Vai trò của triết học hy lạp cổ đại đối với sự hình thành và phát triển triết học Mác

Tóm tắt: Để tạo nên một cuộc cách mạng trong triết học, C.Mác và

Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán toàn bộ tinh hoa văn hóa của

nhân loại lúc bấy giờ. Vì thế, không chỉ có triết học cổ điển Đức, mà triết học

Hy Lạp cổ đại cũng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự hình thành và

phát triển triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung. Bài viết phân tích

những tác động của nền triết học ấy đối với C.Mác và Ph.Ăngghen. Từ khi còn

ngồi trên ghế nhà trường phổ thông, cũng như trong giai đoạn chín muồi về

sau, C.Mác luôn đánh giá cao tư tưởng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, coi

đó là vũ khí lý luận hữu hiệu cần khai thác để đấu tranh, phê phán trật tự xã hội

cũ và xây dựng lý luận mới.

pdf 9 trang phuongnguyen 940
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của triết học hy lạp cổ đại đối với sự hình thành và phát triển triết học Mác", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của triết học hy lạp cổ đại đối với sự hình thành và phát triển triết học Mác

Vai trò của triết học hy lạp cổ đại đối với sự hình thành và phát triển triết học Mác
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(85) - 2014 
 44 
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI ĐỐI VỚI 
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC 
NGUYỄN CHÍ HIẾU * 
Tóm tắt: Để tạo nên một cuộc cách mạng trong triết học, C.Mác và 
Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán toàn bộ tinh hoa văn hóa của 
nhân loại lúc bấy giờ. Vì thế, không chỉ có triết học cổ điển Đức, mà triết học 
Hy Lạp cổ đại cũng đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự hình thành và 
phát triển triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung. Bài viết phân tích 
những tác động của nền triết học ấy đối với C.Mác và Ph.Ăngghen. Từ khi còn 
ngồi trên ghế nhà trường phổ thông, cũng như trong giai đoạn chín muồi về 
sau, C.Mác luôn đánh giá cao tư tưởng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, coi 
đó là vũ khí lý luận hữu hiệu cần khai thác để đấu tranh, phê phán trật tự xã hội 
cũ và xây dựng lý luận mới. 
Từ khóa: Hy Lạp cổ đại, triết học, triết học Mác. 
Cũng như bất kỳ một hệ thống triết 
học nào khác, triết học Mác không ra 
đời từ mảnh đất trống không, mà sự xuất 
hiện của nó luôn dựa trên những tiền đề 
kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học, lý 
luận và thực tiễn nhất định. Để tạo nên 
một cuộc cách mạng trong triết học, 
C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một 
cách có phê phán toàn bộ tinh hoa văn 
hóa của nhân loại lúc bấy giờ. Nói một 
cách hình ảnh thì các ông đã biết “đứng 
lên vai những người khổng lồ” tiền bối 
trong lịch sử. Vì thế, không chỉ có triết 
học cổ điển Đức với hệ thống của 
Hêghen và Phoiơbắc - những tiền đề lý 
luận trực tiếp nhất (đã được đề cập khá 
nhiều và chi tiết trong các công trình, 
giáo trình triết học) - mà nền triết học 
Hy Lạp cổ đại cũng có một vai trò hết 
sức quan trọng đối với sự hình thành và 
phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, triết 
học Mác nói riêng. Chính vì vị trí có 
tầm quan trọng đặc biệt như vậy của 
triết học Hy Lạp cổ đại, nên trong bài 
viết này, chúng tôi phân tích vai trò và ý 
nghĩa của triết học đó đối với sự hình 
thành triết học Mác.(*) 
Trong thời gian từ thế kỷ thứ VIII 
đến thế kỷ thứ II trước Công nguyên 
(tr.CN) đã xuất hiện một loạt các nhà 
triết học với các học thuyết triết học đa 
dạng, phong phú từ Đông sang Tây, 
trong đó có nền triết học Hy Lạp cổ đại 
phát triển hết sức rực rỡ. Đây là một 
khoảng thời gian “kỳ lạ” không lặp lại 
trong lịch sử toàn thế giới. Nhà triết học 
Đức K.Jaspers đã gọi khoảng thời gian 
lịch sử ấy là “thời gian trục”. Trong tác 
(*) Tiến sĩ, Học viện Chính trị Khu vực I. 
