Tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan điểm đạo đức của Phật giáo

Tóm tắt: Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có tư tưởng về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng.

Nội dung cơ bản trong quan điểm đạo đức của Phật giáo là từ bi hỷ xả vô ngã, vị tha, tu dưỡng,

đoàn kết. Theo Hồ Chí Minh, quan điểm đạo đức của Phật giáo có giá trị không chỉ đối với phật tử

mà đối với mọi người nói chung trong việc nhận thức và ứng xử theo giá trị Phật giáo. Nghiên cứu

và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm đạo đức của Phật giáo góp phần nhằm

xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người mới Việt Nam.

pdf 6 trang phuongnguyen 3880
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan điểm đạo đức của Phật giáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan điểm đạo đức của Phật giáo

Tư tưởng của Hồ Chí Minh về quan điểm đạo đức của Phật giáo
58 
Tư tưởng của Hồ Chí Minh 
về quan điểm đạo đức của Phật giáo 
Đỗ Thị Hòa Hới1, Vũ Mạnh Hùng2 
1
 Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
2 Học viện An ninh nhân dân, Bộ Công an. 
Email: hoahoi2016@gmail.com 
Nhận ngày 10 tháng 1 năm 2019. Chấp nhận đăng ngày 21 tháng 1 năm 2019. 
Tóm tắt: Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có tư tưởng về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. 
Nội dung cơ bản trong quan điểm đạo đức của Phật giáo là từ bi hỷ xả vô ngã, vị tha, tu dưỡng, 
đoàn kết. Theo Hồ Chí Minh, quan điểm đạo đức của Phật giáo có giá trị không chỉ đối với phật tử 
mà đối với mọi người nói chung trong việc nhận thức và ứng xử theo giá trị Phật giáo. Nghiên cứu 
và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm đạo đức của Phật giáo góp phần nhằm 
xây dựng, hoàn thiện nhân cách con người mới Việt Nam. 
Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, giá trị, đạo đức, Phật giáo. 
Phân loại ngành: Triết học 
Abstract: Ho Chi Minh Thought includes thoughts on religions in general and Buddhism in 
particular. The basic contents of the ethical view of Buddhism are the four immeasurables 
(benevolence, mercy, cheerfulness and indifference), self-improvement of one's ethics, and 
solidarity. According to Ho Chi Minh, the ethical view is valuable not only for Buddhists but also 
for people in general in the understanding of and behaviour according to Buddhist values. Research 
and creative application of Ho Chi Minh Thought on the ethical viewpoint of Buddhism contribute 
to building and perfecting the personality of the new Vietnamese person. 
Keywords: Ho Chi Minh Thought, value, ethics, Buddhism. 
Subject classification: Philosophy 
1. Đặt vấn đề 
Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh có tư 
tưởng về tôn giáo nói chung và Phật giáo 
nói riêng. Theo Hồ Chí Minh, tôn giáo nói 
chung và Phật giáo nói riêng có những giá 
trị nhất định về đạo đức và văn hóa. Tư 
tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức của 
Đỗ Thị Hòa Hới, Vũ Mạnh Hùng 
59 
Phật giáo có nhiều nội dung sâu sắc. Tư 
tưởng này đã được nghiên cứu trong nhiều 
công trình, nhưng vẫn cần được làm rõ hơn. 
Bài viết này phân tích một số nội dung 
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức 
Phật giáo; qua đó góp phần nhìn nhận rõ 
hơn ý nghĩa của tư tưởng của Hồ Chí Minh 
đối với sự nghiệp xây dựng đất nước Việt 
Nam hiện nay. 
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm “từ, 
bi, hỷ, xả”, “vô ngã, vị tha” của Phật giáo 
Hồ Chí Minh sinh ra ở miền Trung, sống 
trong một quốc gia có nhiều loại hình tôn 
giáo, tín ngưỡng. Ở Việt Nam, Phật giáo 
dường như đứng ở vị trí nối kết dung thông, 
khoan hòa, khoan dung trong đời sống tâm 
linh. Điều này đã ảnh hưởng ít nhiều đến tư 
tưởng của Hồ Chí Minh về giá trị của Phật 
giáo. Hồ Chí Minh sớm nhận thấy rằng, 
Phật giáo là một bộ phận cấu thành của văn 
hóa và là di sản của văn hóa của con người 
Việt Nam. Bởi vì theo Người: “Vì lẽ sinh 
tồn cũng như vì mục đích của cuộc sống 
loài người mới sáng tạo và phát minh ra 
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, 
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, 
những công cụ phục vụ cho sinh hoạt hằng 
ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử 
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh 
đó tức là văn hóa” [6, tr. 431]. 
Hồ Chí Minh, với sự tinh tế trong tâm 
hồn, sâu sắc trong trí tuệ, lịch lãm trong trải 
nghiệm, đã sớm nhận ra rằng những giá trị 
Phật giáo cấu thành văn hóa phong phú của 
dân tộc; cứu nước là theo đường cứu khổ 
của Phật Thích Ca Mâu Ni. Bởi vì, Đức Phật 
đã xuất gia tìm con đường giác ngộ và xuất 
gia tìm đạo. Đức Phật nói về con đường đó 
như sau: “Ta không muốn sống trong cung 
vàng điện ngọc, ta không muốn sống trong 
cảnh vương giả trị vì thiên hạ, hưởng cuộc 
đời sung sướng cao sang trên mồ hôi nước 
mắt của lê dân. Ta không muốn sống trong 
xã hội bất công mà ta đã chứng kiến. Ta 
quyết định ra đi, dù phải xông pha trên gió 
bụi lao lung, ta cố tìm ra mối đạo giải thoát 
cho nhân loại muôn loài” [13, tr.33]. Đức 
Phật hướng dẫn chúng sinh đạt tới mục đích 
giác ngộ và giải thoát, chuyển cõi sa bà này 
thành cõi tịnh độ và cuộc đời cơ cực này 
thành nếp sống cực lạc [12, tr.318]. 
Theo Hồ Chí Minh, giá trị lớn trong giáo 
lý đạo Phật là từ, bi, hỷ, xả, vô ngã, vị tha, 
cứu khổ cứu nạn. Đây là ước vọng muôn 
đời của nhân loại, là ước muốn nhổ tận gốc 
rễ mọi khổ đau và giải thoát con người khỏi 
khổ đau trong cuộc sống, hướng con người 
tới cuộc sống an vui, tự tại. Hồ Chí Minh 
nhìn nhận Phật giáo rất bình dị và thiêng 
liêng, gắn chặt với nhu cầu cuộc sống của 
con người nơi trần thế. Người viết: “Tôn 
chỉ mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng 
cuộc đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, 
yên vui và no ấm” [11, tr.39]. 
Trước nỗi đau mất nước, cả dân tộc đặt 
dưới ách đô hộ của chế độ thực dân phong 
kiến, chủ nghĩa đế quốc, Người đã quyết 
tâm ra đi tìm đường cứu nước, mong cầu 
giải phóng dân tộc, mang lại cuộc sống ấm 
no, hạnh phúc cho nhân dân. Tầm nhìn của 
Người vượt xa qua không gian và thời gian 
đương thời. Ngày 5/1/1946, tại chùa Bà Đá, 
Người đã nói: “Trước Phật đài tôn nghiêm, 
trước quốc dân đồng bào có mặt tại đây, tôi 
xin thề hy sinh đem thân phấn đấu để giữ 
vững nền độc lập cho Tổ quốc. Hy sinh, 
nếu cần đến hy sinh cả tính mạng, tôi cũng 
không từ” [14, tr.12]. Noi theo tinh thần vô 
ngã, vị tha, Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc 
đời hy sinh, đấu tranh cho độc lập của Tổ 
quốc, vì hạnh phúc của nhân dân và tình 
thương yêu con người vô bờ bến. Người 
nói: “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 
60 
nhất, đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi 
ăn không ngon, ngủ không yên” [1, tr.2]; 
Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham 
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được 
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự 
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai 
cũng được học hành” [7, tr.161-162]. Điều 
này giống với tinh thần “vô ngã” của đạo 
Phật, không nghĩ đến bản thân mình, luôn 
quên mình vì mọi người. Bởi vì, theo Hồ Chí 
Minh, mục đích của tôn giáo nói chung 
cũng như Phật giáo nói riêng là giống nhau, 
cùng mưu cầu sự hạnh phúc của con người. 
Đạo Phật khẳng định rằng: “Nhân thị tối 
thắng” (con người cao hơn tất cả). Tương tự 
như vậy, Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong bầu 
trời không có gì tốt đẹp vẻ vang bằng phục 
vụ lợi ích cho nhân dân”, “việc gì có lợi cho 
nhân dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho 
dân phải hết sức tránh” [14, tr.12]. 
Nhận định về những giá trị tích cực của 
tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, 
Hồ Chí Minh đã nhận định: “Chúa Giê Su 
dạy: Đạo đức là bác ái, Phật Thích Ca 
dạy: Đạo đức là từ bi, Khổng Tử dạy: Đạo 
đức là nhân nghĩa” [7, tr.225]. Người 
nhiều lần tuyên truyền giáo dục cho nhân 
dân, cán bộ đảng viên phải tuyệt đối tôn 
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và 
quyền tự do không theo tín ngưỡng, tôn 
giáo. Người không bao giờ mảy may tạo ra 
sự hiểu lầm và hiềm khích về tín ngưỡng, 
tôn giáo. Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: “Mục 
tiêu cao cả của Phật Thích Ca và chúa Giê 
Su đều giống nhau: Thích Ca và Giê Su đều 
muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình 
đẳng, tự do và thế giới đại đồng”. Người 
còn chú trọng khai thác giá trị tấm gương, 
sự hy sinh cao cả của các vị sáng lập ra các 
tôn giáo để nêu gương trong giáo dục đồng 
bào các tôn giáo nói chung và đồng bào 
Phật tử nói riêng. Người viết; “Đức Giê Su 
hy sinh vì muốn loài người tự do, hạnh 
phúc” [7, tr.50], Đức Phật phấn đấu suốt 
đời để: “Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha” 
[7, tr.50]. Hồ Chí Minh hiểu rõ sức lan tỏa 
của các giá trị đạo đức cao cả, khoan dung 
trong các tôn giáo đối với giáo dục nhân 
cách, nhất là tinh thần khoan dung Phật 
giáo, nhằm xây dựng đạo đức cho đồng bào 
nói chung. Người đã kế thừa có bổ sung, 
phát triển nhiều khái niệm của Phật giáo 
(như vô thường, vô ngã, từ bi), của Công 
giáo (như “kính Chúa yêu người’’ “công 
bằng bác ái’’), của Nho giáo (như “trung”, 
“hiếu”, “nhân”). Song, Người còn đổi 
mới về nội dung các khái niệm ấy cho phù 
hợp với yêu cầu mới của sự nghiệp cách 
mạng. Trong đó, Người đã vượt qua được 
giới hạn của lịch sử, của thiên kiến, hạn chế 
lập trường giai cấp cứng nhắc về tiếp thu 
các giá trị đạo đức trong các tôn giáo, để 
phục vụ cho sự nghiệp cách mạng của dân 
tộc và nhân loại. 
Trong thực tế, có những thế lực lợi 
dụng, xuyên tạc tôn giáo, để làm những 
việc phi nhân tính, phản văn hóa. Hồ Chí 
Minh, một mặt trân trọng, kế thừa mặt 
tích cực của Phật giáo, dưới góc độ văn 
hóa. Mặt khác, Người cũng luôn luôn 
nhắc nhở, cảnh tỉnh cần chú ý phê phán, 
loại trừ những hiện tượng phản văn hóa 
do lợi dụng Phật giáo, như bói toán, đồng 
cốt, mê tín dị đoan Hồ Chí Minh đã 
nhìn thấy ở Phật giáo khát vọng tự do và 
hạnh phúc của quần chúng bị áp bức, đau 
khổ, thấy rõ rằng tính nhân văn của Phật 
giáo là hướng tín đồ, hướng nhân loại tới 
các giá trị hòa bình, bình đẳng, bác ái, 
khuyên con người làm điều thiện và loại 
trừ cái ác. Vì thế, Người quyết tâm bảo 
đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của 
mọi công dân được thực thi trong thực tế, 
phát huy được những giá trị tốt đẹp trong 
các tôn giáo, ngăn ngừa có hiệu quả các 
thế lực phản động lợi dụng tôn giáo vào 
Đỗ Thị Hòa Hới, Vũ Mạnh Hùng 
61 
các mục tiêu ngoài tôn giáo; bảo vệ các 
giá trị văn hóa vật chất và tinh thần đích 
thực của các tôn giáo nói chung. 
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm 
tu dưỡng của Phật giáo 
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã hiểu về giá trị 
của quan điểm đạo đức đạo Phật. Tứ diệu 
đế chính là một trong những tuệ giác sáng 
chói nhất của Đức Phật. Theo Đức Phật, nỗi 
khổ của cuộc đời là do vô minh, để dứt trừ 
nguyên nhân đau khổ, cần thực hành theo 
bát chánh đạo. 
Hồ Chí Minh hiểu giá trị của các quy 
phạm đạo đức của Phật giáo, như “ngũ giới”, 
“thập thiện”. Trong đó, các giới cấm là không 
sát sinh, không trộm cắp, không nói dối, 
không tà dâm, không được uống rượu. Quan 
điểm này có thể dùng để xây dựng nhân cách 
lý tưởng của con người. Để giải thoát khỏi 
đau khổ, đem lại an vui cho mọi người, Đức 
Phật cho rằng con người phải giác ngộ, dùng 
trí tuệ của mình để diệt trừ “tham, sân, si’’. 
Tương tự như vậy, Hồ Chí Minh rất chú trọng 
giáo dục đồng bào và các cán bộ, đảng viên 
phải thực hành việc tu dưỡng rèn luyện đạo 
đức một cách tự giác, để có thể nhân lên sức 
mạnh nội lực cho cách mạng thắng lợi. Hồ 
Chí Minh nhiều lần khẳng định giá trị trong 
đạo đức Phật giáo thể hiện ở mục tiêu thiêng 
liêng đưa lại hạnh phúc và an lạc cho chúng 
sinh. Nguyên tắc chung của Phật giáo là dạy 
cho chúng sinh tự lực phấn đấu, đề cao lòng 
từ bi, vô ngã, vị tha, làm điều thiện, tránh 
điều ác. Phật giáo luôn khuyến khích chúng 
sinh “tự độ độ tha, tự giác giác tha”. Trong 
Thư gửi Đại hội lần thứ III Hội Phật giáo 
Thống nhất Việt Nam ngày 28/9/1964, Hồ 
Chí Minh viết: “Tôi mong rằng đồng bào 
Phật giáo hãy thực hiện lời Phật dạy “lợi lạc 
quần sinh, vô ngã, vị tha”, là tất cả vì lợi ích 
mọi người, không cá nhân chủ nghĩa”. 
 Phật giáo có tư tưởng về tự do, bình 
đẳng về công bằng xã hội, về con đường 
giải thoát và tự tại nơi trần thế. Đức Phật đã 
nêu tư tưởng đó như sau [15]: “Không có 
đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không 
có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn. 
Mỗi người khi mới sanh không phải có sẵn 
dấu tin-ca (tilca) trên trán, không đeo sẵn 
dây chuyền trong cổ” [17]. Hồ Chí Minh 
nhận thức rõ những giá trị của tư tưởng đó 
của Phật giáo. Do đó, Hồ Chí Minh bao giờ 
cũng nhìn nhận giá trị Phật giáo với một 
thái độ trân trọng và quý mến. Người viết: 
“Nền tảng và truyền thống của triết học Ấn 
Độ là lý tưởng hòa bình bác ái. Liên tiếp 
trong nhiều thế kỷ, tư tưởng của Phật giáo, 
nghệ thuật khoa học Ấn Độ đã lan khắp thế 
giới” [5, tr.201]. Cù Huy Cận đã có nhận 
xét về Hồ Chí Minh như sau: “Khi bình 
sinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn có 
một tấm lòng kính mộ sâu sắc và cảm động 
đối với Đức Phật Thích Ca - người sáng lập 
ra đạo Phật, cũng như đối với tất cả các vị 
sáng lập những tôn giáo lớn. Người đã cảm 
nhận ở các vị giáo chủ này trước hết là lòng 
thương cảm sâu sắc đối với số phận của 
những chúng sinh và ý muốn thiết tha làm 
sao giảm nhẹ hoặc xóa bỏ những nỗi đau 
khổ của con người trên trái đất” [2]. 
Trong giáo lý nhà Phật, Đức Phật dạy các 
đệ tử: “Này các Tỳ kheo! Hãy tu hành vì 
hạnh phúc cho quần chúng, vì an lạc cho 
quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì 
hạnh phúc và an lạc cho chư Thiên và loài 
người”; “Này các Tỳ kheo! Xưa và nay ta chỉ 
nói lên sự khổ và diệt khổ”. Hồ Chí Minh 
nhận thấy giá trị tư tưởng đó của Phật giáo, từ 
đó Người cho rằng cần “làm cho phần thiện 
trong mỗi con người nảy nở” [9, tr.558]. 
Nhận thức được vai trò của tăng ni trong 
việc thực hiện và lan tỏa các giá trị đạo đức, 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 
62 
tu dưỡng nên nhân cách con người Việt 
Nam, khi nói chuyện với tăng ni, tín đồ phật 
tử, Hồ Chí Minh đã nói: “Tôi mong các 
Hòa thượng, Tăng ni và Phật tử hãy tích 
cực thực hiện tinh thần từ bi, vô ngã, vị tha 
trong sự nghiệp cứu nước, giữ nước và giữ 
đạo để cùng toàn dân sống trong Độc lập, 
Tự do, Hạnh phúc” [12, tr.321-322]. 
Chữ “chính” trong Phật giáo luôn được 
nhấn mạnh trong suốt quá trình tu hành, 
đức “chính” toàn diện từ tư duy đến hành 
động, từ lời nói đến việc làm, nhằm hướng 
thiện, loại bỏ cái tà, cái ác Hiểu rõ điều 
đó, Hồ Chí Minh nói: “Đức Phật dạy tín đồ, 
con người thông hiểu, tu hành từ muôn vàn 
giáo lý, đặng kết đọng hướng tới sống theo 
đức hạnh cao nhất: “Hãy gấp làm điều 
thiện, ngăn tâm làm điều ác” [16], và: “cần, 
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là chuẩn 
mực đạo đức cao quý của con người. 
Như vậy, Hồ Chí Minh đã nhận thấy 
rằng các chuẩn mực đạo đức Phật giáo có 
giá trị, có sức ảnh hưởng rộng rãi trong xã 
hội. Người đã kế thừa và nâng cao giá trị 
đạo đức đó để xây dựng nền đạo đức mới 
cho con người Việt Nam. 
4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan điểm 
đoàn kết của Phật giáo 
Hồ Chí Minh đã nhận ra giá trị của quan 
điểm đoàn kết trong văn hóa Việt Nam và 
trong Phật giáo. Trong Kinh Trung bộ III, 
có nhiều chỗ chép lời Đức Phật dạy về tư 
tưởng lục hoà, là 6 nguyên tắc sống. Đối 
với lối sống Phật giáo, bên trong luôn lấy 
tinh thần từ bi, trí huệ, giải thoát, hòa hợp 
làm cơ sở, bên ngoài lấy tinh thần nhẫn 
nhịn, đoàn kết, phụng sự tha nhân sự, góp 
phần xây dựng xã hội bằng những hình thức 
hoằng pháp, từ thiện, xây dựng nhân tâm 
làm mục tiêu hoạt động. Hồ Chí Minh cũng 
có tư tưởng “đoàn kết, hòa hợp”. Với tư 
tưởng đó, Hồ Chí Minh đã khẳng định giá 
trị của quan điểm đoàn kết, hòa hợp của 
Phật giáo. 
Trong thư gửi đồng bào phật tử năm 
1957, Hồ Chí Minh khẳng định tôn chỉ của 
đạo Phật là nhằm xây dựng một cuộc sống 
bình đẳng, no ấm và yên vui. Người khen 
ngợi về những đóng góp của đồng bào phật 
tử cho cuộc kháng chiến, đồng thời kêu gọi 
tăng ni, phật tử đoàn kết, góp phần xây 
dựng hòa bình, ngăn chặn âm mưu của kẻ 
thù lợi dụng vấn đề tôn giáo để chia rẽ khối 
đại đoàn kết toàn dân. Hồ Chí Minh viết: 
“Tôi có lời khen ngợi các vị tăng ni và tín 
đồ đã sẵn lòng nồng nàn yêu nước, hăng hái 
làm tròn nghĩa vụ của người công dân và 
xứng đáng là phật tử... Trong cải cách 
ruộng đất, tuy có nơi đã vi phạm sai lầm 
trong việc thực hiện chính sách tôn trọng tự 
do tín ngưỡng, nhưng Đảng và Chính phủ 
đã có chính sách kiên quyết sửa chữa. Hiện 
nay... đời sống nhân dân dần dần càng được 
cải thiện, cũng giống như tôn chỉ mục đích 
của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời 
thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui no 
ấm... Tôi mong các vị tăng, ni và đồng bào 
tín đồ đã đoàn kết thì càng đoàn kết hơn để 
góp phần xây dựng hòa bình chóng thắng 
lợi. Hãy ra sức giúp đỡ cán bộ, hăng hái 
thực hiện mọi công tác của Chính phủ, chấp 
hành đúng chính sách tôn trọng tự do tín 
ngưỡng... hãy ra sức đấu tranh giành thống 
nhất đất nước” [8, tr.290-291]. Khi đất 
nước bị chia cắt làm hai miền, Hồ Chí Minh 
kêu gọi tăng ni, phật tử đoàn kết: “Tôi thiết 
tha kêu gọi tất cả những người thật thà yêu 
nước không phân biệt tầng lớp nào, tín 
ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đã 
đứng về phe nào, chúng ta thật thà cộng tác, 
vì dân, vì nước mà phấn đấu để thực hiện 
hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong 
nước Việt Nam yêu quý của chúng ta” [10, 
Đỗ Thị Hòa Hới, Vũ Mạnh Hùng 
63 
tr.323]. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cũng 
đánh giá cao những đóng góp, hy sinh của 
tăng ni, tín đồ Phật giáo trong hai cuộc 
kháng chiến cứu nước. Trong thư gửi Đại 
hội 3, Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam, 
Người viết: “Các vị tăng ni, tín đồ Phật giáo 
trước đây có công với kháng chiến, nay thì 
đang góp sức cùng toàn dân xây dựng miền 
Bắc giàu mạnh và đấu tranh thực hiện hòa 
bình thống nhất nước nhà” [7, tr.39]. Hồ 
Chủ tịch luôn quan tâm tới nhu cầu chính 
đáng của mọi người, nhất là đồng bào tôn 
giáo, các phật tử. Người nhắc nhở cán bộ, 
đảng viên phải làm sao cho đồng bào có 
đạo được phần xác ấm no, phần hồn thong 
dong. Theo Hồ Chí Minh, thỏa mãn nhu cầu 
vật chất và tinh thần thì đồng bào tôn giáo 
nói chung, đồng bào Phật giáo nói riêng sẽ 
an tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng 
và Nhà nước, sẽ sống và hành đạo đúng 
đắn. Tóm lại, theo Hồ Chí Minh, quan điểm 
đoàn kết của Phật giáo là quan điểm đạo 
đức có giá trị, không chỉ đối với phật tử mà 
đối với mọi người. Các tín đồ và chức sắc, 
các tăng ni phật tử trước hết là những công 
dân; họ có quyền lợi và nghĩa vụ như những 
công dân khác, họ mong muốn được sống 
“tốt đời, đẹp đạo”, “yêu nước” theo Hiến 
chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam. 
5. Kết luận 
Hồ Chí Minh có những tư tưởng sâu sắc về 
giá trị đạo đức của các tôn giáo nói chung 
và của Phật giáo nói riêng. Hồ Chí Minh đã 
kế thừa những giá trị trong nhân sinh quan 
của Phật giáo, nhất là quan điểm đạo đức 
Phật giáo. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan 
điểm đạo đức của Phật giáo có ý nghĩa thực 
tiễn to lớn. Chúng ta cần tiếp tục nghiên 
cứu đầy đủ và hệ thống hơn nữa tư tưởng 
của Người và vận dụng đúng tư tưởng đó để 
tiếp tục hoàn thiện chính sách và pháp luật 
về tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam, qua đó 
nhằm phát huy giá trị của Phật giáo nói 
riêng và tôn giáo nói chung. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Báo Cứu quốc, số ra ngày 23/10/1946. 
[2] Cù Huy Cận (1989), “Hồ Chí Minh - nhà văn 
hóa lớn, một người hiền của thời đại chúng ta”, 
Báo Nhân Dân, ngày 01/09. 
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[4] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 
(2016), Chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín 
ngưỡng của Việt Nam: 25 năm nhìn lại, Nxb Lý 
luận chính trị, Hà Nội. 
[5] