Phân tầng xã hội hợp thức và giải pháp thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Bài viết trình bày tóm tắt những kiến giải về phân tầng xã hội hợp

thức, đưa ra những nhận thức mới về công bằng xã hội và đề xuất một số giải

pháp nhằm thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Tác giả bài viết

khẳng định phân tầng xã hội hợp thức là trật tự, điều kiện, phương thức và nền

tảng xã hội đảm bảo cho việc thực hiện công bằng xã hội, còn công bằng xã hội

là tiêu chuẩn “nhân lõi” cốt yếu bên trong của phân tầng xã hội hợp thức; xây

dựng xã hội phân tầng xã hội hợp thức thực hiện công bằng xã hội là mục tiêu

mà Việt Nam hướng tới và quyết tâm xây dựng.

pdf 13 trang phuongnguyen 2780
Bạn đang xem tài liệu "Phân tầng xã hội hợp thức và giải pháp thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tầng xã hội hợp thức và giải pháp thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay

Phân tầng xã hội hợp thức và giải pháp thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay
Phân tầng xã hội hợp thức và giải pháp thực hiện công bằng xã hội... 
 37 
PHÂN TẦNG XÃ HỘI HỢP THỨC 
VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 
CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
NGUYỄN ĐÌNH TẤN* 
Tóm tắt: Bài viết trình bày tóm tắt những kiến giải về phân tầng xã hội hợp 
thức, đưa ra những nhận thức mới về công bằng xã hội và đề xuất một số giải 
pháp nhằm thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Tác giả bài viết 
khẳng định phân tầng xã hội hợp thức là trật tự, điều kiện, phương thức và nền 
tảng xã hội đảm bảo cho việc thực hiện công bằng xã hội, còn công bằng xã hội 
là tiêu chuẩn “nhân lõi” cốt yếu bên trong của phân tầng xã hội hợp thức; xây 
dựng xã hội phân tầng xã hội hợp thức thực hiện công bằng xã hội là mục tiêu 
mà Việt Nam hướng tới và quyết tâm xây dựng. 
Từ khóa: Phân tầng xã hội, hợp thức, công bằng xã hội. 
1. Những kiến giải về phân tầng xã 
hội hợp thức và không hợp thức 
Phân tầng xã hội "hợp thức" là một 
khái niệm đã được các nhà xã hội học 
Việt Nam công bố trên một số sách, báo 
cũng như giáo trình nghiên cứu và giảng 
dạy trong chương trình đào tạo chính 
thống của Học viện Chính trị Quốc gia 
Hồ Chí Minh gần hai thập kỷ qua. Khái 
niệm này được các nhà khoa học trừu 
tượng hóa và "tách bóc" ra từ khái niệm 
phân tầng xã hội (PTXH). Theo đó, 
PTXH hợp thức được hiểu là một “cấu 
trúc tầng bậc” cao thấp, phản ánh sự 
khác nhau, sự không ngang bằng nhau 
giữa các thành viên trong xã hội về ba 
dấu hiệu chủ yếu: địa vị chính trị, địa vị 
kinh tế, địa vị xã hội. Cấu trúc tầng bậc 
này là "hợp thức", nó đối lập với PTXH 
không hợp thức. Có nghĩa rằng, nó được 
hình thành, không phải là do cách làm 
ăn phi pháp, luồn lọt,(1)xu nịnh, gian dối, 
mánh khóe, thủ đoạn hoặc do những 
hành vi sai trái, làm ăn bất chính mà có. 
(*) Giáo sư, tiến sĩ, Hội Xã hội học Việt Nam. 
(1) Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và 
phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà 
nội; “Giáo trình xã hội học trong quản lý” 
(2002, 2003, 2005), Nxb Lý luận chính trị, Hà 
Nội; Xã hội học (2005), (Chương trình đào tạo 
cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành Xã 
hội học), Hà Nội; “Phân tầng xã hội từ sự phân 
tích lý luận của Mác và những phát triển mới” 
(2005), Tạp chí Nghiên cứu con người, số 3; 
“Phân tầng xã hội hợp thức và sự hình thành 
tầng lớp xã hội ưu trội trong thời kỳ đổi mới và 
hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta” (2008), Kỷ 
yếu hội thảo Quốc tế Việt Nam học, “Việt Nam 
hội nhập và phát triển”, Nxb Đại học quốc gia, 
Hà Nội; “Xã hội học về cơ cấu xã hội và phân 
tầng xã hội - một chặng đường 20 năm nghiên 
cứu, phát triển và ứng dụng” (2010), Tạp chí Xã 
hội học, số 3; Xu hướng phân tầng xã hội trong 
quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt 
Nam hiện nay (2010), Nxb Lao động, Hà Nội. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(78) - 2014 
 38 
PTXH hợp thức được hình thành chủ 
yếu dựa vào sự khác biệt khách quan, tự 
nhiên giữa các thành viên trong xã hội 
về mặt năng lực (thể chất, trí tuệ), sự 
khác biệt về cái tài, cái đức và sự cống 
hiến, đóng góp thực tế của mỗi cá nhân 
cho xã hội. 