Vai trò của triết học Hy Lạp cổ đại... 
 45 
phẩm “Mục đích và nội dung của lịch 
sử”, ông viết: “Nhiều thứ bất bình 
thường đã diễn ra vào thời gian này. Khi 
đó Khổng Tử và Lão Tử đã sống ở 
Trung Quốc, tất cả mọi khuynh hướng 
triết học Trung Quốc đã xuất hiện. Tại 
Ấn Độ, Upanishad đã xuất hiện, Phật đã 
sống...; tại Iran, Zarathustra đã dạy về 
thế giới trong đó diễn ra cuộc đấu tranh 
giữa cái thiện và cái ác; các nhà tiên tri 
Italia, Irắc, Ieremia,... đã phát biểu ở 
Palestin; ở Hy Lạp - đó là thời kỳ của 
Hôme, Pácmênít, Hêraclít, Platôn... Tất 
cả những gì gắn liền với tên tuổi ấy đều 
xuất hiện dường như đồng thời trong 
suốt mấy thế kỷ ở các nơi nêu trên độc 
lập với nhau. Vào thời đại đó, người ta 
đã xây dựng các phạm trù cơ bản mà 
hiện nay tư duy ta vẫn dựa vào, đã đặt 
cơ sở cho các tôn giáo thế giới mà ngày 
nay vẫn có ảnh hưởng mạnh. Chính vào 
thời kỳ này, con người đã ý thức được 
toàn bộ tồn tại của mình, bản thân mình 
không phải như một thực thể khép kín 
mà như một thực thể phổ biến. Những 
chuyển biến diễn ra vào “thời gian trục” 
có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển 
sau đó. Khi đó đã diễn ra một bước 
ngoặt lớn nhất trong lịch sử”(1). Jaspers 
chỉ ghi nhận có “thời gian trục” mà 
không giải thích nó đã xuất hiện như thế 
nào. Nhiều triết gia sau Jaspers đã cố 
gắng lý giải nguyên nhân xuất hiện của 
“thời gian trục”, nhưng có lẽ nó sẽ vẫn 
mãi là một câu đố bí ẩn của lịch sử. 
Trong lịch sử văn minh thế giới, văn 
minh Hy Lạp với những thành tựu tuyệt 
vời và phong cách đặc sắc đã tạo nên 
một ảnh hưởng vô cùng to lớn đối với 
phương Tây nói riêng và toàn thể nhân 
loại nói chung. Hy Lạp cổ đại là cái nôi 
của nền văn minh phương Tây. Không 
có Hy Lạp cổ đại thì không thể tưởng 
tượng được văn minh phương Tây sẽ 
như thế nào và rõ ràng, Châu Âu ngày 
nay mang dấu ấn truyền thống của nền 
văn minh Hy Lạp cổ đại. Điều đặc biệt 
chính là việc nền văn minh Hy Lạp cổ 
đại xuất hiện một cách hết sức đột ngột 
và có thể xem đó là một bí mật vẫn cần 
được các nhà nghiên cứu, nhà khoa học 
tiếp tục giải mã.(1) 
Hy Lạp cổ đại nằm ở đông bắc Địa 
Trung Hải, ngoài bán đảo Hy Lạp hiện 
nay còn bao gồm cả vùng biển Aegean, 
Macedo, Thrace, bán đảo Italia và vùng 
tiểu Á. Khởi nguồn của nền văn minh 
Hy Lạp cổ đại được ghi nhận vào 
khoảng năm 5000 tr.CN. Bắt đầu từ thời 
điểm ấy, văn minh Hy Lạp cổ đại đã có 
những bước tiến đáng kể, nhưng sau đó 
nền văn mình này lại biến mất một cách 
bí ẩn vào khoảng năm 1200 tr.CN. 400 
năm tiếp theo đó, Hy Lạp cổ ở vào thời 
kỳ mà các nhà nghiên cứu đánh giá là 
“thời kỳ tăm tối” của nền văn minh. Sau 
khi trải qua 4 thế kỷ của “thời kỳ tăm 
tối”, đến thế kỷ thứ VIII tr.CN, văn 
minh Hy Lạp cổ bỗng dưng lại xuất hiện 
với hình thái phát triển cao, vượt xa sức 
tưởng tượng của con người, với nhiều 
thành tựu rực rỡ mà ngày nay, người Hy 
(1) Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh 
Tuấn (2006), Đại cương lịch sử triết học phương 
Tây, Nxb Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, tr.10. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(85) - 2014 
 46 
Lạp vẫn rất tự hào và có quyền tự hào. 
