Từ kích thước cộng đồng đến kích thước cá nhân những vấn đề lý thuyết và phương pháp luận

TÓM TẮT: Bài viết tập trung ñiểm luận tiến trình song ñề lý thuyết, giữa quan ñiểm cộng ñồng

luận và cá nhân luận. Hai quan ñiểm này cũng là tiêu ñiểm của các cuộc tranh luận lý thuyết từng kéo

dài nhiều năm trong giới học thuật khoa học xã hội trên thế giới giữa phái cấu trúc luận và phái tác

nhân luận (structure/agency). Thông qua bài viết này, chúng tôi hướng tới một vấn ñề lý thuyết và

phương pháp luận trong nghiên cứu mối quan hệ cá nhân và cộng ñồng. Khi nói tới "cá nhân" và "xã

hội", người ta thường lầm tưởng rằng ñây là hai thực thể riêng rẽ, làm như thể chúng có thể tồn tại biệt

lập nhau mà thực ra ñây là một tổng thể với hai cấp ñộ không thể tách rời. ðiều này cho thấy rằng bên

cạnh tính quy ñịnh của các cấu trúc xã hội, các chiến lược ứng xử khác nhau của các cá nhân cũng

ñóng vai trò quan trọng không nhỏ trong việc duy trì, củng cố hoặc ñiều chỉnh và thay ñổi chính các

cấu trúc ấy.

pdf 15 trang phuongnguyen 800
Bạn đang xem tài liệu "Từ kích thước cộng đồng đến kích thước cá nhân những vấn đề lý thuyết và phương pháp luận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Từ kích thước cộng đồng đến kích thước cá nhân những vấn đề lý thuyết và phương pháp luận

Từ kích thước cộng đồng đến kích thước cá nhân những vấn đề lý thuyết và phương pháp luận
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 15, SOÁ X2 - 2012 
Trang 55 
TỪ KÍCH THƯỚC CỘNG ðỒNG ðẾN KÍCH THƯỚC CÁ NHÂN NHỮNG VẤN ðỀ 
LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN 
Nguyễn ðức Lộc 
Trường ðại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, ðHQG-HCM 
TÓM TẮT: Bài viết tập trung ñiểm luận tiến trình song ñề lý thuyết, giữa quan ñiểm cộng ñồng 
luận và cá nhân luận. Hai quan ñiểm này cũng là tiêu ñiểm của các cuộc tranh luận lý thuyết từng kéo 
dài nhiều năm trong giới học thuật khoa học xã hội trên thế giới giữa phái cấu trúc luận và phái tác 
nhân luận (structure/agency). Thông qua bài viết này, chúng tôi hướng tới một vấn ñề lý thuyết và 
phương pháp luận trong nghiên cứu mối quan hệ cá nhân và cộng ñồng. Khi nói tới "cá nhân" và "xã 
hội", người ta thường lầm tưởng rằng ñây là hai thực thể riêng rẽ, làm như thể chúng có thể tồn tại biệt 
lập nhau mà thực ra ñây là một tổng thể với hai cấp ñộ không thể tách rời. ðiều này cho thấy rằng bên 
cạnh tính quy ñịnh của các cấu trúc xã hội, các chiến lược ứng xử khác nhau của các cá nhân cũng 
ñóng vai trò quan trọng không nhỏ trong việc duy trì, củng cố hoặc ñiều chỉnh và thay ñổi chính các 
cấu trúc ấy. 
Từ khóa: cộng ñồng, cá nhân, cấu hình xã hội, chiến lược ứng xử. 
Cộng ñồng và cá nhân, có lẽ ñây là hai vấn 
ñề khá gần gũi, thiết thực trong ñời sống xã hội 
của chúng ta. Bởi có ai sống mà không có mối 
liên hệ với các tập thể xã hội như gia ñình, 
dòng họ, nhà nước.v.v. ðó là hai vấn ñề tương 
tác qua lại giữa tính cá nhân và tính tập thể xã 
hội. Tuy nhiên, từ lâu trong giới khoa học xã 
hội thế giới lại luôn tồn tại cuộc tranh luận lý 
thuyết giữa phái cấu trúc luận và phái tác nhân 
luận (structure/agency). Phái chức năng – cấu 
trúc vốn xem các thành phần cấu thành cộng 
ñồng có vai trò quan trọng trong việc chi phối 
hành vi cá nhân (Émile Durkheim, 1895) hay 
nói cách khác, cộng ñồng chính là bộ khung 
chứa ñựng những giá trị sống của những cá 
nhân (Nguyễn ðức Lộc, 2010). Ở ñó, mỗi cá 
nhân chỉ ñược xem là một ñơn vị nào ñó giống 
như một hạt cát trong hàng ngàn hạt cát của 
một tổng thể của ñời sống xã hội. Trong khi ñó, 
những người theo phái tác nhân luận (agency) 
ñã phê phán kịch liệt lối diễn giải ñậm chất cơ 
học như trên, ñồng thời họ cũng hướng tới nhìn 
nhận vấn ñề cá nhân với vai trò chủ thể sáng 
tạo trong ñời sống xã hội. Và kể từ ñó nhiều 
tranh luận trong giới khoa học xã hội thế giới 
ñã luôn diễn ra cho ñến tận ngày nay. Chẳng 
hạn như Émile Durkheim (1858 - 1917), xem 
các “sự kiện xã hội” (Social facts) quy ñịnh 
hành ñộng xã hội và ñoàn kết các cá nhân ñể 
tạo ra trật tự xã hội. Khi nghiên cứu xã hội, 
Durkheim muốn biện minh cho sự cần thiết của 
“trật tự xã hội”. Nhưng, dường như Durkheim 
ñã ñặt xã hội nói chung, cơ cấu xã hội nói riêng 
ñối lập với con người. Trong khi ñó, Weber 
Science & Technology Development, Vol 15, No.X2- 2012 
Trang 56 
không quan tâm ñến hệ thống xã hội như một 
tổng thể (khác với Durkheim và Marx), mà ñề 
cao trọng tâm nghiên cứu những ñộng cơ của 
hành ñộng của cá nhân, những ý nghĩa hoặc lý 
do hành ñộng của họ. ðây có thể xem là một 
quá trình hình thành các trường phái lý thuyết 
khá phức tạp trong lịch sử tư tưởng nhân loại. 
Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng 
tôi chỉ xem xét một vài góc ñộ lý thuyết cấu 
trúc - chức năng và hành ñộng xã hội, vốn ñại 
diện cho những trường phái cộng ñồng luận và 
cá nhân luận nêu trên.Từ ñó, chúng tôi cũng 
xin ñề xướng một vài gợi ý về vấn ñề lý thuyết 
và phương pháp luận trong nghiên cứu mối 
quan hệ cá nhân và xã hội. 
1. CỘNG ðỒNG VÀ CÁ NHÂN – BẾN BỜ 
CỦA SỰ KHÁC BIỆT 
Trong ñời sống xã hội, khái niệm cộng 
ñồng ñược sử dụng một cách tương ñối rộng 
rãi, ñể chỉ nhiều ñối tượng có những ñặc ñiểm 
tương ñối khác nhau về quy mô, ñặc tính xã 
hội. Danh từ cộng ñồng ñược sử dụng cho các 
ñơn vị xã hội cơ bản là gia ñình, làng-xã, hay 
một nhóm xã hội nào ñó có những ñặc tính xã 
hội chung về tâm thức và lý tưởng xã hội, hay 
về lứa tuổi, giới, hay về nghề nghiệp, về thân 
phận xã hội. Chính vì vậy, khái niệm cộng 
ñồng ñược hiểu dưới nhiều chiều kích khác 
nhau như: cộng ñồng, tập thể, nhóm và ở 
Việt Nam khái niệm ñược sử dụng khá phổ 
biến là làng-xã, thôn, ấp cũng ñược xem như 
loại hình cộng ñồng. Theo Lương Hồng Quang, 
nghiên cứu về cộng ñồng là “nghiên cứu các 
ñặc trưng văn hóa biểu thị qua các mặt: tôn 
giáo – tín ngưỡng, phong tục tập quán, cách 
giao tiếp ứng xử, khả năng chinh phục thiên 
nhiên, khả năng sáng tạo nghệ thuật, tính cách 
tâm lý của cư dân trong cộng ñồng”. (Lương 
Hồng Quang, 1997:18). 
Trong khi ñó, cộng ñồng theo quan niệm 
Marxist là: “Mối liên hệ qua lại giữa các cá 
nhân, ñược quyết ñịnh bởi các lợi ích chung 
của các thành viên có sự giống nhau về các 
ñiều kiện tồn tại và hoạt ñộng của những con 
người hợp thành cộng ñồng ñó, bao gồm các 
hoạt ñộng sản xuất vật chất và các hoạt ñộng 
khác của họ, sự gần gũi giữa họ về tư tưởng, tín 
ngưỡng, hệ giá trị và chuẩn mực, nền sản xuất, 
sự tương ñồng về ñiều kiện sống cũng như các 
quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và 
phương tiện hoạt ñộng” (Viện Thông tin khoa 
học xã hội, 1990: 19). Tất cả các hình thức tự 
tổ chức mà chúng ta ñã biết của con người ñều 
là các kiểu cộng ñồng, chỉ khác nhau ở phạm vi 
không gian-thời gian và nội dung các lợi ích 
liên kết chung. ðó là các hình thức tổ chức gia 
ñình, cộng ñồng dân cư, các cộng ñồng ñược 
xếp theo thứ hạng xã hội, theo nghề nghiệp, tộc 
người, theo lãnh thổ quốc gia và cuối cùng, loài 
người nói chung. Còn theo Ferdinand Tönnies, 
cộng ñồng có các ñặc trưng sau: “Thứ nhất, 
những quan hệ xã hội nào mang tính chất tinh 
thần, thân thiện, mang ñộ cố kết có ý nghĩa tự 
nhiên thì ñấy là tính cộng ñồng. Thứ hai là tính 
bền vững. Tính cộng ñồng ñược khẳng ñịnh 
theo dòng chảy của lịch sử. Thời gian có một 
vai trò là yếu tố kết dính các thành viên trong 
cộng ñồng. Thứ ba là tính cộng ñồng khi ñược 
xét từ quan ñiểm ñánh giá và vị thế xã hội của 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 15, SOÁ X2 - 2012 
Trang 57 
các thành viên xã hội thì ñó là vị thế xã hội 
ñược gán sẵn nhiều hơn là vị thế phấn ñấu mà 
có ñược. Cuối cùng, tính cộng ñồng lấy quan 
hệ dòng họ là quan niệm cơ bản và mang cả 
hai ñặc trưng: dòng họ là huyết thống và dòng 
họ trở thành khuôn mẫu văn hóa của sinh hoạt 
cộng ñồng” (Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang 
, 2000: 13). 