Người nào có tài càng cao, đức càng 
rộng và sự cống hiến cho xã hội càng 
nhiều thì người đó càng xứng đáng đứng 
vào vị trí cao trong xã hội, xứng đáng 
được giao phó cho những quyền lực lớn, 
quan trọng để lãnh đạo, quản lý xã hội. 
Và đương nhiên họ cũng xứng đáng 
được xã hội coi trọng, tôn vinh về mặt 
tinh thần và được nhận những mức 
lương, thưởng cao (lợi ích vật chất cao). 
Người nào tài đức trung bình, cống hiến 
cho xã hội ở mức trung bình thì cũng sẽ 
đứng vào những vị trí trung bình, nhận 
mức lương, thưởng trung bình, sự đánh 
giá trung bình. Những người tài trí thấp, 
“tài hèn sức mọn”, đóng góp cho xã hội 
ít thì đương nhiên sẽ đứng ở vị trí thấp, 
được đánh giá, nhìn nhận một cách 
tương ứng với những gì mà họ có và 
làm cho xã hội. Thực chất của phân tầng 
xã hội hợp thức về mặt kinh tế là sự vận 
hành theo nguyên tắc “làm theo năng 
lực, hưởng theo lao động” - nguyên tắc 
quan trọng nhất để nhận biết và phân 
biệt giữa công bằng xã hội và bất công 
bằng xã hội. 
Rõ ràng rằng, với một nội hàm khái 
niệm như vậy, chúng ta có thể hiểu phân 
tầng xã hội hợp thức chính là trật tự xã 
hội lý tưởng của công bằng xã hội. 
Đương nhiên, trong trường hợp này, 
phân tầng xã hội hợp thức là tích cực, là 
cần thiết, là cái chúng ta ước muốn. Một 
xã hội như vậy sẽ tạo ra được động lực, 
nguồn xung lượng tích cực thúc đẩy xã 
hội tiến lên phía trước. Nó sẽ góp phần 
tạo ra trật tự xã hội cũng như bộ mặt 
nhân văn, nhân bản, nhân ái cho xã hội; 
đồng thời khắc phục được những tư 
tưởng bảo thủ, ích kỷ, hẹp hòi, kèn cựa, 
đố kị, ganh ghét những người hơn mình. 
Mặt khác, nó sẽ tạo ra được chuẩn mực 
cho sự đánh giá xã hội cũng như sự tự 
đánh giá đúng bản thân. Các cá nhân 
vừa biết đặt ra cho mình những mục tiêu 
phấn đấu phù hợp, vừa biết tự bằng lòng 
với những gì mình có, mình làm, không 
lười biếng, không ỷ lại, song cũng 
không quá tham vọng so với năng lực và 
những điều kiện hiện có của họ. Mỗi 
người đều tự biết rõ mình, biết rõ người, 
biết tự đặt mình vào vị trí của người 
khác để thấu hiểu, yêu cầu và đánh giá 
đúng đắn người khác cũng như biết nhìn 
nhận đánh giá đúng bản thân từ vị trí, vai 
trò mà xã hội giao phó; đồng thời hành 
động theo đúng vị thế, vai trò của mình 
theo “cái danh”, “cái phận” của mình. 
Khi đó xã hội sẽ trật tự, kỷ cương, ổn 
định, công bằng và phát triển bền vững. 
Với một xã hội phân tầng xã hội hợp 
thức như vậy, đương nhiên chúng ta sẽ 
thừa nhận, ủng hộ và tìm cách bảo vệ. 
Hơn thế nữa, chúng ta cũng cần thiết 
phải tuyên truyền rộng rãi để đông đảo 
mọi người cùng thừa nhận, ủng hộ và 
cùng góp sức duy trì, củng cố, phát triển 
và bảo vệ một trật tự xã hội hợp thức. 
Với một xã hội như vậy, thì nó cần phải 
Phân tầng xã hội hợp thức và giải pháp thực hiện công bằng xã hội... 
 39 
được thiết chế hoá trong cuộc sống. Nhà 
nước cần phải tạo ra những hành lang 
pháp lý cần thiết rộng rãi an toàn và cởi 
mở cho sự phân tầng hợp thức, nơi mà 
mọi người đều được phát huy năng lực 
và cống hiến theo khả năng và được 
hưởng các lợi ích mà họ xứng đáng được 
hưởng theo đúng pháp luật của Nhà nước. 
Đối lập với PTXH hợp thức là phân 
tầng xã hội không hợp thức. Phân tầng 
xã hội không hợp thức có nghĩa là phân 
tầng không dựa trên sự khác biệt tự 
nhiên giữa các cá nhân, cũng không chủ 
yếu được tạo ra do sự khác nhau về tài 
đức và sự đóng góp, cống hiến một cách 
thực tế của mỗi cá nhân cho xã hội. 
Phân tầng xã hội không hợp thức là 
phân tầng dựa vào những hành vi trái 
pháp luật, tham nhũng, lừa gạt, trộm 
cắp, buôn bán phi pháp để trở nên giàu 
có, luồn lọt, xu nịnh để có vị trí cao 
trong xã hội hoặc lười biếng, ỷ lại để rơi 
vào sự nghèo khổ, yếu thế. 
