Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về động lực của lịch sử

Tóm tắt: Trước C.Mác và Ph.Ăngghen, loài người chưa nhận thức đúng đắn

về bản chất của lịch sử và động lực phát triển của nó. C.Mác và Ph.Ăngghen là

những người đầu tiên nhận thức đúng đắn về bản chất của lịch sử và động lực

phát triển của lịch sử. Tác giả bài viết phân tích quan điểm C.Mác và

Ph.Ăngghen về động lực của lịch sử và khẳng định rằng, quan điểm đúng đắn

này vẫn là cơ sở lý luận khoa học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn

pdf 8 trang phuongnguyen 720
Bạn đang xem tài liệu "Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về động lực của lịch sử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về động lực của lịch sử

Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về động lực của lịch sử
Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về động lực của lịch sử 
 17 
QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN 
VỀ ĐỘNG LỰC CỦA LỊCH SỬ 
ĐẶNG QUANG ĐỊNH * 
Tóm tắt: Trước C.Mác và Ph.Ăngghen, loài người chưa nhận thức đúng đắn 
về bản chất của lịch sử và động lực phát triển của nó. C.Mác và Ph.Ăngghen là 
những người đầu tiên nhận thức đúng đắn về bản chất của lịch sử và động lực 
phát triển của lịch sử. Tác giả bài viết phân tích quan điểm C.Mác và 
Ph.Ăngghen về động lực của lịch sử và khẳng định rằng, quan điểm đúng đắn 
này vẫn là cơ sở lý luận khoa học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn. 
Từ khóa: Chủ nghĩa Mác, lịch sử, động lực của lịch sử. 
Trước C. Mác, những tư tưởng triết 
học về lịch sử đã được đề xuất bởi các 
nhà tư tưởng xuất sắc trong xã hội tư 
sản. Vicô, Rútxô, Hécđơ, Cantơ, Hêghen, 
Xanhximông và cả một số nhà sử học đã 
nhận thấy yêu cầu cấp bách phải nhận 
thức lịch sử nhân loại trong một quá 
trình thống nhất và phải tìm ra cái cơ sở, 
cái lôgíc và những quy luật của toàn bộ 
lịch sử. Tuy nhiên, do bị hạn chế bởi lập 
trường giai cấp và thế giới duy tâm hoặc 
duy vật không triệt để nên tất cả các nhà 
tư tưởng trước C. Mác chưa có một sự 
nhận thức và giải thích đúng bản chất 
của lịch sử, chưa tìm ra được quy luật 
chi phối và động lực của nó. 
Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, 
C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày quan 
điểm triết học về lịch sử với một cách 
tiếp cận hoàn toàn mới so với toàn bộ 
quan niệm của các nhà triết học trước đó. 
Trong tác phẩm này, lần đầu tiên, C.Mác 
và Ph.Ăngghen đã khẳng định quan điểm 
của mình coi con người là điểm xuất phát 
của nhận thức triết học khoa học về lịch 
sử. C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Những 
tiền đề xuất phát của chúng tôi không 
phải là những tiền đề tuỳ tiện, không 
phải là giáo điều; đó là những tiền đề 
hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua 
trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những 
cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ 
và những điều kiện sinh hoạt vật chất 
của họ, những điều kiện mà họ thấy sẵn 
có cũng như những điều kiện do hoạt 
động của chính họ tạo ra. Như vậy, 
những tiền đề ấy có thể kiểm nghiệm 
được bằng con đường kinh nghiệm 
thuần tuý”(1). 
(*) Tiến sĩ, Viện Triết học, Học viện Chính trị - 
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. 