Ở Việt Nam, làng-xã ñược xem là một 
dạng cộng ñồng gắn liền với ñơn vị cư trú 
truyền thống của người Việt. Chính vì vậy, 
làng-xã cũng ñược xem là ñối tượng nghiên 
cứu của nhiều ngành như sử học, dân tộc học, 
nhân học Theo Phan Huy Lê, làng Việt là 
cộng ñồng tụ cư của những người tiểu nông 
trồng lúa nước kết hợp với một số nghề thủ 
công và buôn bán nhỏ dựa trên mô hình công 
xã nông thôn dần dần phong kiến hóa (Phan 
Huy Lê - Vũ Minh Giang, 1996:143). Làng-xã 
của người Việt thoát thai từ công xã nông thôn, 
dựa trên hình thái tổ chức xã hội này mà hình 
thành nên làng-xã. ðiều này có nghĩa là sự ra 
ñời của nó không theo kiểu phủ ñịnh công xã 
nông thôn. Nền tảng kinh tế của làng-xã là 
nghề trồng lúa nước với những người sử dụng 
tư liệu sản xuất thường ở qui mô rất nhỏ. Nghề 
trồng lúa là cơ sở kinh tế của sự tồn tại làng-xã 
nhưng sau này, do sức ép dân số mà diện tích 
ruộng ñất bình quân trên ñầu người giảm, xu 
hướng kết hợp nghề nông với các nghề tiểu thủ 
công và buôn bán nhỏ là phổ biến ở bình diện 
hộ-cộng ñồng. Khi xã hội phát triển theo xu 
hướng thương mại hóa, tính tự cấp tự túc dần 
dần không trở thành một ñặc tính cố hữu của 
làng xã, song do những lý do về mặt kinh tế và 
lịch sử phát triển, như mức bình quân ruộng ñất 
theo ñầu người thấp, ñã hạn chế nhiều khả năng 
phá vỡ tính tự cấp tự túc. Nhà dân tộc học 
Nguyễn Từ Chi là người ñầu tiên cố gắng hệ 
thống hóa một cách ñầy ñủ về cơ cấu tổ chức 
xã hội làng Việt. Theo ông, tổng thể cơ cấu xã 
hội ở làng-xã cổ truyền ñược tạo thành bởi năm 
hình thức tập hợp người như sau: (1) Tập hợp 
người theo ñịa vực; (2) Tập hợp người theo 
huyết thống - họ tộc; 
(3) Tập hợp người theo lớp tuổi; (4) Tập hợp 
người trong bộ máy chính quyền ở cấp xã; (5) 
Tập hợp người trong những tổ chức dựa trên 
lòng tự nguyện tham gia của từng cá nhân - 
phe, hội, phường. (Trần Từ,1984). 
Trong khi ñó, Tô Duy Hợp, Lương Hồng 
Quang trong công trình Phát triển cộng ñồng lý 
thuyết và thực tiễn, cho rằng cần phải phân tích 
trên một chiều kích khác về cộng ñồng, ñó là 
chỉ ra các thành phần tạo lập nên một cộng 
ñồng. (Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang, 
2000). Theo hai tác giả này, những cuộc nghiên 
cứu tại khắp nơi trên thế giới cho thấy có một 
số yếu tố chính của cộng ñồng là ñịa vực, yếu 
tố kinh tế hay nghề nghiệp, và cuối cùng là các 
yếu tố có tính văn hoá. Những yếu tố này tạo ra 
sự cố kết cộng ñồng từ những ñặc ñiểm chung, 
mà các thành viên có thể chia sẻ với nhau. 
Có vẻ như, lâu nay khi nghiên cứu về cộng 
ñồng, làng-xã, các nhà nghiên cứu thường ñứng 
trên quan ñiểm cấu trúc-chức năng luận của 
Radcliffe Brown1, với quan ñiểm: “một tình 
1
 ðại diện cho trường phái cấu trúc-chức năng luận xuất 
hiện vào nửa ñầu thế kỷ 20 là Radcliffe Brown (1881-
1955). Ông quan tâm ñến chức năng văn hóa theo hướng 
Science & Technology Development, Vol 15, No.X2- 2012 
Trang 58 
trạng trong ñó tất cả mọi thành phần của một 
hệ thống xã hội cùng làm việc với nhau ở một 
mức ñộ hài hòa hoặc thống nhất nội bộ (ñể tiếp 
tục tồn tại như một hệ thống), tức là không tạo 
ra những xung ñột kéo dài mà không giải quyết 
hoặc ñiều chỉnh ñược” (Robert Layton, 1997: 
37). Mục ñích của Radcliffe Brown là không 
giải thích sự ña dạng của xã hội loài người mà 
là khám phá những quy luật của hành vi xã hội. 