Trong xã hội phân tầng xã hội không 
hợp thức thì kẻ bất tài vô dụng vẫn có 
thể chiếm vị trí cao, họ vẫn có thể chiếm 
đoạt nhiều của cải, làm giàu bất chính 
mà những người tài đức lại không được 
như vậy: kẻ lười biếng, vô đạo đức, bất 
tài vẫn có thể “ăn trên ngồi trốc”, hưởng 
thụ nhiều hơn những gì đáng được 
hưởng và vẫn có thể nắm được quyền 
lực để chi phối người khác. Những 
người có tài đức có thể bị vùi dập, bị 
thiệt thòi, bị chèn ép, bị ngược đãi, bị 
đối xử bất công, kẻ bất tài luôn sợ người 
có tài, nên hay tìm những thủ đoạn hèn 
hạ để đối phó. Đây chính là sự bất công 
xã hội. Với phân tầng xã hội không hợp 
thức, chúng ta có thể hiểu nó chính là 
biểu hiện của bất công xã hội; theo đó, 
nó là tiêu cực, là “vật” kìm hãm sự phát 
triển của xã hội, là “xiềng xích” trói 
buộc những tiềm năng sáng tạo và tính 
tích cực của các cá nhân, tổ chức, làm 
thui chột những năng lực thể chất và 
tinh thần của những người lao động 
chân chính, là nguyên nhân dẫn đến 
những bất bình, xung đột, mâu thuẫn xã 
hội. Trong trường hợp đặc biệt, nó sẽ 
tạo ra những đối kháng xã hội mà đỉnh 
cao là sự khủng hoảng, rối loạn xã hội, 
đổ vỡ xã hội. Với xã hội phân tầng 
không hợp thức như vậy, đương nhiên 
không ai mong muốn, trừ những người 
đang được hưởng lợi từ nó. Đối với 
phân tầng xã hội không hợp thức, cần 
thiết phải phê phán nó một cách thực sự 
nghiêm khắc trước công luận và hơn thế 
nữa, chúng ta đòi hỏi tầng lớp xã hội “ăn 
trên ngồi trốc” bất hợp thức phải bị 
trừng phạt trước pháp luật. Song hành 
với nó các biện pháp ấy cần kiên trì giáo 
dục những kẻ lười biếng, ỷ lại; cần phải 
có những chế tài, giải pháp thích hợp để 
họ tự giác lao động, chủ động vươn lên, 
nâng cao cuộc sống cho chính mình; 
trong trường hợp đặc biệt, thậm chí 
phải cưỡng bức họ, buộc họ phải lao 
động, cải tạo một cách nghiêm khắc. 
Đương nhiên, đối với những người 
nghèo khổ, “yếu thế”, bị tàn tật, ốm đau, 
rủi ro, vận hạn, đông nhân khẩu phụ 
thuộc, thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất, 
thiếu kỹ năng, kinh nghiệm lao động..., 
chúng ta cần phải cưu mang, đùm bọc, 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(78) - 2014 
 40 
giúp đỡ, cần tạo ra cho họ những điều 
kiện sinh kế cần thiết để họ có thể tự 
vươn lên thoát nghèo. Đối với những 
trường hợp đặc biệt, ví dụ, những gia 
đình thương binh liệt sỹ, người có công 
với nước, thì Đảng và Nhà nước, cộng 
đồng cần đền ơn đáp nghĩa theo đúng 
truyền thống đạo lý “uống nước nhớ 
nguồn” của dân tộc ta. 
2. Phân tầng xã hội hợp thức là trật 
tự của công bằng xã hội, là điều kiện, 
phương thức và nền tảng xã hội đảm 
bảo cho việc thực hiện công bằng xã 
hội; công bằng xã hội là tiêu chuẩn 
“nhân lõi” cốt yếu bên trong của phân 
tầng xã hội hợp thức 
Thực hiện tiến bộ xã hội và công 
bằng xã hội là một trong các mục tiêu 
cao cả và định hướng xã hội mạnh mẽ 
của Chính phủ Việt Nam suốt từ khi lập 
nước đến nay. Tuy nhiên, quá trình đi 
đến một nhận thức đúng đắn cũng như 
đưa ra các giải pháp thực hiện một cách 
sát hợp về công bằng xã hội là quá trình 
tìm tòi với những bước đi quanh co 
khúc khuỷu. Trong một thời kỳ dài, khái 
niệm công bằng xã hội chưa được nhận 
thức và phân biệt một cách rõ ràng, rành 
mạch với khái niệm bình đẳng xã hội. 
Hai khái niệm này thường đi kèm nhau 
và được dùng chung nghĩa với nhau 
hoặc thay nghĩa cho nhau. Chính những 
nhận thức thiếu rõ ràng và có phần sai 
lệch này đã dẫn đến việc dư luận xã hội 
cũng như các chính sách xã hội có xu 
hướng bình quân chủ nghĩa, thậm chí có 
những nơi, những lúc, người ta đã coi 
phương thức phân phối bình quân chủ 
nghĩa như là phương thức phân phối lợi 
ích tốt nhất, dễ dàng nhất để thực hiện 
công bằng xã hội. Hệ lụy của nó là thủ 
tiêu động lực của các tầng lớp xã hội và 
theo đó là một thời kỳ xã hội trì trệ kéo 
dài. Điều này đã được Đảng và Nhà 
nước Việt Nam nghiêm túc thừa nhận 
trong các văn kiện chính thức của mình. 
