còn cả đối với sự tiến bộ của nhân loại bởi tính cách mạng của nó. 
Trước khi tìm hiểu về tính cách mạng của Trào lưu Triết học Ánh Sáng, chúng ta cần 
phải hiểu được nội hàm của thuật ngữ “cách mạng” là như thế nào? Theo “Từ điển thuật 
ngữ lịch sử phổ thông” của Phan Ngọc Liên, thuật ngữ “cách mạng” được hiểu là : “Một 
sự biến đổi hẳn, sự đổi mới về bản chất và là một sự biến đổi tiến bộ nhất, phù hợp với 
yêu cầu phát triển của xã hội” [2, tr. 59]. Bằng tư liệu lịch sử, bài viết xin được đưa ra 
ba kiến giải sau đây: 
Thứ nhất, các nhà Triết học Ánh Sáng đã chỉ rõ tính chất lỗi thời, phản động của 
nền thống trị chuyên chế phong kiến, đưa ra một thiết chế nhà nước mới, tiến bộ hơn 
và mang tính ưu việt hơn - thiết chế nhà nước cộng hoà. 
LÊ THÀNH NAM - TRẦN THỊ DUNG 
90 
Nước Pháp trước cách mạng là một nhà nước phong kiến chuyên chế. Vua là người nắm 
giữ mọi quyền hành của nhà nước, mọi quyền lực đều tập trung trong tay vua. Vua 
không bị chi phối bởi bất cứ một thế lực nào. Uy quyền của nhà vua là tuyệt đối, nắm cả 
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vua Henry IV (1594-1610) đã nói rằng: “Trẫm 
muốn rằng không ai được thắc mắc về những mệnh lệnh của trẫm. Trẫm là chúa tể, 
trẫm muốn được mọi người tuân lệnh” [5, tr. 162], còn với Louis XIV (1643-1715) 
được mệnh danh “Vua Mặt trời”, cũng khẳng định: “Trẫm là quốc gia” [9, tr. 71], ý chí 
của nhà vua là luật pháp, tự nhận mình là “đại diện của thượng đế dưới trần gian” [9, 
tr. 72]. 
Nhằm chống lại nền chuyên chế trên, các nhà Triết học Ánh Sáng đả kích, phê phán chế 
độ phong kiến lỗi thời này mà đại diện chính là kẻ ngự trị trong ngai vàng. Trong tác 
phẩm “Những bức thư Ba Tư”, Montesquieu (1689-1755) đã viết: “Vua Pháp là nhà 
phù thuỷ vĩ đại, ông ta đặt quyền lực của mình tới cả tư duy thần dân. Ông ta buộc họ 
phải suy nghĩ theo ý thích của ông ta” [7, tr. 26]. Đồng thời, ông nhấn mạnh “sự tráo 
trở, bạo lực, phản bội, gian xảo và bất công” chính là những yếu tố mà giới thống trị 
phong kiến sử dụng để làm nên sự vinh quang cho mình. Sự vinh quang của chế độ 
phong kiến được xây dựng trên sự bất công và sự độc đoán, nó không thể dung hoà với 
tự do. Từ đó, ông đưa ra quan điểm, “để có tự do phải tiêu diệt chuyên chế”. 
Montesquieu còn đưa ra ba loại hình nhà nước: cộng hoà, quân chủ lập hiến và quân chủ 
chuyên chế. Trong ba loại hình nhà nước đó, ông hoàn toàn bác bỏ loại hình nhà nước 
quân chủ chuyên chế. Bởi theo nhãn quan của ông, chuyên chế là hình thức cầm quyền 
trong đó cả quốc gia nằm dưới quyền lực của một người, đó là nhà nước phụ thuộc vào 
sự lộng quyền của người cầm quyền, ngay cả pháp luật cũng là pháp luật của một người. 
Từ việc phủ nhận loại hình nhà nước chuyên chế, Montesquieu lại có thiện cảm với chế 
độ cộng hoà. Nếu nhà nước chuyên chế là nhà nước của sự chuyên quyền thì ngược lại 
nhà nước cộng hoà lại khắc phục tất cả những hạn chế trên. Theo ông, nền cộng hoà là 
nhà nước tốt đẹp nhất, là hình thức cầm quyền ôn hoà, trong đó thực hiện tự do chính trị 
với nguyên tắc bình đẳng, ái quốc, tình yêu và tự do. Trong nhà nước cộng hoà, nhân 
dân nắm trong tay hoàn toàn hay một phần quyền lực tối cao. Để ngăn chặn sự lạm 
quyền thì ông cho rằng phương án tối ưu là “quyền hành ngăn chặn quyền hành”. Mặc 
dù có thiện cảm với chế độ cộng hòa, song Montesquieu vẫn cho rằng nhà nước cộng 
hòa chưa thể áp dụng cho nước Pháp sau cách mạng mà phải mô phỏng theo nước Anh, 
tức áp dụng chế độ quân chủ lập hiến. 