Âm nhạc, mỹ thuật, hội họa, toán học, y 
học, vật lý, các áng thi ca, sử thi và đặc 
biệt là triết học cùng với nhiều lĩnh vực 
khác dường như đều bắt đầu từ nền văn 
minh Hy Lạp cổ đại và phát triển khởi 
sắc trong các giai đoạn sau của nền văn 
minh phương Tây. 
Người phương Tây coi hành trình trở 
về với văn minh Hy Lạp cổ đại là trở về 
với suối nguồn của văn minh Châu Âu 
hiện đại. Chính vì vậy mà ngay từ khi 
còn ngồi trên ghế nhà trường, các học 
sinh đã được trang bị từ rất sớm những 
kiến thức cơ bản về văn hóa Hy Lạp cổ 
đại. Vào thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen 
đến trường cũng đã là như vậy, cho nên 
không có gì là đáng ngạc nhiên khi 
trong thời gian học phổ thông trung học, 
C.Mác và Ph.Ăngghen đã được đào tạo 
khá kỹ lưỡng về lịch sử và văn hóa Hy 
Lạp cổ đại. Nhà trường rất chú trọng 
đến việc truyền thụ cho học sinh những 
kiến thức ngôn ngữ Hy Lạp và Latinh. 
C.Mác trẻ tuổi rất thích đọc các tác 
phẩm của Sếchxpia và trường ca của 
Hôme trong thư viện của Bá tước Phôn 
Vétxphalen - người sau này trở thành bố 
vợ của C.Mác. Như con gái Elêano của 
C.Mác nhớ lại thì đó chính là những tác 
giả được cha bà đặc biệt yêu thích. 
Ngay cả trong giai đoạn học tập tại 
trường Đại học ở Bon, C.Mác vẫn rất 
đam mê nghiên cứu văn học cổ đại. 
Chàng sinh viên C.Mác đã chăm chỉ dự 
các buổi giảng về Hôme của A.W. Phôn 
Slêghen - một trong những người đứng 
đầu trường phái lãng mạn tại Bon lúc 
bấy giờ. C.Mác trẻ tuổi còn rất hứng 
khởi nghe chuyên đề “Thần thoại Hy 
Lạp và La Mã” do chuyên gia F.G. 
Vếclơ thuyết giảng. 
Sau khi chuyển lên Béclin và nghiên 
cứu triết học, C.Mác vẫn dành khá nhiều 
thời gian cho niềm đam mê nghiên cứu 
lịch sử cổ đại của mình. C.Mác không 
bỏ qua các giờ giảng rất hấp dẫn về lịch 
sử nghệ thuật cổ đại của thầy Vincơman. 
Ngoài ra, C.Mác còn chịu khó dịch các 
đoạn trích trong tác phẩm gốc của 
Arixtốt từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Đức 
và điều này chứng tỏ ngay khi còn ngồi 
trên ghế giảng đường đại học C.Mác đã 
khá thành thạo thứ ngôn ngữ quan trọng 
này và đó cũng là điều kiện tiên quyết 
đối với những ai muốn nghiên cứu 
chuyên sâu về triết học Hy Lạp cổ đại. 
Vào năm học cuối cùng của thời sinh 
viên, C.Mác cũng nghe TS. Kêpơ giảng 
bài về Êpiquya. Như vậy, có thể thấy, 
ngay từ khi còn trẻ C.Mác đã ham thích 
và dành rất nhiều thời gian nghiên cứu 
lịch sử tư tưởng và văn học cổ đại. 