Để khắc phục những vướng mắc về mặt 
nhận thức lý luận cũng như những bất 
cập trong thực tiễn về việc thực hiện và 
áp dụng những tiêu chuẩn của công 
bằng xã hôi, chúng tôi cho rằng, chúng 
ta cần thiết phải đồng thời có những 
nhận thức đúng đắn về cả phân tầng xã 
hội và cả công bằng xã hội, phải thấy rõ 
mối quan hệ bản chất giữa phân tầng xã 
hội hợp thức với công bằng xã hội. 
Không thể xây dựng được một xã hội 
phân tầng hợp thức nếu vẫn tồn tại phổ 
biến những tiêu chuẩn và những phương 
thức áp dụng phi quy tắc về công bằng 
trong xã hội. Ngược lại, không thể có 
công bằng xã hội nếu chúng ta đồng 
nhất phân tầng xã hội với bất công bằng 
xã hội. Chỉ một khi nhận thức được 
rằng, trong phân tầng xã hội có cả phân 
tầng xã hội hợp thức và phân tầng xã hội 
không hợp thức, trong đó phân tầng xã 
hội hợp thức là một cấu trúc bất bình 
đẳng, song được xây dựng trên những 
nguyên tắc của công bằng, thì chúng ta 
mới có cơ sở khoa học để vừa xây dựng 
xã hội phân tầng hợp thức vừa thực hiện 
được những mục tiêu của công bằng xã 
hội. Để có thể nhận thức đúng và đưa ra 
những giải pháp đúng nhằm hướng tới 
mực tiêu xây dựng một xã hội công 
Phân tầng xã hội hợp thức và giải pháp thực hiện công bằng xã hội... 
 41 
bằng (thực hiện tiến bộ xã hội, công 
bằng xã hội) chúng ta phải phát hiện và 
tìm ra một điểm chung của phân tầng xã 
hội hợp thức và công bằng xã hội; đó là 
khái niệm cấu trúc “tầng bậc”. 
Công bằng xã hội không phải là cào 
bằng, là sự ngang bằng nhau một cách 
vô điều kiện, mà là một sự ngang bằng 
nhau trong một mối quan hệ xác định, 
với một nguyên tắc xác định, đó là 
người ta sẽ được ứng xử ngang nhau, 
nhận về mình những lợi ích ngang nhau, 
hưởng quyền lợi ngang nhau, được sắp 
xếp vào những vị trí ngang nhau nếu họ 
có tài năng, đức độ ngang nhau, cống 
hiến, đóng góp cho xã hội ngang nhau, 
thực hiện những nghĩa vụ ngang nhau. 
Người ta sẽ được ứng xử khác nhau, 
nhận về mình những quyền và lợi ích 
khác nhau, sắp xếp vào những vị trí 
khác nhau nếu tài năng, đức độ khác 
nhau, cống hiến, đóng góp khác nhau, 
đảm nhận những nghĩa vụ khác nhau. 
Công bằng ở đây được hiểu là sự phù 
hợp giữa năng lực thực tiễn của người ta 
với địa vị xã hội mà họ đảm nhiệm, giữa 
nghĩa vụ và trách nhiệm, cống hiến và 
hưởng thụ, sự hy sinh, đóng góp và sự 
đền đáp, công lao và sự thừa nhận, giữa 
làm và hưởng, lao động và sự trả công, 
giữa tội ác và sự trừng phạt (có làm thì 
có hưởng, không làm thì không hưởng). 
Theo cách hiểu này, công bằng không 
phải là cào bằng, cũng không phải bất 
cứ sự bằng nhau nào. Hai người được 
ứng xử ngang bằng nhau, đãi ngộ ngang 
nhau, nhưng tài năng, đức độ khác nhau, 
cống hiến khác nhau thì là bất công 
bằng. Tương tự như vậy, hai người được 
ứng xử khác nhau đãi ngộ khác nhau 
trên cơ sở của sự khác nhau tương ứng 
về tài năng, đức độ và sự đóng góp, 
cống hiến của họ cho xã hội thì đó lại là 
công bằng xã hội. Điều này cũng có 
nghĩa rằng, nếu đánh đồng khái niệm 
công bằng xã hội với khái niệm bình 
đẳng xã hội sẽ là một sai lầm, nó có thể 
dẫn đến những hệ quả xã hội tiêu cực. 
Không phải bất kỳ một sự bình đẳng xã 
hội nào cũng là công bằng xã hội, mà 
chỉ có những bình đẳng xã hội nào được 
đặt trong một mối quan hệ xác định thì 
mới là công bằng xã hội. 
Bình đẳng xã hội là mọi sự ngang 
nhau, song công bằng xã hội bao hàm cả 
sự khác nhau (sự cống hiến, đóng góp 
cao thấp khác nhau sẽ nhận được những 
quyền và lợi ích cao thấp khác nhau). 