Cùng với việc đưa ra các loại hình nhà nước, Montesquieu đưa ra khái niệm về “Tam 
quyền phân lập”, tức là quyền lực nhà nước được chia thành: lập pháp, hành pháp và tư 
pháp. Ba quyền này tập trung trong các cơ quan quyền lực khác nhau trong đó, nhà vua 
nắm giữ quyền hành pháp, nghị viện giữ quyền lập pháp và các cơ quan toà án giữ 
quyền tư pháp. Chính điều này làm triệt tiêu sự độc quyền, chúng hạn chế lẫn nhau, cân 
bằng nhau và giám sát lẫn nhau. Quan điểm về “Tam quyền phân lập” của 
Montesquieu đã giáng một đòn chí tử vào thiết chế nhà nước phong kiến. Đây là cống 
hiến to lớn của Montesquieu đối với tiến bộ nhân loại, đồng thời cũng là một trong 
TÍNH CÁCH MẠNG TRONG TRÀO LƯU TRIẾT HỌC ÁNH SÁNG PHÁP... 
91 
những dấu ấn lớn nhất trong trào lưu Triết học Ánh Sáng mà cho đến ngày nay vẫn 
được chọn lựa, kế thừa trong lịch sử văn minh nhân loại. 
Khác với Montesquieu, tư tưởng của Rousseau (1712-1778) về chế độ nhà nước có 
những nhận thức tiến bộ hơn nhiều. Ông không đơn thuần phê phán một thiết chế nhà 
nước nào đó mà bác bỏ hoàn toàn cả hệ thống chế độ phong kiến áp bức nhân dân. Theo 
ông, chế độ cộng hoà là hình thức cầm quyền tốt nhất, trong đó các quan chức do nhân 
dân bầu ra. Mặt khác, Rousseau còn phân biệt giữa lập pháp và hành pháp. Chính quyền 
lập pháp được thành lập do “Khế ước xã hội” còn chính quyền hành pháp được thành 
lập bởi văn bản của quyền lực lập pháp có chủ quyền. Chính điều này đã quy định vai 
trò phụ thuộc của chính phủ vào quyền lập pháp. Nhằm ngăn chặn việc tiếm quyền từ 
phía chính phủ, Rousseau đề nghị tiến hành định kỳ các đại hội nhân dân mà ở đó chính 
phủ có nhiệm vụ báo cáo trước nhân dân. Vai trò của nhân dân được tăng lên, nhân dân 
có quyền quyết định những vấn đề quan trọng sau: 
1. Họ có cần duy trì hình thức cầm quyền hiện hành không 
2. Có nên tiếp tục duy trì quyền quản lý trong tay những người đang nắm quyền 
không? 
Việc đặt chính phủ dưới quyền kiểm soát của nhân dân là một tư tưởng vô cùng tiến bộ, 
do đó học thuyết của Rousseau về “Khế ước xã hội” tràn đầy tính cách mạng sâu sắc và 
cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. 
Cùng với dòng tư tưởng trên, Voltaire (1694-1778) trong cuốn “Từ điển triết học” cũng 
đã bắt đầu nói về tính hợp lý của chế độ cộng hoà và những ưu việt của nó. Những tư 
tưởng đó đã được ông phát triển trong cuốn “Di chúc chính trị”, ông bày tỏ thiện cảm 
với nền cộng hoà Thụy Sĩ mà ông cho rằng đó là “nơi ngự trị của sự bình đẳng thật 
sự”. 
Thứ hai, các nhà Triết học Ánh Sáng đã tố cáo sự bất bình đẳng trong xã hội phong 
kiến, khẳng định quyền tự do của con người, đặc biệt là nêu cao vai trò của quần 
chúng đối với sự tồn vong của một quốc gia. 