Bằng cách quan sát trong những loại xã hội 
nhất ñịnh, người ta sẽ tìm thấy có một số quan 
hệ xã hội ñặc trưng nào ñó. Theo ông, không 
phải mọi tập tục ñều nhất thiết cần có một chức 
năng tích cực và một số hệ thống xã hội này có 
thể cao hơn những hệ thống xã hội khác do 
mức ñộ tích hợp (integration) của nó. Radcliffe 
Brown nhận ñịnh rằng, trong khi cơ cấu của 
một cơ thể ñộng vật hiển thị một cách trực tiếp, 
thì cơ cấu xã hội lại không thể nhìn thấy trực 
tiếp ñược, mà phải suy luận ra từ việc quan sát 
những ñiều lặp ñi lặp lại trong các hành ñộng 
của những người tham dự. Ông thừa nhận rằng, 
trong một hệ thống xã hội, một tập tục hay thể 
chế có thể ñược thay thế bởi một cái khác mà 
không bị tan vỡ chính hệ thống xã hội. Các xã 
hội có thể thay ñổi theo cách mà các cơ thể 
ñộng vật thường không thay ñổi ñược. Quan 
ñiểm lý thuyết này chịu ảnh hưởng những lý 
thuyết của E.Durkheim. ðiều khác biệt chính 
cấu trúc. Ông dựa trên quan ñiểm của Durkheim khi cho 
rằng xã hội là một thực thể ñặc biệt không ñồng nhất với cá 
thể. Bất kỳ một hệ thống nào cũng ñược xác ñịnh bằng các 
ñơn vị (yếu tố) cấu thành nó và các quan hệ giữa chúng. Do 
vậy, chức năng của một tập tục là sự ñóng góp của nó vào 
ñời sống liên tục của “cơ thể xã hội”. 
yếu là Radcliffe-Brown nghiên cứu những dạng 
thức ñều ñặn (regularities) trong hành ñộng xã 
hội, cái mà ông cho là biểu hiện của cấu trúc xã 
hội ñược tạo thành bởi những mạng lưới và các 
nhóm. Trong khi ñó, Lévi-Strauss xác ñịnh vị 
trí cấu trúc ở tư tưởng con người, và xem sự 
giao tiếp xã hội như là biểu hiện ngoại tại của 
các cấu trúc nhận thức này. Lý thuyết cấu trúc 
xem cấu trúc của xã hội là sản phẩm của ý 
tưởng thay vì của những ñiều kiện vật chất của 
tồn tại xã hội. Những người tham gia vào một 
hệ thống, cần phải ý thức về những hậu quả cấu 
trúc của nó ñến mức ñộ nào. 
 Hiện nay, cũng có ý kiến cho rằng 
cách tiếp cận dưới góc ñộ cấu trúc –chức năng 
luận ñã trở nên lạc hậu vì nhìn nhận các hiện 
tượng xã hội ở trạng thái tĩnh và không cho 
thấy sự biến ñổi xã hội. Tuy vậy, chúng tôi 
nhận thấy rằng cấu trúc - chức năng luận ñóng 
vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu quá 
trình tái sản xuất xã hội, và suy cho cùng góp 
phần vào việc tìm hiểu quá trình củng cố sự cố 
kết xã hội của các cộng ñồng ñịa phương: 
chúng tạo ñiều kiện duy trì sự liên kết xã hội 
(Gluckman, 1954). Từ ñây, chúng tôi quan 
niệm, cấu trúc xã hội không hẳn là một bộ 
khung cơ học, không vận ñộng mà là bộ khung 
chứa ñựng những giá trị, quan niệm ñể cá nhân 
hấp thụ các giá trị sống, qua ñó xây dựng cho 
mình những chiến lược ứng xử trong các mối 
quan hệ xã hội giữa cá nhân với những người 
xung quanh. Nói một cách khác, muốn hiểu 
ñược ý nghĩa và quá trình vận ñộng của cấu 
trúc xã hội, chúng ta cần hiểu ñược ý nghĩa 
hành ñộng của cá nhân với vai trò chủ thể của 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 15, SOÁ X2 - 2012 
Trang 59 
xã hội. Chính vì vậy, sự phân tích cấu trúc 
(structural analysis) cũng cần ñược bổ sung 
bởi một sự phân tích chiến lược (strategical 
analysis) của các cá nhân. ðồng thời, các lối 
ứng xử của dân chúng cũng cần ñược nhìn 
nhận và diễn giải dưới góc ñộ hậu cảnh kinh tế, 
xã hội của các hành vi ứng xử. 
Khác với tư duy của những người theo 
trường phái cấu trúc – chức năng luận, những 
người có khuynh hướng theo cá nhân luận thì 
cho rằng mọi hành vi chúng ta quan sát ñược 
chỉ là hình thức bề ngoài của một quá trình tư 
duy cá nhân, ẩn chứa “tảng băng chìm” ñộng 
cơ hành ñộng của chủ thể trong các thiết chế xã 
hội mà họ ñang sống. Thuyết hành ñộng xã hội 
của Max Weber2 ñã không quan tâm ñến hệ 
thống xã hội như một tổng thể (khác với 
Durkheim và Marx), mà ñề cao trọng tâm 
nghiên cứu những ñộng cơ của hành ñộng của 
cá nhân, những ý nghĩa hoặc lý do hành ñộng 
của họ. Xã hội học của Weber nhấn mạnh tới 
thuật ngữ tiếng ðức Verstehen (sự thông hiểu, 
sự hiểu biết). ðó là một nền xã hội học “hiểu” 
và “cảm thông”, nhằm “ñặt mình vào vị thế 
người khác”, nắm bắt ñược những ñộng cơ của 
người ñó, những lựa chọn người ñó phải ñối 
diện và tiến hành quyết ñịnh trong những ñiều 
kiện có sẵn. Xã hội học Verstehen, nói một 
cách khác, ñặt trọng tâm vào những ý nghĩa 
khác nhau của thế giới ñối với từng cá nhân 
2
 Thuyết hành ñộng xã hội: Max Weber (1864-1920), nhà 
tư tưởng xã hội ðức, chịu ảnh hưởng của thông diễn học 
(hermeneutics) ở ðức và châu Âu nói chung: thông diễn 
học là một khoa học về sự nhận thức và diễn giải quan 
ñiểm của một nền văn hóa khác.. 
con người. Xã hội học “thấu hiểu” của Weber 
chính là nền tảng cho ngành nhân học diễn giải 
biểu trưng (interpretive anthropology) sau này. 