Những người có trình độ, năng lực khác 
nhau, song lại được ứng xử giống nhau, 
ngang bằng nhau thì đó là cào bằng, là 
bất công bằng. Bình đẳng xã hội là sự 
ngang bằng nhau về một khía cạnh, một 
phương diện nào đó giữa người ta với 
nhau mà chưa xem xét đến hay không 
đòi hỏi phải gắn nó với một quan hệ xác 
định vốn không ngang bằng nhau về mặt 
năng lực (thể chất, trí tuệ), tài năng, 
cống hiến, đóng góp thực tế của mỗi cá 
nhân cho xã hội. Việc nhận thức chân 
xác và phân định một cách rạch ròi, rõ 
ràng giữa hai khái niệm công bằng xã 
hội và bình đẳng xã hội là rất quan 
trọng. Nó cần phải trở thành nền tảng 
của đạo đức xã hội, cơ sở khoa học của 
mọi chính  ... nhiều người giàu hơn 
(giàu một cách hợp thức) và để ngày 
càng giảm đi số người nghèo, hộ nghèo; 
đồng thời cũng cần phải tạo những điều 
kiện, cơ hội tốt hơn nữa cho người 
nghèo để họ vươn lên thoát nghèo, cần 
tạo nhiều chỗ làm việc mới, cung cấp 
dịch vụ thuận tiện để người nghèo dễ 
tiếp cận, nâng cao năng suất lao động, 
hạ giá thành, bán hàng hóa giá rẻ, tăng 
thu nhập, cải thiện đời sống. Để đẩy 
mạnh hơn nữa sự nghiệp xóa đói giảm 
nghèo, thu hẹp dần khoảng cách giàu 
nghèo, chúng ta không chỉ trực tiếp tập 
trung mọi nguồn lực cho người nghèo, 
vùng nghèo, hướng vào bản thân người 
nghèo, mà cần phải đồng thời mạnh dạn 
đầu tư cho người giàu, vùng giàu, những 
“tam giác”, “tứ giác” kinh tế, những 
vùng “động lưc”, vùng tăng trưởng kinh 
tế, những đầu tầu kinh tế khỏe mạnh, 
sung mãn nhằm hỗ trợ cho vùng nghèo, 
người nghèo, thúc đẩy người nghèo 
vươn lên thoát nghèo và từng bước trở 
thành người giàu. Xóa đói giảm nghèo 
là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, của 
toàn dân. Chính vì vậy, cùng với việc 
tích cực giúp đỡ, hỗ trợ người nghèo, 
Đảng, Nhà nước, các đoàn thể xã hội 
cũng cần phải đẩy mạnh việc giáo dục, 
nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần 
tự lực, chủ động vượt khó, vươn lên 
thoát nghèo của bản thân người nghèo. 
Chỉ trên tinh thần đó, chúng ta mới đạt 
được vững chắc mục tiêu giảm nghèo, 
xây dựng một xã hội phân tầng xã hội 
hợp thức trên thực tế, một xã hội mà ai 
ai cũng tự giác, nỗ lực, năng động, một 
xã hội trung lưu hóa, đa số mọi người 
vươn lên khá giả, sang giàu. 
3.4. Xây dựng mô hình phân tầng xã 
hội hợp thức, gắn với chính sách xóa đói 
giảm nghèo trong chiến lược phát triển 
kinh tế - xã hội tổng hợp của đất nước. 
Đảng, Nhà nước cần tập trung mọi sự 
chỉ đạo nhằm xây dựng một xã hội trên 
cơ sở của phân tầng xã hội hợp thức, 
cũng có nghĩa là kiên quyết đoạn tuyệt 
với chủ nghĩa bình quân, đã từng tồn tại 
một thời trước đây, chấp nhận một xã 
hội có “cấu trúc tầng bậc”, nhưng đó 
không phải là bất kỳ cấu trúc tầng bậc 
nào, mà là một cấu trúc tầng bậc hợp 
thức được xây dựng trên cơ sở của công 
bằng xã hội, pháp luật xã hội, đạo lý xã 
hội. Xây dựng xã hội phân tầng hợp 
thức không thể tiến hành một cách tách 
biệt, riêng rẽ, mà phải được đặt trong 
một chiến lược kinh tế - xã hội tổng thể; 
đồng thời phải gắn chặt với chiến lược 
toàn diện về tăng trưởng kinh tế và xóa 
đói giảm nghèo của đất nước. “Khuyến 
khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa 
đó giảm nghèo. Coi việc một bộ phận 
dân cư giàu trước là cần thiết cho sự 
Phân tầng xã hội hợp thức và giải pháp thực hiện công bằng xã hội... 
 45 
phát triển”(2). Cần phải thường xuyên 
gắn chặt nó với thực hiện công bằng xã 
hội, đối chiếu với những nguyên tắc, chỉ 
báo, chuẩn mực của công bằng xã hội. 
Thực hiện tốt điều này sẽ tạo ra động 
lực mạnh mẽ, thúc đẩy nhà nhà, người 
người vươn lên “làm cho người nghèo 
thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, 
người giàu thì giàu thêm”(3), “mỗi người, 
mỗi hộ đều phấn đấu làm giàu cho mình, 
cho cộng đồng và cho đất nước”(4). 