Chính vì thế, trong hầu hết các tác phẩm 
của C.Mác sau này, chúng ta đều thấy 
ông luôn đề cập ít nhiều tới văn hóa và 
triết học cổ đại. Kể cả cho tới khi đã cao 
tuổi, C.Mác vẫn say mê đọc các tác 
phẩm của các nhà tư tưởng cổ đại từ 
nguyên bản tiếng Hy Lạp. 
Tuy nhiên, chỉ từ năm 1839 trở đi, 
C.Mác mới chuyên tâm nghiên cứu các 
vấn đề triết học Hy Lạp cổ đại một cách 
có hệ thống. Kết quả là C.Mác đã hoàn 
thành và bảo vệ bản luận án tiến sĩ “Sự 
khác nhau giữa triết học tự nhiên của 
Vai trò của triết học Hy Lạp cổ đại... 
 47 
Đêmôcrít và triết học tự nhiên của 
Êpiquya”(2) vào năm 1841. Nhu cầu 
nghiên cứu chuyên sâu triết học cổ đại 
bắt nguồn từ việc C.Mác tham gia vào 
nhóm Hêghen trẻ ở Béclin. Sinh hoạt 
trong nhóm này còn có anh em nhà 
Bauơ, Rúttenbéc, Kôpen và những 
người khác. Nhóm này tuyên bố công 
khai sự phê phán đối với nhà nước Phổ, 
tôn giáo và triết học của nhà nước 
đương thời. Và để tiến hành phê phán, 
họ đã sử dụng triết học cổ đại như là 
một trong những vũ khí lý luận hữu hiệu 
để chống lại nền triết học và nền chính 
trị đang thống trị khi ấy. Rõ ràng, trên 
nhiều phương diện, triết học cổ đại đã 
thu hút được sự chú ý mạnh mẽ của 
những người trong phái Hêghen trẻ mà 
C.Mác cũng không là ngoại lệ. Điều này 
không phải là ngẫu nhiên. 
Sự quay trở lại với triết học cổ đại có 
một vị trí đặc biệt quan trọng trong 
phong trào giải phóng, chống phong 
kiến của giai cấp tư sản. Hy Lạp cổ đại 
với tổ chức thành bang có tính chất dân 
chủ được các nhà tư tưởng, các nhà văn 
tư sản tiến bộ thế kỷ XVIII - nửa đầu thế 
kỷ XIX coi là hình mẫu lý tưởng cho 
những tư tưởng và các yêu sách của họ. 
C.Mác và những người bạn đồng chí 
hướng đã nhanh chóng tận dụng triết 
học Hy Lạp cổ đại như là một phản đề 
triết học đối với những vấn đề lý luận, 
chính trị, tôn giáo của chế độ hiện tồn. 
Theo các nhà Hêghen trẻ, do tất cả 
các quan hệ chính trị, luật pháp và đạo 
đức xét đến cùng đều dựa trên các quan 
hệ tôn giáo cho nên họ tập trung mọi nỗ 
lực triết học của mình vào phê phán 
không khoan nhượng tôn giáo(3). Phản 
bác lại cách hiểu và chú giải triết học 
Hêghen của phái Hêghen già, họ cho 
rằng tư duy của Hêghen là có thiên 
hướng vô thần và chống Kitô giáo và do 
vậy, không tương dung với tôn giáo nhà 
nước Phổ. Chúng ta biết rằng, Hêghen 
luôn đề cao vị trí, vai trò của triết học 
Hy Lạp cổ đại trong lịch sử triết học thế 
giới. Chẳng hạn như Hêghen đặc biệt đề 
cao phép biện chứng của Hêraclít và coi 
Platôn và Arixtốt là những người thầy 
của nhân loại. Chính sự đánh giá cao 
này, cũng như tư tưởng chống Kitô giáo 
của Hêghen thời còn ở Bern đã là những 
điểm tựa lý luận để phái Hêghen trẻ 
chống lại hệ tư tưởng tôn giáo thống trị 
đương thời. Brunô Bauơ thường trích 
dẫn lại quan điểm của Hêghen về triết 
học Hy Lạp cổ đại trong tác phẩm 
“Những bài giảng về lịch sử triết học” 
như sau: “Khi nhắc đến đất nước Hy 
Lạp, thì đó là quê hương của những 
người có giáo dục ở Châu Âu và đặc biệt 
là của những người Đức chúng ta”(4). 