Max Weber ñược xem là nhà xã hội học ñầu 
tiên khởi xướng quan ñiểm hành ñộng xã hội. 
Theo ông, ñối tượng ñích thực của xã hội học 
là hành ñộng xã hội. Ông cho rằng xã hội học 
là một khoa học cố gắng hiểu theo kiểu diễn 
giải hành ñộng xã hội ñể bằng cách ñó ñạt tới 
việc giải thích nhân quả về chuỗi hành ñộng và 
tác ñộng của nó. Với Weber, hành ñộng xã hội 
là hành ñộng có ý nghĩa hướng ñến cái mà chủ 
thể gán cho một ý nghĩa chủ quan. Ông cho 
rằng việc giải thích xã hội học ñối với hành 
ñộng phải bắt ñầu bằng việc quan sát và lý giải 
t ...  sẵn ở ñấy trước khi chúng ta 
xuất hiện trên sân khấu (cuộc ñời), nhưng 
chúng cũng ñược chính chúng ta không ngừng 
xây dựng lại. Chúng ta bị phản bội và bị cầm tù 
bởi chính sự hợp tác của chúng ta”. (Peter L. 
Berger, 1969: 141); (Trần Hữu Quang, 1996:4). 
Tương tự quan ñiểm này, nhà xã hội học 
người Mỹ, Talcott Parsons (1902-1979) cũng 
ñã vay mượn quan ñiểm của Weber khi cho 
rằng cốt lõi của mọi hành ñộng xã hội là ý 
nghĩa, do ñó ñể hiểu ñược hành ñộng phải hiểu 
ñược ý nghĩa gắn với hành ñộng ñó. Mặt khác, 
Parsons cũng chấp nhận quan ñiểm của 
Durkheim rằng có một trật tự ñạo ñức ñiều 
khiển xã hội. Từ ñó, Parsons xây dựng khái 
niệm “khung tham chiếu hành ñộng” 
(voluntarism), theo nghĩa như là những quá 
trình ra quyết ñịnh mang tính chủ quan của chủ 
thể, nhưng những quyết ñịnh này lại là kết quả 
của những cấu trúc mang tính chuẩn mực cũng 
như của tình huống. Như vậy, với mục ñích cụ 
thể hóa hơn lập luận của Max Weber, Parsons 
cho rằng ñể hiểu hành ñộng, cần hiểu ñược bản 
chất chủ quan của hành ñộng, tức là hiểu ý 
nghĩa của nó, nhưng ñồng thời phải tiến ñến 
phân tích các mục tiêu và phương tiện xung 
quanh hành ñộng, những ñiều này nảy sinh 
trong bối cảnh các giá trị và chuẩn mực hình 
thành một cách tập thể. ðây chính là khung 
tham chiếu hành ñộng, trong ñó là sự ñịnh 
hướng mang tính chuẩn mực của con người 
ñịnh hướng vào các niềm tin, giá trị, chuẩn 
mực. Như vậy, khi nói tới "cá nhân" và "cộng 
ñồng", người ta thường lầm tưởng rằng ñây là 
hai bến bờ của sự khác biệt, nhưng thực ra, ñấy 
chỉ là hai cấp ñộ khác nhau nhưng không thể 
tách rời nhau trong quá trình ñời sống xã hội. 
3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN TƯƠNG TÁC 
BIỂU TRƯNG 
Khi nghiên cứu về cấu hình xã hội, ñặc biệt 
là trong bối cảnh Việt Nam, vốn gắn liền với 
nhiều yếu tố văn hóa, lịch sử, chính trị, chúng 
tôi nhận thấy cần lý giải vấn ñề này ở nhiều 
góc ñộ về mặt phương pháp luận. ðặc biệt, 
chúng ta nên xem xét hai vấn ñề cá nhân và 
cộng ñồng như là một tổng thể thống nhất với 
hai cấp ñộ khác nhau. Chính vì vậy, về mặt 
phương pháp luận, chúng ta có thể lựa chọn 
cách thức noi theo phương pháp luận nghiên 
cứu tương tác biểu trưng (symbolic 
interactionism) mà Clifford Geertz (1926-
2007)3 là một ñại diện tiêu biểu. Bởi Geertz lập 
3
 Nhân học giải diễn giải do Geertz khởi xướng có nguồn 
gốc từ xã hội học diễn giải của Weber. Nghiên cứu về nhân 
học tôn giáo, và ñặc biệt là cuộc tranh luận giữa Geertz và 
Asad về nền tảng của tôn giáo ñược xem xét lại thông qua 
sự tham khảo xã hội học tôn giáo của Weber (Charles F. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 15, SOÁ X2 - 2012 
Trang 65 
luận rằng văn hóa không phải là một mô hình 
trong ñầu con người, mà thể hiện trong những 
biểu tượng và hành ñộng công cộng. Ông ñã 
kết hợp ñược nhiều truyền thống tri thức trong 
công trình của mình, bao gồm xã hội học Âu 
châu, nhân học kiểu Boas, và thậm chí cả sinh 
thái học văn hóa của Steward ở giai ñoạn ñầu4, 
cũng khá rõ. 
Trong số những nhà xã hội học Âu châu, 
Geertz sử dụng những ý tưởng của cả 
Durkheim lẫn Weber, bên cạnh ñó có Alfred 
Schutz (1899-1959), một nhà hiện tượng học 
xã hội ðức, nhấn mạnh lối tiếp cận diễn giải 
ñối với hành ñộng. Nhưng nguồn tư tưởng 
mang tính quyết ñịnh trong các công trình giai 
ñoạn sau của Geertz là xuất phát từ nhà triết 
học Pháp Paul Ricoeur (1913-2005), người cho 
rằng xã hội (hoặc văn hóa) có thể ñược diễn 
giải như một văn bản, và có thể sử dụng những 
phương pháp diễn giải của chú giải học ñể diễn 
giải văn bản. Phương pháp này coi một văn bản 
Keyes, 2002:233 – 255). Một trong những ñại biểu của 
trường phái nhân học biểu trưng là Clifford Geertz (1926-
2007). Ông ñược xem là “kiến trúc sư trưởng của nhân học 
biểu trưng”, ông cũng ñược cho là ñã chịu ảnh hưởng ít 
nhiều từ quan ñiểm xã hội học thấu hiểu của Max Weber. 
Tuy nhiên, ông không chỉ kế thừa các quan ñiểm của Max 
Weber mà còn kế thừa quan ñiểm của Durkheim, vốn ñược 
xem là quan ñiểm ñối lập với Weber. Geertz ñược ñào tạo 
ở Harvard vào thời ñiểm mà Parsons (trong xã hội học) và 
Kluckhohn (trong nhân học), cả hai nằm trong Department 
of Social Relations của Harvard (gồm xã hội học, nhân học 
văn hóa, và tâm lý học, do Parsons lập ra), cộng tác rất 
khắng khít. 
4
 Sinh thái học văn hóa ñược thể hiện phần nào trong quyển 
Agricultural Involution của Geertz, nhưng sau ñó thì ảnh 
hưởng của trường phái này không còn rõ nét trong những 
công trình của Geertz. 
ñồng thời là sự kết hợp của những phần cá thể 
và một tổng thể không chia cắt, và diễn giải 
một văn bản cần có sự di chuyển qua lại giữa 
hai thái cực này. Geertz ñã ñưa ý tưởng này 
vào nhân học nhằm cố gắng xóa bỏ sự phân 
biệt giữa phương pháp luận cá nhân và tập thể, 
vì xã hội không thể hiểu ñược nếu như không 
nhìn nhận từ cả hai góc ñộ. 
ðối với Geertz, các hiện tượng xã hội cần 
phải ñược “ñọc”, không chỉ bởi các nhà nhân 
học, mà bởi chính bản thân thành viên của xã 
hội ñó. ðối lập với các nhà nhân học Anh, tập 
trung vào cá nhân như một người hành ñộng 
(theo các chuẩn mực và chiến lược), Geertz ñề 
ra cá nhân như một ñộc giả. 
ðối lập với giả ñịnh của họ cho rằng xã hội 
ñược cấu thành một cách duy lý và cá nhân có 
thể tham gia vào ñó thông qua những hành 
ñộng duy lý, Geertz cho rằng thế giới thường 
không thể hiểu ñược, và rằng chủ thể phải diễn 
giải một cách tích cực những gì người ñó thấy. 
Ông xem biểu tượng là phương tiện chuyển tải 
ý nghĩa. Trong những công trình giai ñoạn ñầu 
của mình, Clifford Geertz thận trọng phân biệt 
giữa hai kiểu “logic của sự thống nhất”: 1) xã 
hội, hoặc cấu trúc xã hội, ñược thống nhất “một 
cách chức năng-nhân quả”; 2) văn hóa, hoặc 
miền biểu trưng, ñược thống nhất một cách “ý 
nghĩa logic”. Hai tiểu hệ thống này, theo 
Geertz, là khớp với “thỏa ước” của những năm 
1950, có thể ñược nghiên cứu một cách ñộc lập 
không liên quan ñến nhau (Trương Huyền Chi, 
2007). 