Để xây dựng và thúc đẩy mạnh mẽ 
hơn nữa mô hình phân tầng xã hội hợp 
thức và sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, 
khắc phục những hậu quả xã hội tiêu 
cực do phân hóa giàu nghèo - hậu quả 
trực tiếp của phân tầng xã hội không 
hợp thức gây ra, Nhà nước cần tiếp tục 
soạn thảo, sửa đổi, hoàn thiện và ban 
hành một loạt các chính sách nhằm tái 
cấu trúc nền kinh tế, phân bố lại sản 
xuất, sắp xếp lại lao động, doanh 
nghiệp, điều tiết thu nhập, quan hệ cung 
cầu, bình ổn giá cả một số mặt hàng 
thiết yếu; cần đảm bảo cuộc sống cho 
người thu nhập thấp, mở rộng và đa 
dạng hóa hệ thống bảo hiểm xã hội theo 
phương hướng tiện lợi cho người dân 
(đặc biệt là cho nhóm xã hội nghèo, yếu 
thế). Thực hiện những giải pháp xã hội 
đảm bảo cho xã hội luôn được cân bằng, 
ổn định và phát triển bền vững là sứ 
mệnh, đồng thời là mục tiêu xã hội nhất 
quán mà Đảng, Nhà nước Việt Nam 
luôn phải quán triệt và bền bỉ thực hiện. 
3.5. Xây dựng cơ chế phát hiện 
thích hợp 
Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học 
cần sớm có cơ chế thích hợp nhằm phát 
hiện ra những nhóm xã hội ưu trội, 
những cá nhân ưu tú, năng động, có 
trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý và 
sản xuất kinh doanh giỏi, từ đó có chính 
sách thu hút, đào tạo, sắp xếp phù hợp 
để họ phát huy tốt nhất tiềm năng trí tuệ, 
đóng góp tích cực, hiệu quả vào sự 
nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. 
Liên quan trực tiếp đến cấu trúc phân 
tầng xã hội hợp thức là sự xuất hiện 
ngày một đông đảo những cá nhân, 
nhóm xã hội ưu trội(5). Họ là những 
phần tử ưu tú, năng động, tài hoa nhất 
vượt trội lên từ khắp các giai cấp, tầng 
lớp, tổ chức xã hội. Đó là những người 
công nhân có nhiều sáng kiến, tìm tòi, 
làm việc có năng suất cao,`tạo ra được 
nhiều sản phẩm đẹp, tốt, có chất lượng 
cao, mang lại lợi ích hữu dụng cho xã 
hội; những doanh nhân tài ba, tháo vát, 
sản xuất, kinh doanh giỏi, áp dụng được 
những cơ chế quản lý mới, công nghệ- 
kỹ thuật tiên tiến, mang lại nhiều lợi 
nhuận, giải quyết được nhiều việc làm 
cho người lao động, tạo ra nhiều sản 
phẩm, mẫu mã hàng hóa đa dạng, có sức 
cạnh tranh cao trên thương trường, đóng 
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện 
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ 
khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr. 47. 
(3) Hồ Chí Minh toàn tập (2002), tập 5, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 65. 
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 117. 
(5) Nguyễn Đình Tấn (2008), “Tầng lớp xã hội ưu 
trội và việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta 
hiện nay”, Tạp chí Công an Nhân dân, số 1. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(78) - 2014 
 46 
góp nhiều cho ngân sách nhà nước cũng 
như những nguồn tài chính cho các hoạt 
động phúc lợi xã hội. Đó là những nhà 
quản lý giỏi, những nhà khoa học nhiều 
phát minh, sáng chế, đưa ra được những 
quy trình công nghệ mới, những cơ chế 
quản lý ưu việt, những đề xuất, kiến 
nghị thiết thực, mang lại nhiều lợi ích 
cho đất nước. Đó là những người nông 
dân làm ăn giỏi, những chủ trang trại 
dám nghĩ, dám làm, tháo vát, năng 
động, sáng tạo, khai thác, tận dụng một 
cách có hiệu quả tài nguyên, đất đai, 
rừng, biển, sông, hồ và nguồn lao động 
dôi dư từ nông nghiệp, nông thôn, tạo ra 
những sản phẩm dồi dào, có giá trị cho 
xã hội. Đó là những người thợ thủ công, 
phát huy bàn tay vàng với những ý 
tưởng vàng tạo ra những sản phẩm độc 
đáo mang lại thương hiệu có uy tín cao 
cho xã hội. Đó là những cán bộ, công 
chức đưa ra được nhiều ý tưởng cải 
cách, hợp lý hóa, tối ưu hóa các giải 
pháp, thủ tục hành chính, mang lại nhiều 
tiện ích và sự hài lòng cho người dân. 
Đó là những sĩ quan, chiến sĩ quân đội, 
công an thông minh, quả cảm; đưa ra 
được nhiều những phương án bảo vệ an 
ninh, trật tự có hiệu quả; hóa giải, ngăn 
ngừa được nhiều âm mưu chống phá xã 
hội của các lực lượng thù địch; bảo vệ 
vững chắc thành quả của sự nghiệp đổi 
mới; giữ gìn sự bình yên cho mọi người. 
Những cá nhân, nhóm xã hội ưu trội 
này đang ngày càng lớn lên, mạnh lên 
và trở thành những “đầu tầu”, “con 
chim đầu đàn”, những “Mạnh Thường 
Quân” đầy sung mãn, tiên phong, lôi 
kéo, dẫn dắt các nhóm xã hội đi lên. 