Xã hội Pháp trước cách mạng là một thực thể đầy rẫy sự bất công và mục ruỗng. Đó là 
sự hiện hữu của chế độ đẳng cấp phong kiến hà khắc và phi lý. Xã hội Pháp chia làm ba 
đẳng cấp: quý tộc, tăng lữ và đẳng cấp thứ ba. Sự phân biệt giữa ba đẳng cấp trên được 
quy định trong công thức sau: “Tăng lữ phục vụ nhà vua bằng những lời cầu nguyện, 
quý tộc bằng lưỡi kiếm, đẳng cấp thứ ba bằng của cải” [4, tr. 65]. Hai đẳng cấp đầu chỉ 
chiếm 1% dân số nhưng lại giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước và 
được hưởng mọi đặc quyền và đặc lợi. Ngược lại, đẳng cấp thứ ba (gồm tư sản, nông 
dân, công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động khác) chiếm 99% dân số, làm ra của 
cải cho xã hội nhưng họ lại bị tước đoạt mọi quyền về chính trị, bị phụ thuộc và phải 
phục vụ cho hai đẳng cấp trên. Linh mục Meslier viết: “Ở Pháp, tất cả chính quyền, tất 
cả của cải, tất cả sự vui sướng đều thuộc về bọn nhà giàu và bọn quý tộc. Còn nhân dân 
nghèo thì chỉ đau khổ và lo lắng, chịu đủ mọi sự bất hạnh”. 
LÊ THÀNH NAM - TRẦN THỊ DUNG 
92 
Thấy được sự phi lý đó, các nhà triết học Ánh Sáng đã lên tiếng bảo vệ cho quyền bình 
đẳng của con người. Voltaire (1694-1778) cho rằng: các quyền và phẩm giá của con 
người phải được thừa nhận cho mọi thành viên trong xã hội. Đồng thời, ông khẳng định: 
“Khi dân đen bắt đầu đàm luận - tất cả sẽ tiêu tan” tức là khi trong nhân dân có sự phản 
đối hoặc không hài lòng về chính phủ thì gốc rễ chính quyền đó đang bị lung lay. Điều 
này cho thấy vai trò thực sự quyết định của nhân dân với sự tồn vong của bất cứ một 
chính phủ nào. Montesquieu cùng “bắt gặp” Rousseau ở điểm này, với tư tưởng “Tam 
quyền phân lập”, ông một mặt muốn ngăn chặn sự lạm quyền từ chính phủ mặt khác 
nhằm bảo vệ quyền lực của nhân dân. Montesquieu đề cao nền cộng hoà với nguyên tắc 
sống của nó là: “Bình đẳng, ái quốc, tình yêu và tự do”, ông chủ trương cần phải yêu 
chuộng và tôn trọng quyền tự do cho dù đó là tự do cá nhân. Ông nêu cao tinh thần tự 
do nhưng cũng đồng thời nêu rõ: “Tự do là quyền được làm tất cả những gì mà pháp 
luật cho phép” có nghĩa là tự do trong khuôn khổ của pháp luật. Ngày nay nhiều quốc 
gia vẫn chủ trương theo quan điểm trên của Montesquieu để vừa đảm bảo quyền tự do 
của mọi thành viên trong xã hội vừa giữ được trật tự của xã hội. Vấn đề ở chỗ là phải có 
sự kế thừa và phát triển phù hợp với bối cảnh trong và ngoài nước và chiến lược phát 
triển của quốc gia vì lợi ích cao nhất cho nhân dân và dân tộc. 
Cùng dòng tư tưởng trên, trong tác phẩm “Khế ước xã hội” Rousseau cũng đã nêu cao 
quyền tự do và bình đẳng của con người. Ông nêu rõ mục đích tác phẩm này là: “Muốn 
xem trong trật tự dân sự có hay không một số quy tắc cai trị chính đáng, vững chắc, biết 
đối đãi với con người như con người”. Theo ông, con người tồn tại trải qua hai trạng 
thái, trạng thái tự nhiên và trạng thái dân sự. Trong trạng thái tự nhiên con người được 
tự do bình đẳng không có áp bức bóc lột, mà ông gọi đây là “Thế kỷ hoàng kim”. Khi 
xã hội phát triển cao hơn con người bước ra khỏi trạng thái tự nhiên tiến vào trạng thái 
dân sự và bắt đầu nảy sinh những bất bình đẳng. Rousseau khẳng định “Bất cứ trong 
trạng thái nào con người cũng phải được tự do và bình đẳng”. Trong “Khế ước xã hội”, 
ông viết: “Với khế ước xã hội, con người sẽ mất đi tự do thiên nhiên và cái quyền nhỏ 
nhoi được làm những điều muốn làm và những điều chỉ làm được với sức lực hạn chế 
của con người, nhưng mặt khác con người thu lại quyền tự do dân sự và quyền sở hữu 
những cái gì mà anh ta có được. Trong trạng thái dân sự anh ta còn có tự do tinh thần 
khiến anh ta trở thành người chủ thật sự của chính mình”. 