Tinh thần phê phán tôn giáo thể hiện 
rất rõ nét trong bản luận án tiến sĩ của 
C.Mác khi đề cập tới triết học Êpiquya. 
Đối với C.Mác thì “Êpiquya là một nhà 
khai sáng cấp tiến thực sự của thời cổ, 
(2) C.Mác - Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, t.40, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.269-350. 
(3) C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.3, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.27. 
(4) G.W.F.Hêghen (1999), Những bài giảng về 
lịch sử triết học, t.1, Nxb Suhrkamp. Frankfurt 
a. Main, tr.173. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(85) - 2014 
 48 
ông công khai công kích tôn giáo thời 
cổ, và chủ nghĩa vô thần của người La 
Mã - trong chừng mực nó tồn tại ở họ - 
cũng bắt nguồn từ ông”(5). 
Tóm lại, sau khi Hêghen mất thì vấn 
đề đặt ra đối với các nhà tư tưởng đương 
thời là triết học có thể và cần phải tiến 
lên như thế nào? Không hài lòng với 
tính chất có phần bảo thủ của phái 
Hêghen già, những người Hêghen trẻ đã 
nắm lấy triết học và lịch sử triết học Hy 
Lạp cổ đại để xây dựng và phát triển 
những tư tưởng triết học của mình. 
Chính những yếu tố phê phán (tôn giáo) 
cũng như mối liên minh chặt chẽ với 
triết học cổ đại trong cuộc chiến lý luận 
của phái Hêghen trẻ đã tác động trực 
tiếp tới sự lựa chọn đề tài luận án tiến sĩ 
của C.Mác. Với sự cẩn trọng khoa học 
vốn có, C.Mác đã nghiên cứu chuyên 
sâu lịch sử triết học cổ đại và đánh giá 
cao mối liên hệ giữa Arixtốt và Êpiquya. 
Êpiquya quy các nguyên nhân của tất 
cả các quá trình trong tự nhiên về các 
nguyên tử đang vận động trong khoảng 
không và gán cho các nguyên tử đang 
vận động ấy “có quyết định tự do” (sự 
chuyển động chệch hướng). Trong luận 
án, C.Mác cho rằng, triết học tự nhiên 
Êpiquya là đỉnh cao của triết học Hy 
Lạp cổ đại và coi Êpiquya là “nhà khai 
sáng Hy Lạp vĩ đại bậc nhất”(6). 
Thực ra, vào khoảng thời gian này 
(1838 - 1841) C.Mác vẫn còn đứng trên 
lập trường của chủ nghĩa duy tâm 
Hêghen, nhưng đã vượt ra khỏi quan 
điểm của Hêghen về lịch sử triết học khi 
nhấn mạnh đến tư tưởng vô thần và duy 
vật cũng như ý nghĩa của nó đối với việc 
xây dựng các quan hệ xã hội tiến bộ. 
Việc nghiên cứu chuyên sâu triết học 
Êpiquya đã tạo tiền đề và là động lực 
quan trọng để nghiên cứu chủ nghĩa duy 
vật cổ đại. Trong “Lời tựa” của luận án 
tiến sĩ, C.Mác còn dự định “phân tích 
cặn kẽ một chùm các học thuyết triết 
học của Êpiquya, của phái khắc kỷ và 
của phái hoài nghi trong mối quan hệ 
của những học thuyết ấy với toàn bộ tư 
duy tư biện Hy Lạp”. Sau khi đề cập tới 
công lao của Hêghen trong lĩnh vực lịch 
sử triết học, ngay lập tức C.Mác cũng 
đưa ra nhận xét có tính chất phê phán 
của mình: “Tuy rằng Hêghen, xét về 
toàn cục, đã xác định những nét chung 
của các hệ thống triết học đã nêu, nhưng 
với đề cương rộng lớn đến kinh ngạc và 
táo bạo của ông về lịch sử triết học - mà 
nói chung chỉ từ đó mới mở đầu lịch sử 
triết học - ông đã không thể đi vào các 
chi tiết. Mặt khác, quan điểm của 
Hêghen về điều mà ông gọi là tư biện 
chủ yếu, đã cản trở nhà tư tưởng vĩ đại 
ấy thừa nhận các hệ thống triết học kể 
trên có một ý nghĩa cao đối với lịch sử 
triết học Hy Lạp và đối với tinh thần Hy 
Lạp nói chung”(7). 
Sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ, C.Mác 
không có điều kiện nghiên cứu triết học 
cổ đại một cách có hệ thống như trước. 
Cuộc đấu tranh chính trị đã hướng 
(5) C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.3, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.186. 
(6) C.Mác - Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, t.40, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.348. 
(7) Sđd, tr.276. 
Vai trò của triết học Hy Lạp cổ đại... 
 49 
những suy ngẫm triết học của ông vào 
những mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư 
sản. Có thể nói, ngay từ năm 1843, 
C.Mác đã đoạn tuyệt với quan điểm duy 
tâm của Hêghen về lịch sử. Cùng với 
Ăngghen, ông tập trung nghiên cứu 
khoa học vào việc luận chứng cho thế 
giới quan duy vật của giai cấp công 
nhân. Liên quan đến những nghiên cứu 
khoa học về kinh tế học chính trị của 
chủ nghĩa tư bản và quan niệm duy vật 
về lịch sử, xã hội cổ đại lại xuất hiện 
trong tâm điểm chú ý của C.Mác và 
Ph.Ăngghen. Có hai phương diện đòi 
hỏi những nhà kinh điển của chủ nghĩa 
Mác cần phải quay lại với những tư 
tưởng cổ đại và sự quay trở lại này cũng 
cho thấy vị trí, vai trò, ý nghĩa đặc biệt 
quan trọng của triết học Hy Lạp cổ đại 
đối với sự hình thành triết học Mác. 
Thứ nhất, nghiên cứu một cách chi 
tiết xã hội (Hy Lạp - La Mã) cổ đại thể 
hiện ra là một vòng khâu hết sức quan 
trọng trong quá trình hình thành quan 
niệm duy vật về lịch sử. C.Mác và 
Ph.Ăngghen coi nhiệm vụ chủ yếu trong 
tranh luận với các nhà triết học và kinh 
tế học tư sản là ở chỗ cần xóa bỏ quan 
niệm tư sản có tính chất phi lịch sử, vĩnh 
cửu hóa các quan hệ tư bản. Các ông đã 
chứng minh rằng, bản thân chủ nghĩa tư 
bản chỉ là một hình thức phát triển của 
đời sống xã hội đã hình thành trong lịch 
sử và tất yếu sẽ bị lịch sử vượt qua. 
Chứng minh ấy không chỉ tạo tiền đề 
cho sự phân tích một cách lịch sử - cụ 
thể về phương thức sản xuất tư bản chủ 
nghĩa, mà còn là để phân tích những 
thời đại mà từ đó sản xuất tư bản đã xuất 
hiện. Trong “Hệ tư tưởng Đức”, “Phác 
thảo phê phán khoa kinh tế chính trị” 
và đặc biệt là trong tác phẩm của 
Ph.Ăngghen: “Nguồn gốc của gia đình, 
của chế độ tư hữu và của nhà nước”, 
C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích sâu 
sắc cấu trúc của hình thái kinh tế - xã 
hội cổ đại và đó là những đóng góp quan 
trọng trong quá trình phát triển quan 
niệm duy vật về lịch sử. Chính sự so 
sánh các thời đại với phương thức sản 
xuất khác nhau đã cho thấy rõ hơn tính 
đặc thù của từng giai đoạn phát triển của 
xã hội, đồng thời cũng làm bộc lộ quy 
luật phát triển chung của sự tái sản xuất 
ra đời sống xã hội của con người. Trong 
các nghiên cứu về kinh tế chính trị học 
của mình, C.Mác đã trích dẫn các tư 
tưởng của Xênôphôn, Platôn và Arixtốt. 