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội 
cần nhìn nhận một cách đúng đắn, đánh 
giá đúng tài năng và công lao của họ; 
tôn vinh, vinh danh họ một cách kịp 
thời, đúng mức; cần phải chú lắng nghe 
những tâm tư, nguyện vọng, đề xuất của 
họ; theo dõi, thu hút, đào tạo, sắp xếp, 
bổ nhiệm họ vào những vị trí then chốt 
của bộ máy quyền lực, những cương vị 
thích hợp để họ có thể phát huy tốt nhất 
tiềm năng, nhiệt huyết của mình. Nếu họ 
là doanh nhân, nhà khoa học, chúng ta 
cần có những chính sách an toàn, thông 
thoáng, tạo những điều kiện thuận lợi để 
họ phát huy tốt nhất năng lực kinh 
doanh và khả năng sáng tạo của mình. 
Cần phải tạo ra những hành lang, môi 
trường tự do, thông thoáng, những ưu 
đãi về thuế, vốn, những hoạt động tư 
vấn, hỗ trợ pháp lý và những chế tài bảo 
vệ họ khi lợi ích và những hoạt động 
hợp pháp của họ bị đe doa, xâm hại. 
3.6. Tiếp tục đổi mới cơ chế chính 
sách, thúc đẩy hơn nữa sự phát triển 
của tầng lớp trung lưu 
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng 
sản Việt Nam khởi xướng đã tạo môi 
trường, thời hậu thuận lợi cho sự phát 
triển của mọi tầng lớp xã hội, đặc biệt là 
tầng lớp trung lưu(6). Sự lớn mạnh của 
(6) Nguyễn Đình Tấn, (2013), “Về tầng lớp trung 
lưu trong lịch sử và những gợi mở cho xã hội 
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Thông tin khoa 
học xã hội, số 3, “Góp thêm một cách nhìn về 
tầng lớp trung lưu - doanh nhân”, Tạp chí Lý 
luận chính trị, số 4, “Vai trò của tầng lớp trung 
lưu ở Việt nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã 
hội Việt Nam, số 9. 
Phân tầng xã hội hợp thức và giải pháp thực hiện công bằng xã hội... 
 47 
tầng lớp này như một tất yếu mang tính 
quy luật, đang góp phần to lớn vào quá 
trình chấn hưng đất nước, vào sự thịnh 
vượng, công bằng xã hội, dân chủ xã hội 
và sự phát triển bền vững của đất nước, 
đồng thời góp phần tích cực vào việc 
hóa giải những mâu thuẫn, xung đột, 
khắc phục xu hướng đang ngày một 
phân cực hai đầu của xã hội. Sự lớn 
mạnh của tầng lớp trung lưu là hoàn 
toàn phù hợp với mục tiêu phát triển đi 
lên của đất nước cũng như quá trình hội 
nhập quốc tế. Nó góp phần thiết thực 
vào quá trình dân chủ hóa thực hiện mục 
tiêu tiến bộ xã hội, công bằng xã hội, 
văn minh xã hội, ổn định xã hội trong 
nước cũng như đóng góp tích cực vào 
mục tiêu hòa bình và phát triển bền 
vững quốc tế. Với ý nghĩa to lớn như 
vậy, Đảng và Nhà nước cần có những 
chính sách rộng mở hơn nữa, thông 
thoáng hơn nữa nhằm thúc đẩy hơn nữa 
sự phát triển của tầng lớp trung lưu, kể 
cả tầng lớp trung lưu “dưới”, “giữa” và 
“trên”. Chúng tôi cho rằng, cần bổ sung 
tầng lớp trung lưu vào khối nền tảng của 
xã hội ở Việt Nam hiện nay. Chỉ trên 
nền tảng của một xã hội trung lưu hóa, 
một xã hội mà đa số thành viên trong xã 
hội có cuộc sống khá giả, trình độ học 
vấn cao, được đào tạo nghề nghiệp 
thành thạo, có ý thức chính trị, đạo đức, 
thẩm mỹ, pháp luật tốt, có tinh thần sáng 
tạo, chủ động học hỏi vươn lên, làm chủ 
được bản thân mình, làm chủ được xã 
hội, thì chúng ta mới có đủ những cơ sở 
xã hội và niềm tin để xây dựng và thực 
hiện được trên thực tế mục tiêu công 
bằng trong xã hội. 