Như vậy, một xã hội được xây dựng theo khế ước, quyền tự do bình đẳng sẽ được phát 
triển, nó đối lập với xã hội phong kiến. Rousseau coi nguyên tắc cơ bản trong học 
thuyết của mình là tư tưởng chủ quyền nhân dân, tức quyền lực thuộc về nhân dân, 
những người trực tiếp lựa chọn người toàn quyền cho mình và tham gia vào việc thực 
hiện pháp luật. Ông đã đánh giá đúng đắn vai trò của nhân dân trong một xã hội dân 
chủ. Phái Jacobin trong Cách mạng Pháp đã sử dụng học thuyết của ông để thể hiện ý 
chí chung và chủ quyền vô hạn của nhân dân để thiết lập chuyên chính dân chủ cách 
mạng. 
Chịu sự chi phối tư tưởng của Rousseau, người đứng đầu phái Jacobin là Robespiere 
cũng đã đưa ra một chương trình dân chủ rộng lớn. Nguyên tắc cơ bản là thừa nhận chủ 
TÍNH CÁCH MẠNG TRONG TRÀO LƯU TRIẾT HỌC ÁNH SÁNG PHÁP... 
93 
quyền vô hạn của nhân dân. Ông khẳng định: “Nhân dân là người có chủ quyền, còn 
chính phủ do nhân dân thành lập ra và là sở hữu của dân, các tổ chức xã hội là đầy tớ 
của dân”. Nhưng ông cũng nhận thức rõ muốn thể hiện quyền lực của nhân dân thì phải 
đảm bảo lợi ích cho nhân dân, tức mọi người đều được nhận ruộng đất. Đây là tư tưởng 
rất tiến bộ thể hiện tối đa quyền lực của nhân dân. Tất cả những tư tưởng trên được đúc 
kết trong tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789 với đoạn mở đầu 
khẳng định rằng “Mọi người sinh ra đều có quyền sống tự do và bình đẳng”. 
Thứ ba, các nhà triết học Ánh Sáng đã phủ nhận thế giới quan duy tâm thần bí của 
Giáo hội Thiên chúa, xoá bỏ sự chi phối của Thượng đế trong mọi lĩnh vực của xã 
hội. 
Thiên chúa giáo 1 cũng như các tôn giáo khác được sáng lập ra với mục đích hướng con 
người tới cái thiện, cái tốt đẹp. Tuy nhiên, trên con đường phát triển của mình, Thiên 
chúa giáo từ chỗ là một tôn giáo “của những người nô lệ, của những người tự do, của 
những người nghèo khổ và những dân tộc bị nô dịch” [13, tr. 409] đến thời Trung Cổ ở 
Tây Âu đã dần dần biến chất trở thành tôn giáo của bọn thống trị, là công cụ hữu hiệu 
của bọn vua chúa. Sở dĩ như vậy, vì giáo lý của tôn giáo này khuyên con người sống 
nhẫn nhục chịu đựng ở kiếp này để được hưởng hạnh phúc ở kiếp sau. Giai cấp phong 
kiến Tây Âu đã lợi dụng điều này, gieo vào trong nhân dân tư tưởng nhẫn nhục. Điều 
này làm xói mòn tư tưởng đấu tranh của họ, rất có lợi cho sự thống trị của chúng. Trong 
suốt thời trung kỳ trung đại ở Tây Âu nói chung, ở Pháp nói riêng, Thiên chúa giáo có 
một tầm ảnh hưởng rộng lớn, chi phối mọi mặt của xã hội. Thần quyền và thế quyền có 
sự dung hợp, liên kết vững chắc: “Nhà thờ đã dán cứng số phận mình vào chế độ quân 
chủ tuyệt đối áp bức” [1, tr. 62]. Quyền lợi của tầng lớp tăng lữ phụ thuộc chặt chẽ với 
chế độ phong kiến bởi vậy tôn giáo ngày càng bị biến chất so với bản chất ban đầu của 
nó, trở thành rường cột vững chắc cho nền thống trị phong kiến “Tôn giáo ủng hộ chính 
quyền dù chính quyền đó có độc ác thế nào đi nữa và ngược lại chính quyền ủng hộ tôn 
giáo dù tôn giáo có ngu ngốc và trống rỗng thế nào đi nữa” [12, tr. 50]. 