Khi hiểu ý nghĩa của biểu tượng, Geertz 
viết: “Theo sau Max Weber, tin rằng con người 
Science & Technology Development, Vol 15, No.X2- 2012 
Trang 66 
là một ñộng vật treo trên một mạng lưới những 
ý nghĩa do chính mình tự dệt nên, tôi coi văn 
hóa là những mạng lưới ñó, và phân tích văn 
hóa, vì vậy, không phải là một khoa học tìm 
kiếm quy luật, mà một ngành diễn giải ñi tìm ý 
nghĩa” (Clifford Geertz, 1973:5). Muốn chỉ ra 
ñược những ý nghĩa của biểu tượng, nhà nhân 
học phải biết diễn giải cách hiểu của bản thân 
mình và cách hiểu của nhiều chủ thể trong từng 
ñiều kiện xã hội mà họ ñang sống. Một khía 
cạnh nào ñó, quan ñiểm của Geertz ñối lập với 
cấu trúc luận của Claude Lévi-Strauss, Geertz 
quan tâm ñến phân tích biểu trưng từ quan 
ñiểm của người hành ñộng. Ông tin rằng 
phương pháp phân tích biểu trưng phù hợp là 
“mô tả chiều sâu” (thick description), tức là 
nhà nhân học phân loại những tư liệu dân tộc 
học của mình, tìm hiểu tập trung vào nghiên 
cứu văn hóa, ñặc biệt là biểu tượng văn hóa, 
thay vì xã hội và cấu trúc xã hội. Tách rời văn 
hóa khỏi xã hội, hay nói một cách khác, họ 
chịu ảnh hưởng của “thỏa ước” tạm thời về sự 
phân công lao ñộng giữa xã hội học và nhân 
học, các nhà nhân học Mỹ theo hướng biểu 
trưng ñã tập trung vào nghiên cứu văn hóa, ñặc 
biệt là những biểu tượng, tách rời khỏi cấu trúc 
xã hội và nghiên cứu văn hóa như một tổng thể 
thống nhất và ñộc lập5. Phần lớn những gì nhà 
5
 Trường phái nhân học biểu trưng cũng nhận ñược sự phê 
phán nhất ñịnh trong những thiếu sót của việc phân tích 
biểu trưng là nó chủ yếu mang tính mô tả và không tạo ñiều 
kiện cho những phát biểu mang tính phương pháp luận và 
lý thuyết. Cũng như những người theo F.Boas, các nhà 
nhân học biểu trưng tuyên bố ñi tìm sự phổ biến của nhận 
thức loài người thông qua việc thu thập các tư liệu cụ thể ở 
tại ñịa phương (Trương Huyền Chi, 2007). Những nhà 
nhân học biểu trưng thâu nhận ñược ñều do quá 
trình tự kiến tạo về những nền văn hóa cụ thể 
hoặc sự kiện trong những nền văn hóa ñó. Kết 
quả là, những tư liệu của họ thu nhận ñược từ 
những cộng ñồng ñịa phương cụ thể không 
cung cấp một nền tảng lý thuyết nào nhằm giúp 
hiểu văn hóa như một hiện tượng phổ biến. Các 
nhà nhân học biểu trưng ít chỉ ra phương pháp 
luận và phương pháp cụ thể ñể tìm hiểu ý nghĩa 
của biểu tượng. Geertz cho rằng “phân tích văn 
hóa là (hoặc cần là) ñoán ra ý nghĩa, ñánh giá 
những sự phỏng ñoán ñó, và ñưa ra những kết 
luận giải thích từ những phỏng ñoán gần ñúng 
hơn” (Clifford Geertz,1973:20). 
Tóm lại, nghiên cứu về những ñặc trưng 
của cấu trúc cộng ñồng và chiến lược ứng xử 
của cá nhân, vốn bị ñịnh khung bởi song ñề lý 
thuyết cộng ñồng luận và cá nhân luận. Nhiều 
công trình nghiên cứu với những quan ñiểm ñối 
lập nhau về nhận thức và tư duy khoa học ñã 
khiến cho những cuộc tranh luận lý thuyết kéo 
dài nhiều năm trong giới học thuật khoa học xã 
hội trên thế giới tưởng chừng như không có hồi 
kết. Tuy nhiên, việc phân ñịnh giữa song ñề lý 
thuyết này dường như chỉ là hệ quả của việc 
khoa học xã hội bị ảnh hưởng bởi nội dung và 
ý nghĩa của những kiểu mẫu trong khoa học tự 
nhiên. Thực tế, vấn ñế cá nhân và xã hội là hai 
vấn ñề có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cộng 
nhân học biểu trưng chưa bao giờ giải thích một cách cụ 
thể phương pháp ñể “ñoán ra ý nghĩa” ñó như thế nào. 
Những người phê phán nhân học biểu trưng cho rằng ñây 
chính là khiếm khuyết cơ bản: ñộ ñáng tin cậy của cách 
diễn giải biểu trưng hoàn toàn dựa trên kỹ năng giải thích 
và sự thẩm thấu các hiện tượng quan sát của nhà nhân học. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 15, SOÁ X2 - 2012 
Trang 67 
ñồng xã hội có thể xem là bộ khung chứa ñựng 
các giá trị chi phối hành ñộng cá nhân, nhưng 
ñồng thời những chiến lược ứng xử khác nhau 
của các cá nhân cũng ñóng vai trò quan trọng 
không nhỏ trong việc duy trì, củng cố hoặc 
ñiều chỉnh và thay ñổi chính các cấu trúc ấy. 
Khi nói tới "cá nhân" và "xã hội", người ta 
thường lầm tưởng rằng ñây là hai thực thể 
riêng rẽ, làm như thể chúng có thể tồn tại biệt 
lập nhau mà thực ra ñây là một tổng thể với hai 
cấp ñộ không thể tách rời. Chính vì vậy, về mặt 
nhận thức, tư duy khoa học và phương pháp 
luận trong việc nghiên cứu các hiện tượng xã 
hội, có lẽ chúng ta không nên ñịnh khung cách 
tiếp cận biệt lập “duy khách thể” hay “duy chủ 
thể” mà cần có cách tiếp cận dung hòa hai cách 
tiếp cận vừa mang cách nhìn của người trong 
cuộc và tư duy khoa học của nhà nghiên cứu. 