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 
3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 28 - 29. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68) - 2013 
 18 
Không phải chỉ C.Mác và Ph.Ăngghen 
mới có tư tưởng coi con người là đối 
tượng của triết học. Nhiều nhà triết học 
trước đó cũng có tư tưởng này. Tuy nhiên, 
quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen có 
sự khác biệt về chất so với các quan 
niệm của các nhà triết học trước đó khi 
các ông chỉ ra đúng bản chất của con 
người và lấy đó làm cơ sở cho những 
nghiên cứu của mình về lịch sử. C.Mác 
và Ph.Ăngghen viết: “Lịch sử không 
làm gì hết, nó “không có tính phong phú 
vô cùng tận nào cả”, nó “không chiến 
đấu ở những trận nào cả”! Không phải 
“lịch sử”, mà chính con người, con 
người thực sự, con người sống mới là kẻ 
làm ra tất cả những cái đó, có tất cả 
những cái đó và chiến đấu cho tất cả 
những cái đó. “Lịch sử” không phải là 
một nhân cách đặc thù nào đó sử dụng 
con người làm phương tiện đạt tới các 
mục đích của mình. Lịch sử chẳng qua 
là hoạt động của con người theo đuổi 
mục đích của bản thân mình”(2). Tư 
tưởng trên của C.Mác và Ph.Ăngghen 
trái ngược với quan điểm của Hêghen, 
Brunô Bauơ, cho rằng lịch sử là sản 
phẩm của tư tưởng, tinh thần, thậm chí 
có thể sáng tạo được bởi những đầu óc 
“có tinh thần phê phán”. Quan điểm này 
phủ nhận vai trò của quần chúng nhân 
dân trong lịch sử, trong khi C.Mác và 
Ph.Ăngghen coi hoạt động của quần 
chúng nhân dân là động lực cơ bản của 
quá trình phát triển lịch sử. 
Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác - 
Lênin tuy chưa đưa ra một định nghĩa 
nào về động lực phát triển xã hội, nhưng 
đã chỉ ra động lực của lịch sử là nhân tố 
kích thích, thúc đẩy con người hoạt 
động. Xét đến cùng, đó chính là lợi ích . 
Trong tác phẩm Gia đình thần thánh, 
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, lợi ích 
chính là cái thoả mãn nhu cầu nào đó 
của con người và được đặt trong quan 
hệ giữa con người với nhau, làm cơ sở 
cho việc xác lập quan hệ giữa họ. Lợi 
ích chỉ xuất hiện khi nó được đặt trong 
mối quan hệ giữa các chủ thể có cùng 
đối tượng thỏa mãn nhu cầu. Về bản 
chất, lợi ích là cái phản ánh quan hệ của 
các chủ thể nhu cầu, còn nội dung là để 
thỏa mãn nhu cầu của chủ thể ấy.(2) 
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, hành vi 
của mỗi cá nhân trong xã hội suy cho 
cùng đều nhằm tìm kiếm lợi ích hoặc 
những điều kiện để thực hiện những lợi 
ích khác nhau. Trên cơ sở lợi ích mà 
quan hệ của các cá nhân, các giai cấp, 
tầng lớp trong xã hội có thể là thống 
nhất hoặc đối lập với nhau. Những lợi 
ích của các chủ thể có khi thống nhất 
với nhau, có khi đối lập nhau và do đó, 
các hành động của các chủ thể cũng diễn 
ra theo hướng như vậy. Hợp lực của 
(2) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, 
tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 141. 
Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về động lực của lịch sử 
 19 
những hành động tạo nên các sự biến 
lịch sử và tập hợp các sự biến ấy chính 
là xã hội. “Lịch sử đã diễn ra theo cách 
mà kết quả cuối cùng luôn luôn thu 
được từ những xung đột của nhiều ý chí 
riêng biệt, hơn nữa mỗi ý chí trong số đó 
trở thành cái như nó hiện có lại chính 
nhờ rất nhiều những điều kiện sống đặc 
biệt. Như vậy, có một số vô tận những 
lực giao nhau, một nhóm vô tận những 
hình bình hành, vì sự đan chéo này mà 
xuất hiện một hợp lực”(3). Hợp lực này 
theo một phương thức nhất định trở 
thành động lực cơ bản thúc đẩy xã hội 
phát triển. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng 
Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, 
lợi ích là cơ sở của mọi cuộc đấu tranh 
giai cấp, đấu tranh giai cấp thông qua 
cách mạng xã hội là một trong những 
động lực cơ bản của xã hội có đối 
kháng giai cấp. Về sau, C.Mác và 
Ph.Ăngghen viết rằng, trong gần bốn 
mươi năm, chúng tôi đã nhấn mạnh vấn 
đề đấu tranh giai cấp, coi đó là động lực 
trực tiếp của lịch sử, đặc biệt là đấu 
tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và 
giai cấp vô sản; coi đó là đòn bẩy vĩ đại 
của cuộc cách mạng xã hội hiện đại. 