Mặt khác, giáo lý Thiên chúa giáo coi vạn vật trong vũ trụ đều do Thượng đế tạo nên: 
“Thượng đế là nguồn gốc phát sinh của thế giới”, “Thiên chúa là đấng sáng tạo nên 
trời đất và muôn loài từ hư không. Thiên chúa là đấng thiêng liêng sáng láng, là chúa tể 
của trời đất và muôn loài có quyền năng sắp xếp vận hành trật tự trong vũ trụ. Nói cách 
khác là tất cả sự tồn tại biến đổi trong vũ trụ đều do Thiên chúa tiền định một cách hợp 
lý và tuyệt đối” [1, tr. 56]. Luận điểm này đã làm mờ nhận thức khoa học của con người 
trong các lĩnh vực xã hội, chính nó là nguồn gốc cản trở bước tiến của khoa học và xã 
hội, khiến con người chìm đắm trong ngu muội, tạo điều kiện thuận lợi cho sự áp đặt 
thống trị của giai cấp phong kiến. “Lòng tin vào tôn giáo như một giải băng bịt mắt con 
người” [1, tr. 57], biến khoa học thành nô lệ của thần học. 
Kế thừa những thành tựu của nền văn hoá Phục Hưng, đồng thời trên nền tảng tiến bộ 
của các ngành khoa học tự nhiên trong các thế kỷ XVII-XVIII, giai cấp tư sản Pháp nói 
1 Thiên Chúa giáo là một nhánh của đạo Kitô. 
LÊ THÀNH NAM - TRẦN THỊ DUNG 
94 
chung, các nhà Triết học Ánh Sáng nói riêng đã sử dụng ý chí để nhận diện bản chất của 
các vấn đề xã hội. Họ nhận ra sự phi lý trong nhận thức theo quan niệm duy tâm thần 
học trước đó. Meslies khẳng định: “Bản thân vật chất chính là toàn bộ sự tồn tại. Sự tồn 
tại ấy sự vận động của nó chỉ bắt nguồn từ bản thân nó”, ông nhấn mạnh, mọi hiện 
tượng đều xuất phát từ bản thân nó chứ không do bất cứ một “đấng thượng đế nào”. 
Cùng tư tưởng trên, Diderot nhận định: “Tự nhiên là nguyên nhân của bản thân nó, là 
nguyên nhân và thực chất của mọi sự vật tồn tại”, “mọi vấn đề cần được tìm hiểu trên 
cơ sở các sự kiện được soi sáng bằng lý trí” [1, tr. 57]. Luận điểm này đi ngược lại 
quan niệm thần học kinh viện trung cổ, luôn giải thích mọi hiện tượng xã hội bằng ý chí 
của Thượng đế. Đồng thời ông cũng phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế trong việc giải 
thích các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội, ông chỉ rõ: “Không thể giả định rằng có 
một thực thể nào đó đứng bên ngoài vũ trụ vất chất, không bao giờ được giả định như 
vậy, bởi từ trong những giả định ấy không thể rút ra được một kết luận nào cả” [11, tr. 
158]. Trong chuyên luận “Hệ thống của tự nhiên”, Holbach viết: “Tất cả những hiện 
tượng mà ta quan sát thấy xuất phát một cách tự nhiên từ những nguyên nhân của mình, 
không kể là chúng ta biết được hay không biết được những nguyên nhân ấy” [11, tr. 
158]. 
Các nhà Triết học Ánh Sáng đã giáng những đòn mạnh mẽ và quyết liệt vào nền thần 
học kinh viện để xoá bỏ sự chi phối của thượng đế trong mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên 
và xã hội, mở đường cho nhận thức lý tính, thế giới quan khoa học phát triển. Đánh giá 
về các nhà triết học Ánh sáng, một sử gia nhận định: “Họ (các nhà triết học) không chỉ 
dừng lại trong việc lật tẩy kẻ ngự trị trong ngai vàng, tố cáo tăng lữ và quý tộc là những 
kẻ ăn bám của xã hội, xoá bỏ những hào quang thần thánh của giáo hội đã sử dụng để 
cầm tù nô lệ về mặt trí tuệ mà điều quan trọng nhất, cách mạng nhất chính là ở chỗ 
chứng minh về quyền được hưởng tự do của con người, vì nhân dân là nguồn gốc chủ 
quyền quốc gia, đề ra những thiết chế chính trị, các mô hình xã hội mới” [8, tr. 23]. 