Ông đánh giá rất cao những tư tưởng 
sâu sắc của các nhà tư tưởng đó về cấu 
trúc phân công lao động của thành bang 
Hy Lạp. Theo C.Mác, Smít và các nhà 
nghiên cứu tiền bối vẫn không vượt lên 
trên được quan điểm cổ đại khi bàn về 
phân công lao động, có điều họ chỉ hơn 
các nhà tư tưởng cổ đại khi xét đến kết 
quả và mục đích của sự phân công lao 
động mà thôi. 
C.Mác đặc biệt đánh giá cao Arixtốt 
trong các tác phẩm kinh tế chính trị học 
của ông. Nếu “bí mật” của toàn bộ 
phương thức sản xuất tư sản nằm trong 
hàng hóa và khi tiến hành phân tích nền 
sản xuất hàng hóa sẽ cho phép nhận 
thức được bản chất của quá trình tái sản 
xuất tư bản chủ nghĩa, thì chính Arixtốt 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(85) - 2014 
 50 
là nhà triết học đầu tiên đã có những tư 
tưởng dù còn sơ khai về vấn đề này. 
Trong tác phẩm “Tư bản” nổi tiếng, 
C.Mác viết: “Thiên tài của Arixtốt chính 
là ở chỗ, trong biểu hiện giá trị của các 
hàng hóa, ông đã tìm ra được một quan 
hệ bình đẳng. Chỉ có những giới hạn 
lịch sử của xã hội mà ông đang sống 
mới ngăn cản không cho ông thấy được 
“trong thực tế”, mối quan hệ bình đẳng 
đó là cái gì”(8). 
Thứ hai, các nhà kinh điển của chủ 
nghĩa Mác coi những nhiệm vụ cơ bản 
trong quá trình vạch thảo và phát triển 
quan niệm duy vật về lịch sử còn là ở 
chỗ, luận giải cho tính quyết định của 
tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Sự 
phân tích một cách lịch sử - cụ thể các 
giai đoạn phát triển cụ thể của xã hội đã 
làm cho các ông nhận thấy được tính 
phức tạp của các hiện tượng xã hội cũng 
như các mâu thuẫn đối kháng của nó. 
Ngoài ra, khi nghiên cứu từ giác độ triết 
học về sự tác động qua lại giữa các hình 
thái ý thức xã hội đa dạng như chính trị, 
khoa học, triết học, tôn giáo, đạo đức, 
mỹ học, v.v. với tư cách là phương thức 
phản ánh hiện thực khách quan của con 
người và thông qua con người, C.Mác 
và Ph.Ăngghen cũng còn nhấn mạnh 
đến tính độc lập tương đối của tư duy 
triết học đã phát triển trong lịch sử. 
Những nghiên cứu ấy của các ông dần 
dần hình thành nên quan niệm mácxít 
đặc thù, chín muồi và có hệ thống về 
lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại cũng như 
những đánh giá về vị trí, vai trò, ý nghĩa 
của nó trong lịch sử triết học nói chung. 
Chúng ta có thể thấy những phân tích và 
đánh giá rất sâu sắc của Ph.Ăngghen về 
triết học Hy Lạp cổ đại trong “Phần mở 
đầu”, cũng như trong Lời tựa (cũ) của 
tác phẩm “Chống Đuyrinh” và ở “Lời 
nói đầu” của tác phẩm “Biện chứng của 
tự nhiên”. 
Theo Ph.Ăngghen, khi nghiên cứu về 
phép biện chứng thì không thể không 
nghiên cứu triết học Hy Lạp, bởi lẽ 
“những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều 
là những nhà biện chứng tự phát, bẩm 
sinh, và Arixtốt, bộ óc bách khoa nhất 
trong các nhà triết học ấy, cũng đã 
nghiên cứu những hình thức căn bản 
nhất của tư duy biện chứng”(9). Khi 
chúng ta dùng tư duy để xem xét giới tự 
nhiên, lịch sử loài người, hay hoạt động 
tinh thần của bản thân chúng ta thì 
trước nhất, chúng ta thấy một bức tranh 
về sự chằng chịt của những mối liên hệ 
và những sự tác động qua lại trong đó 
không có cái gì là đứng nguyên, không 
thay đổi, mà tất cả đều vận động, biến 
đổi, phát sinh và mất đi. Ph.Ăngghen 
nhận xét: “Cái thế giới quan ban đầu, 
ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì 
đúng đó là thế giới quan của các nhà 
triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên 
đã được Hêraclít trình bày một cách rõ 
ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời 
lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi 
đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, 
(8) C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, t.23, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.98. 