3.7. Đẩy mạnh hoạt động tôn vinh 
các nhà khoa học có nhiều phát minh, 
sáng chế, các nhà lãnh đạo quản lý tài 
ba, vinh danh các nghệ nhân có bàn 
tay vàng, sáng tạo vàng, những doanh 
nhân làm ăn giỏi, làm giàu hợp pháp 
Trong một số năm gần đây, Đảng, 
Nhà nước đã có những hoạt động vinh 
danh, khen thưởng khá đều đặn những 
nhà khoa hoc, nghệ sĩ, nhà doanh 
nghiệp có thành tích xuất sắc như trao 
giải thưởng “Covalepxkaia” cho các 
nhà khoa học nữ, giải thưởng Hồ Chí 
Minh cho các nhà khoa học có những 
cống hiến xuất sắc, giải “Cành cọ vàng” 
cho các nhà đạo diễn có những kịch bản 
phim hay, giải thưởng “Sao vàng đất 
Việt” cho các doanh nhân, “Sao thần 
nông” cho các nông dân sản xuất, kinh 
doanh giỏi... Những hoạt động này đã 
ghi nhận, vinh danh các nghệ sĩ, doanh 
nhân, nhà khoa học; cổ vũ, khuyến 
khích họ thêm nhiệt huyết, hứng khởi, 
hăng say, sáng tạo nhiều hơn nữa trong 
hoạt động của mình. Trong bối cảnh đổi 
mới, hội nhập ngày càng sâu vào nền 
kinh tế toàn cầu, chúng ta cần mở rộng, 
đa dạng, làm phong phú và sinh động 
hơn nữa các hoạt động này. Cần phải 
làm cho các hoạt động vinh danh đi vào 
nền nếp hơn, thực chất hơn, với những 
hoạt động thiết thực hơn, sinh động 
hơn, đi vào chiều sâu hơn. Đối với các 
doanh nhân, các giải thưởng có thể chủ 
yếu chỉ chú trọng về mặt tinh thần, 
song với các nghệ nhân, nhà khoa học, 
đặc biệt là những người làm việc trong 
các tổ chức phi lợi nhuận, thì ngoài việc 
vinh danh, tôn vinh về mặt tinh thần, 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(78) - 2014 
 48 
cần có những phần thưởng vật chất một 
cách xứng đáng hơn, có ý nghĩa thiết 
thực cho đời sống của họ và gia đình 
họ. Đồng thời, cần phải tiến hành 
những hoạt động tuyên truyền, giáo dục 
làm cho tất cả mọi người hiểu đúng và 
đánh giá đúng những thành quả mà 
những người ưu tú này mang lại cho xã 
hội; qua đó trân trọng và noi gương, 
học tập, làm theo để từ đây xã hội có 
ngày càng nhiều hơn những lực lượng 
xã hội ưu tú thúc đẩy hơn nữa sự phát 
triển của xã hội. 
3.8. Xây dựng một bộ chỉ báo đánh 
giá, hệ thống lương thưởng phù hợp 
với tài năng, đức độ và mức cống hiến, 
đóng góp của mỗi cá nhân, tổ chức cho 
xã hội 
Cải cách thể chế là một trong những 
nhiệm vụ trọng yếu mang tính đột phá 
của sự nghiệp cải cách xã hội ở Việt 
Nam hiện nay. Trong vô số những yếu 
kém, lạc hậu, chồng chéo của những văn 
bản pháp luật, thì các chỉ báo đánh giá, 
chế độ lương thưởng còn ít được mọi 
người bàn đến, có nhiều bất cập nhất, 
lạc hậu nhất. Trong lĩnh vực này, còn 
thiếu nhiều bộ chỉ báo, tiêu chuẩn để 
đánh giá, xem xét, phân loại, xếp hạng 
cán bộ, công chức, doanh nhân nghệ 
nhân, nhà khoa học... (qua đó gây lung 
túng, bối rối cho việc thực hiện các chế 
độ, chính sách, lương thưởng và những 
ứng xử một cách khách quan, phù hợp); 
còn thiếu những chỉ báo định lượng rõ 
ràng, minh bạch gây khó khăn, nhiễu 
loạn trong đánh giá, bình xét. Trong một 
số trường hợp khác thì lại vận dụng một 
cách tùy tiện, qua loa đại khái hoặc bị 
bóp méo một cách vô lối. Điều này làm 
suy giảm thậm chí thủ tiêu những động 
lực, tính tích cực và năng lực sáng tạo 
của người lao động, đồng thời dung túng 
cho những kẻ trục lợi, lười biếng, bất 
tài, vô đạo, gây bức xúc trong xã hội. Để 
khắc phục tình trạng trên, Đảng, Nhà 
nước cần xây dựng cho được một bộ chỉ 
báo quốc gia về các tiêu chuẩn đánh giá, 
xếp loại ngạch bậc, chức danh nghề 
nghiệp, danh hiệu xã hội, chế độ lương 
thưởng một cách thật sự bài bản, khoa 
học, khách quan, công bằng; đồng thời 
cần tuyên truyền, phổ biến, thông tin, 
giáo dục, truyền thông thật sự sâu rộng 
tới mọi tầng lớp xã hội làm cho tất cả 
mọi người đều hiểu và tự giác thực hiện 
một cách nghiêm túc, thấu đáo; cần xây 
dựng một cơ chế giám sát khoa học với 
một bộ máy những người làm giám sát 
trung thực, đáng tin cậy.(38) 
Tài liệu tham khảo 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn 
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ 
khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn 
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
3. Hồ Chí Minh toàn tập (2002), tập 5, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
4. Nguyễn Đình Tấn (2005), Cơ cấu xã hội và 
phân tầng xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 
5. Nguyễn Đình Tấn (2010), Xu hướng 
phân tầng xã hội trong quá trình phát triển 
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb 
Lao động, Hà Nội. 
(38)  
Phân tầng xã hội hợp thức và giải pháp thực hiện công bằng xã hội... 
 49 

File đính kèm:

  • pdfphan_tang_xa_hoi_hop_thuc_va_giai_phap_thuc_hien_cong_bang_x.pdf