Tóm lại, những quan điểm mà các nhà triết học Ánh Sáng đưa ra trong cuộc đấu tranh 
tư tưởng như đã trình bày ở trên là rất tiến bộ, mang tính chất vạch thời đại. Họ đã cho 
ra đời một hệ tư tưởng mới, tiến bộ và cách mạng. Sự ra đời của trào lưu tư tưởng này là 
một trong những tiền đề cần thiết đảm bảo cho sự thắng lợi triệt để của cuộc cách mạng 
tư sản Pháp vào cuối thế kỷ XVIII: “Tính phổ quát và triệt để của cuộc cách mạng dân 
chủ vĩ đại này gắn liền với tư tưởng ánh sáng và có thể nói rằng ở một mặt nào đó, cuộc 
cách mạng này là của tư tưởng ánh sáng. Sự vĩ đại của cuộc cách mạng này chính là 
nhờ được chắp những đôi cánh tư tưởng đầy khát vọng khổng lồ của Montesquieu, 
Diderot, Rousseau. Chính tư tưởng của các nhà văn này đã tạo nên những huyền thoại, 
những ánh hào quang cho cuộc cách mạng Pháp” [1, tr. 5]. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Đại học Sư phạm Huế - Đại học Khoa học Huế, Liên khoa Lịch sử - TTKH Xã hội 
Nhân văn (2009). Kỷ yếu hội thảo khoa học 220 năm cách mạng Pháp (1789–2009) 
và quan hệ Việt – Pháp trong lịch sử. Huế. 
TÍNH CÁCH MẠNG TRONG TRÀO LƯU TRIẾT HỌC ÁNH SÁNG PHÁP... 
95 
[2] Phan Ngọc Liên (2008). Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông. NXB Hà Nội. 
[3] Lê Tôn Nghiêm (2000). Lịch sử triết học phương Tây, Tập 3. NXB TP Hồ Chí Minh. 
[4] Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng (2009). Lịch sử thế giới cận đại. NXB Giáo dục, 
Hà Nội. 
[5] Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn Ánh, Đỗ Đình Hãng, Trần Văn La (1999). Lịch sử thế 
giới trung đại. NXB Giáo dục, Hà Nội. 
[6] Bùi Thanh Quất, Vũ Tình (2002). Lịch sử triết học. NXB Giáo dục, Hà Nội. 
[7] Lưu Kiếm Thanh, Phạm Hồng Thái (dịch) (1993). Lịch sử các học thuyết chính trị. 
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[8] Phạm Văn Thắng (2003). Cách mạng tư sản với cuộc đấu tranh chống giáo hội thiên 
chúa giáo thời cận đại. Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, Số 5 (53). 
[9] Đặng Thanh Tịnh (2006). Lịch sử nước Pháp. NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội. 
[10] Trần Văn Trị (1989). Cách mạng Pháp 1789. NXB Giáo dục. 
[11] Viện hàn lâm khoa học Liên Xô (1962). Lịch sử triết học - Triết học thời kỳ tiền tư 
bản chủ nghĩa - Triết học Khai Sáng từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX. Nxb Sự thật, 
Hà Nội. 
[12] A. Manfrêt (1965). Đại cách mạng Pháp 1789. NXB Khoa học, Hà Nội. 
[13] Mác & Ăng-ghen (1962). Tuyển tập. Tập 1, NXB Sự thật, Hà Nội. 
Title: THE REVOLUTION IN THE TREND OF THE FRENCH ENLIGHTENING 
PHILOSOPHY IN THE 18th CENTURY 
Abstract: Based on the materials published, the article presents the new explanations about the 
trend of the French Enlightening Philosophy. First of all, it denied the institution of old state – 
feudalism, put forward the institution of new state – republicanism; second, it promoted the 
rights of freedom for human; third, it attacked directly Christian ideology which obstructed 
awareness of human in the Middle Ages. Such explanations justify the revolution and progress 
of this trend of philosophy. These aspects pushed up the French bourgeois revolution and made 
its thorough one in the pre-modern period. 
ThS. LÊ THÀNH NAM 
Khoa Lịch Sử, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế 
TRẦN THỊ DUNG 
Sinh viên khoa Lịch Sử, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế 

File đính kèm:

  • pdftinh_cach_mang_trong_trao_luu_triet_hoc_anh_sang_phap_the_ky.pdf