Khi phân tích về thực chất của cách 
mạng xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen cho 
rằng, cách mạng là sự thực hiện lợi ích 
của quần chúng. Quần chúng chỉ làm cách 
mạng nếu họ thấy lợi ích của mình được 
phản ánh trong lợi ích chung. “Ở đâu 
không có lợi ích chung thì ở đó không thể 
có sự thống nhất về mục đích và cũng 
không thể có sự thống nhất về hành động 
được”(4). C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng 
định rằng chính hoạt động của đông đảo 
quần chúng nhân dân hướng theo một 
lợi ích chung là động lực cơ bản nhất 
của lịch sử. Điều này là cơ sở để C.Mác 
và Ph.Ăngghen chỉ ra động lực của quần 
chúng nhân dân thông qua cuộc cách 
mạng cộng sản tương lai – một cuộc 
cách mạng không chỉ vì lợi ích của thiểu 
số như các giai cấp bóc lột trước đây 
nhân danh lợi ích chung để “khêu gợi” 
sự nhiệt tình của quần chúng nữa. 
C.Mác và Ph.Ăngghen viết: "trong hết 
thảy các cuộc cách mạng trước đây, tính 
chất hoạt động bao giờ cũng vẫn giữ 
nguyên như cũ, - và bao giờ cũng vẫn 
chỉ là phân phối hoạt động ấy một cách 
khác, chỉ là một sự phân phối lao động 
mới cho những người khác; trái lại, cách 
mạng cộng sản chủ nghĩa là nhằm chống 
lại tính chất hoạt động trước đây, nó xoá 
bỏ lao động và thủ tiêu sự thống trị của 
mọi giai cấp cùng với bản thân các giai 
cấp, vì nó được thực hiện bởi một giai 
cấp không còn được coi là một giai cấp 
trong xã hội nữa, không được thừa nhận 
là giai cấp và đã biểu hiện sự tan rã của 
(3) C.Mác và Ph.Ăngghen (1997), Toàn tập, 
tập 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 643. 
(4) C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, 
tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 21. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68) - 2013 
 20 
mọi giai cấp, của mọi dân tộc,... trong 
khuôn khổ xã hội ngày nay"(5). 
C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng, 
thực chất của cách mạng xã hội là việc 
giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản 
xuất và quan hệ sản xuất. Việc giải 
quyết mâu thuẫn này tạo ra động lực cho 
sự phát triển. C. Mác viết: “lực lượng sản 
xuất có hai chức năng là sáng tạo ra của 
cải vật chất và là động lực biến đổi xã 
hội”(6). Trong tác phẩm Hệ tư tưởng 
Đức, khi C.Mác và Ph.Ăngghen phân 
tích về sự vận động biện chứng của lực 
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 
(hình thức giao tiếp), về cơ bản ông đã 
hoàn thành lời giải đáp cho vấn đề động 
lực phát triển xã hội theo quan điểm của 
chủ nghĩa duy vật mới. C.Mác và 
Ph.Ăngghen viết: "Theo quan điểm của 
chúng tôi, tất cả mọi xung đột trong lịch 
sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa lực 
lượng sản xuất và hình thức giao tiếp 
(quan hệ sản xuất)"(7); "Mâu thuẫn giữa 
lực lượng sản xuất và hình thức giao 
tiếp (quan hệ sản xuất) đã xảy ra nhiều 
lần trong lịch sử từ trước đến nay, song 
vẫn không làm hại đến cơ sở của nó, thì 
lần nào cũng đều phải nổ ra thành một 
cuộc cách mạng, đồng thời lại mang 
những hình thức phụ khác nhau: tổng 
thể những xung đột, những sự xung đột 
giữa các giai cấp khác nhau, những mâu 
thuẫn về ý thức, đấu tranh tư tưởng, đấu 
tranh chính trị, v.v.. Đứng trên quan 
điểm thiển cận, ta có thể nắm lấy một 
trong những hình thức phụ đó và coi nó 
là cơ sở của những cuộc cách mạng ấy; 
việc đó lại càng dễ dàng khi bản thân 
những cá nhân tiến hành cách mạng tuỳ 
theo trình độ văn hoá của mình và tuỳ 
theo trình độ phát triển của lịch sử mà tự 
tạo ra cho mình đủ loại ảo tưởng về hoạt 
động của riêng mình"(8). Từ quan điểm 
này, C.Mác và Ph.Ăngghen đồng thời 
phê phán quan điểm của các nhà duy 
tâm cho rằng: sự phê phán mới là động 
lực của lịch sử; chỉ cần tiến hành đấu 
tranh chống lại những ảo tưởng của ý 
thức mà thôi; chỉ cần “đổi” ý thức hiện 
nay của mình lấy ý thức con người, có 
tính phê phán hay ích kỷ; chỉ có sự phê 
phán và những nhà phê phán mới làm 
nên lịch sử. 
Như vậy, căn nguyên của những mâu 
thuẫn giai cấp đều bắt nguồn từ lợi ích 
kinh tế. Xét đến cùng, mọi cuộc cách 
mạng được tiến hành để thực hiện lợi 
ích kinh tế. Vì thế cho nên, cần phải tìm 
nguồn gốc của những hiện tượng xã hội 
ở trong những quan hệ sản xuất và phải 
quy những hiện tượng ấy vào lợi ích của 
những giai cấp nhất định. 
(5) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, 
tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 100. 
(6) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 
42, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.349-351. 
(7) Sđd, tr. 107. 
(8) Sđd, tr. 107 - 108. 
Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về động lực của lịch sử 
 21 
Có thể nói, quan điểm của triết học 
Mác về lịch sử và động lực lịch sử là sự 
kế thừa, sự tổng kết, đúc rút từ thực tiễn 
sống động của đời sống xã hội. Tuy 
nhiên, quan điểm của C.Mác và 
Ph.Ăngghen đã thể hiện tính khoa học 
sâu sắc, bởi vì các ông đã rút ra được 
quy luật chi phối sự vận động và biến 
đổi của lịch sử từ chính những sự kiện 
đơn lẻ và ngẫu nhiên ấy. 
 Chính C.Mác là người đầu tiên đã 
khám phá ra quy luật vĩ đại của sự vận 
động lịch sử, quy luật mà theo đó tất cả 
mọi cuộc đấu tranh lịch sử, không kể nó 
diễn ra trên địa hạt chính trị, tôn giáo, 
hay bất kỳ một địa hạt tư tưởng nào 
khác - thực ra chỉ là biểu hiện ít nhiều rõ 
rệt của cuộc đấu tranh của các giai cấp 
trong xã hội. Sự xung đột giữa các giai 
cấp với nhau, cũng đều được quyết định 
bởi trình độ phát triển của địa vị kinh tế 
của họ, bởi tính chất và phương thức sản 
xuất và bởi sự trao đổi do tính chất và 
phương thức sản xuất quyết định. Chính 
dựa trên cách hiểu này về quy luật lịch 
sử mà C.Mác và Ph.Ăngghen có cơ sở 
để chỉ ra động lực của lịch sử; đó là hoạt 
động của quần chúng nhân dân thông 
qua các cuộc cách mạng. Với quan niệm 
về quần chúng nhân dân và về vai trò 
của họ trong cách mạng xã hội, tư tưởng 
của C.Mác và Ph.Ăngghen về lịch sử đã 
được cụ thể hơn. Nó không còn chung 
chung cho rằng hoạt động của con người 
nữa, mà lịch sử ấy trước hết và căn bản 
là hoạt động theo đuổi lợi ích của đông 
đảo quần chúng nhân dân. 
Mặt khác, quan điểm của C.Mác và 
Ph.Ăngghen về động lực của lịch sử 
không phải dựa trên ý muốn chủ quan, 
mà được các ông khái quát, tổng kết từ 
lịch sử. Chính Ph.Ăngghen đã coi tác 
phẩm Ngày 18 tháng sương mù của Lui 
Bônapactơ của C.Mác là sự hiểu biết 
tuyệt vời về lịch sử sinh động đương 
thời, một sự nhận thức rõ ràng về ý 
nghĩa các sự kiện ngay giữa lúc chúng 
còn đang diễn ra. Theo Ph.Ăngghen, 
thành công của C.Mác là ở chỗ, ông có 
một kiến thức sâu sắc và rộng lớn về 
lịch sử nước Pháp và nhờ vậy, ông đã 
không bị bất ngờ trước các sự biến lịch 
sử đương thời. Thực tiễn các cuộc đấu 
tranh cách mạng đã trở thành cơ sở để 
xây dựng lý luận khoa học của chủ 
nghĩa Mác - Lênin và là môi trường để 
kiểm chứng cho tính đúng đắn của chính 
lý luận đó. 
Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen 
về động lực của lịch sử không chỉ thể 
hiện tính khoa học, mà nó còn thể hiện 
tính cách mạng sâu sắc. Tính cách mạng 
thể hiện ở chỗ, nó đã thay đổi căn bản 
nhận thức của con người về lịch sử của 
chính mình; rằng sự thay đổi xã hội 
không phải là công việc của những nhà 
tư tưởng, những nhà phê phán, không 
phải của vương công, đại thần hay một 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68) - 2013 
 22 
"con ma siêu hình" nào cả, mà nó phải 
bắt nguồn từ chính bàn tay và khối óc 
của quần chúng nhân dân. C.Mác và 
Ph.Ăngghen là những người đầu tiên 
nhìn thấy vai trò và sức mạnh vĩ đại của 
quần chúng nhân dân trong các thời kỳ 
lịch sử. Vì vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen 
đã cổ vũ cho sức mạnh to lớn của quần 
chúng nhân dân. Trong thời đại ngày 
nay, hạt nhân của khối quần chúng đông 
đảo ấy chính là giai cấp vô sản. 
Từ cách tiếp cận đúng đắn đó, C.Mác 
và Ph.Ăngghen đã hướng lý luận của 
mình vào cuộc đấu tranh thực tiễn của 
quần chúng nhân dân. Các ông cho rằng, 
lý luận chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó 
góp phần làm cho cuộc đấu tranh giai 
cấp của nhân dân lao động “không còn 
mang tính chất biệt phái, ngẫu nhiên” 
nữa, mà là hành động có tổ chức nhằm 
bảo vệ lợi ích của các giai cấp, các tầng 
lớp đông đảo người trong xã hội. 
C.Mác, Ph.Ăngghen đã từng phê phán 
những trường phái triết học xa rời thực 
tiễn đời sống xã hội. Ngay từ khi còn là 
biên tập viên của Báo Sông Ranh, C.Mác 
đã chỉ ra rằng, triết học cũng phải theo 
đuổi những mục đích thực tiễn hiểu theo 
ý nghĩa cao nhất của chữ đó như bất cứ 
hoạt động lao động nào khác của con 
người. C.Mác nói, các nhà triết học 
không mọc như nấm từ dưới đất lên, họ 
là sản phẩm của thời đại họ, của nhân 
dân họ, những nhựa sống tinh tế nhất, 
quý giá nhất và chưa từng có của nhân 
dân được chung đúc lại trong những tư 
tưởng triết học. Cũng như cái tinh thần 
xây dựng nên đường sắt với bàn tay của 
người công nhân, xây dựng nên những 
hệ thống triết học trong đầu óc của nhà 
triết học. Triết học không lơ lửng ở đâu 
ngoài thế giới cũng như bộ óc không 
nằm ngoài con người. C.Mác phản đối 
quan điểm cho rằng, triết học chỉ quan 
sát hiện thực và không có quan hệ gì với 
hoạt động thực tiễn, với sự biến đổi chế 
độ xã hội. Tháng 9 năm 1843, trong thư 
gửi A.Rugiơ, C.Mác cũng cho rằng: 
nhiệm vụ của triết học không phải là xây 
dựng lên một hệ thống thích dụng “đối 
với mọi thời đại sau này”, mà là phê 
phán thẳng tay mọi cái đang tồn tại. 
Trong cuộc đấu tranh chống lại các hệ 
tư tưởng phản động, C.Mác viết: triết 
học cũng cần gắn liền với cuộc đấu 
tranh hiện thực. Cuộc đấu tranh mà 
C.Mác và Ph.Ăngghen nói đến là cuộc 
đấu tranh vì lợi ích của nhân dân lao 
động, trước hết là giai cấp công nhân. 
Trong tác phẩm Lời nói đầu của cuốn 
Góp phần phê phán triết học pháp 
quyền của Hêghen, C.Mác đã trình bày 
một tư tưởng rất quan trọng về mối liên 
hệ giữa lý luận cách mạng và thực tiễn 
cách mạng. Ông cho rằng, lý luận cách 
mạng phản ánh yêu cầu, địa vị lịch sử và 
hoạt động đấu tranh của giai cấp cách 
mạng. Trong đó, C.Mác đặc biệt đề cao 
Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về động lực của lịch sử 
 23 
vai trò của lý luận triết học. C.Mác cho 
rằng, lý luận không chỉ có nhiệm vụ 
nhận thức ra yêu cầu, địa vị, hoạt động 
của quần chúng, mà còn phải có khả 
năng thâm nhập vào quần chúng và trở 
thành lực lượng vật chất. Tư tưởng này 
được thể hiện tập trung ở trong luận 
điểm: "Giống như triết học thấy giai cấp 
vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai 
cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí 
tinh thần của mình, và chỉ cần sấm sét 
của tư tưởng đánh một cách triệt để vào 
cái mảnh đất nhân dân còn nguyên vẹn 
ấy là việc giải phóng người Đức thành 
con người sẽ hoàn thành"; "Đầu não của 
sự giải phóng ấy là triết học, trái tim của 
nó là giai cấp vô sản. Triết học không 
trở thành hiện thực nếu không xóa bỏ 
giai cấp vô sản; giai cấp vô sản không 
thể xoá bỏ được bản thân mình nếu 
không làm cho triết học biến thành hiện 
thực”(9). Tư tưởng trên của C.Mác cũng 
được thể hiện rõ nét nhất trong tác phẩm 
Luận cương về Phoiơbắc trước khi 
C.Mác viết tác phẩm Hệ tư tưởng Đức. 
Trong luận đề thứ 11, C.Mác viết: “Các 
nhà triết học đã giải thích thế giới bằng 
nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải 
tạo thế giới”(10). Luận đề đó của C.Mác 
không những chỉ rõ vai trò của triết học 
đối với hiện thực, mà còn nêu lên một 
cách vắn tắt và sâu sắc thực chất cuộc 
cách mạng trong triết học do C.Mác và 
Ph.Ăngghen thực hiện. 
Tất cả những nội dung trên đã cho thấy 
tính khoa học và tính cách mạng trong 
quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về 
lịch sử và động lực của lịch sử. Sự nhận 
thức và vận dụng đúng những quan 
điểm đó trong hoàn cảnh lịch sử – cụ thể 
là điều có ý nghĩa lớn lao đối với tiến 
trình lịch sử nhân loại nói chung và thực 
tiễn cách mạng nước ta nói riêng.(9) 
Quan niệm về lịch sử trong chủ nghĩa 
Mác đã và đang chứng tỏ vai trò to lớn 
của nó đối với sự phát triển nhận thức, 
tinh thần và hiện thực của xã hội loài 
người, trước hết là cuộc đấu tranh của 
giai cấp công nhân và phong trào giải 
phóng dân tộc trên thế giới. Lịch sử nhân 
loại ngày nay đã có nhiều thay đổi lớn 
lao, nhưng Chủ nghĩa Mác vẫn chứng tỏ 
được sức sống của nó. Bất cứ những ai 
nghiên cứu về xã hội, về lịch sử đều có 
thể tìm thấy trong chủ nghĩa Mác những 
cơ sở khoa học cho lời giải đáp. 
Ngoài ra, từ chỗ phản ánh khách 
quan, khoa học quá trình tất yếu của 
lịch sử nhân loại, Chủ nghĩa Mác còn 
cung cấp những quan điểm, nguyên tắc 
chung, cơ bản để nhận thức, giải thích 
chính xác về cơ bản những chế độ xã 
hội và con đường để xây dựng xã hội 
mới - xã hội cộng sản. 
(9) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, 
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 589 - 590. 
(10) C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, 
tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.12. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68) - 2013 
 24 

File đính kèm:

  • pdfquan_diem_cua_c_mac_va_ph_angghen_ve_dong_luc_cua_lich_su.pdf