(9) C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, t.20, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.34. 
Vai trò của triết học Hy Lạp cổ đại... 
 51 
mọi vật đều không ngừng phát sinh và 
tiêu vong”(10). 
Chính vì người Hy Lạp chưa đạt tới 
trình độ mổ xẻ, phân tích giới tự nhiên 
cho nên họ hãy còn quan niệm giới tự 
nhiên là một chỉnh thể và đứng về toàn 
bộ mà xét chỉnh thể ấy. Mối liên hệ phổ 
biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa 
được chứng minh về chi tiết; đối với họ, 
mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát 
trực tiếp. Đó chính là thiếu sót của triết 
học Hy Lạp, do đó mà sau này, nó buộc 
phải nhường chỗ cho những cách nhìn 
khác. Nhưng chính đó cũng là ưu điểm 
của nó so với tất cả các địch thủ siêu 
hình sau này của nó. Nếu về chi tiết, chủ 
nghĩa siêu hình là đúng hơn so với 
những người Hy Lạp, thì về toàn thể 
những người Hy Lạp lại đúng hơn so 
với chủ nghĩa siêu hình. Ngay từ thời cổ 
đại, các xu hướng triết học đã tập trung 
vào những vấn đề liên quan đến biện 
chứng của tự nhiên, biện chứng của quá 
trình nhận thức và của sự phát triển xã 
hội. Bên cạnh đó, Ph.Ăngghen còn ghi 
nhận rằng, “chủ nghĩa duy vật tự phát và 
sơ khai đã hiện ra hoàn toàn rõ nét, chủ 
nghĩa duy vật này trong giai đoạn phát 
triển đầu tiên của nó, coi tính thống nhất 
trong sự muôn vẻ vô tận của những hiện 
tượng thiên nhiên là một điều dĩ nhiên 
và tìm sự thống nhất ấy ở một vật hữu 
hình nào đó, ở một vật đặc biệt nào đó, 
như Talét, ở nước vậy”(11). 
Như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại có 
vai trò hết sức quan trọng đối với sự 
hình thành và phát triển triết học C.Mác. 
Nó đóng vai trò là một tiền đề lý luận 
cho quá trình hình thành triết học 
C.Mác. Không chỉ thế, việc nghiên cứu 
một cách có hệ thống nền triết học này 
còn cho thấy tính chất liên tục, tính kế 
thừa của dòng chảy triết học, của tư duy 
triết học từ khi hình thành, phát triển 
cho tới giai đoạn xuất hiện triết học 
C.Mác. Không phải ngẫu nhiên mà 
C.Mác đã khẳng định rằng: “Triết học 
hiện đại chỉ tiếp tục cái công việc do 
Hêraclít và Arixtốt đã mở đầu mà 
thôi”(12). Và Ph.Ăngghen cũng đánh giá 
rất cao vai trò của triết học Hy Lạp, vì 
“từ các hình thức muôn hình muôn vẻ 
của triết học Hy Lạp, đã có mầm mống 
và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại 
thế giới quan sau này”(13). Đó là một 
trong những lý do tại sao trong triết học 
cũng như trong nhiều lĩnh vực khác, 
“chúng ta phải luôn luôn trở lại với 
thành tựu của cái dân tộc nhỏ bé đó, cái 
dân tộc mà năng lực và hoạt động toàn 
diện của nó đã tạo ra cho nó một địa vị 
mà không một dân tộc nào khác có thể 
mong ước được trong lịch sử phát triển 
của nhân loại”. Từ đó, các nhà kinh điển 
đi đến kết luận rằng, không có cơ sở văn 
minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì 
không thể có Châu Âu hiện đại được. 
(10) Sđd, tr.35. 
(11) C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, t.20, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.662. 
(12) C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, t.1, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.166. 
(13) C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, t.20, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.491. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(85) - 2014 
 52 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_triet_hoc_hy_lap_co_dai_doi_voi_su_hinh_thanh_va.pdf