FROM COMMUNITY DIMENTION TO INDIVIDUAL DIMENTION – THEORY 
AND METHODOLOGY 
Nguyen Duc Loc 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
ABSTRACT: The paper focuses on the review of dilemma theory process, between public theory 
and personal one. These two viewpoints are the focus of theoretical debate lasting many years in 
academic community in the field of social science all over the world between the school of structuralism 
and that of agency theory. The paper aims to describe theoretical and methodological issues in the 
research of community and personal relationships. When it comes to the "individual" and "society", 
people often mistakenly believe that these are two separate entities, as if they could exist independently 
of each other, but in fact this is a whole with two inseparable levels. This suggests that in addition to the 
provisions of social structures, different individual behavior strategies also play an important role in 
the efforts to maintain, strengthen or adjust and change these structures. 
Key words: community, individual, social structures, behavior strategies. 
Science & Technology Development, Vol 15, No.X2- 2012 
Trang 68 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[6]. Peter L. Berger, Invitation to Sociology, A 
Humanistic Perspective, Harmondsworth, 
Penguin Books (1969). 
[7]. Nguyễn Từ Chi, Góp phần tìm hiểu lịch sử 
văn hóa Việt Nam, NXB KHXH, Hà Nội, 
(1996). 
[8]. Trương Huyền Chi, Chuyên ñề lý thuyết 
nhân học, Khoa nhân học, 
ðH.KHXH&NV TP.HCM (2007). 
[9]. Émile Durkheim, Các quy tắc của phương 
pháp xã hội học, ðinh Hồng Phúc dịch, lời 
giới thiệu của Trần Hữu Quang, NXB Tri 
Thức (2012). 
[10]. Norbert Elias, Problems of Involvement 
and Detachment, British Journal of 
Sociology, London, 7:226-52 (1956). 
[11]. Norbert Elias, O processo civilizador, Ruy 
Jungmann dịch, Rio de Janeiro: Jorge 
Zahar, v.1 (1990). 
[12]. Norbert Elias, A sociedade dos indivíduos, 
Vera Ribeiro dịch, Rio de Janeiro: Jorge 
Zahar (1994). 
[13]. Norbert Elias, Introducción, ELIAS, N.; 
DUNNING, Eric. Deporte y ocio en el 
proceso de la civilización, Purificación 
Jiménez dịch, México: Fondo de Cultura 
Económica [31-81] (1995). 
[14]. Norbert Elias, Introdução à sociologia, 
Maria Luísa Ribeiro Ferreira dịch, Lisboa: 
Edições 70 (1999). 
[15]. Norbert Elias, A sociedade de corte: 
investigação sobre a sociologia da realeza 
e da aristocracia de corte, Pedro 
Süssekind dịch, Rio de Janeiro: Jorge 
Zahar (2001a). 
[16]. Norbert Elias, Norbert Elias por ele 
mesmo, André Telles dịch. Rio de Janeiro: 
Jorge Zahar (2001b). 
[17]. Clifford Geertz, Thick Description: 
Toward an Interpretative Theory of 
Culture, The Interpretation of Cultures, 
New York: Basic Books, Inc. Publisher 
(1973). 
[18]. Gluckman, The judicial process among the 
Barotse of Northern Rhodesia, Berg 
Publishing Ltd (1954). 
[19]. Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang, Phát 
triển cộng ñồng lý thuyết và thực tiễn, 
NXB VHTT, Hà Nội (2000). 
[20]. Lương V. Hy, Xã hội, Văn hóa và phát 
triển con người trong thời kỳ ñổi mới, Hội 
thảo Hai mươi năm ðổi mới tại Việt Nam 
do UNDP và Viện Khoa học Xã hội Việt 
Nam tổ chức (2006). 
[21]. Charles F Keyes, Weber and 
Anthropology, Annual Review of 
Anthropology, số 3, 233 – 255 (2002). 
[22]. Robert Layton (bản dịch tiếng Việt), Nhập 
môn Lý thuyết nhân học, NXB ðHQG 
TP.HCM (2007). 
[23]. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, Các giá trị 
truyền thống và con người Việt Nam hiện 
nay, T2, ðề tài KX 07 - 02. H (1996). 
[24]. Nguyễn ðức Lộc, Cấu trúc cộng ñồng 
Công giáo di cư năm 1954 tại Nam bộ 
(nghiên cứu trường hợp Hố Nai – ðồng 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 15, SOÁ X2 - 2012 
Trang 69 
Nai và Cái Sắn Cần Thơ, Luận án tiến sĩ, 
Trường ðH KHXH & NV – ðHQG-HCM 
(2008). 
[25]. Trần Hữu Quang, Mối quan hệ giữa con 
người với xã hội theo Peter L. Berger, Hà 
Nội (1996). 
[26]. Tânia Quintaneiro, The concept of 
figuration or configuration in Norbert 
Elias’ sociological theory, Teor. soc.vol.2 
no.se Belo Horizonte (2006). 
[27]. Ferdinand Tönnies, Community and 
Society (Gemeinschaft und Gesellschaft), 
trans. and ed. C.P. Loomis (first published 
in 1887) New York (1963). 
[28]. Max Weber, Nền ñạo ñức Tin lành và tinh 
thần của chủ nghĩa tư bản (Die 
protestantische Ethik und der Geist des 
Kapitalismus), Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn 
Nghị, Nguyễn Tùng và Trần Hữu Quang 
dịch, “Lời giới thiệu” của Trần Hữu 
Quang và Bùi Văn Nam Sơn, Hà Nội, 
NXB Tri thức (2008). 

File đính kèm:

  • pdftu_kich_thuoc_cong_dong_den_kich_thuoc_ca_nhan_nhung_van_de.pdf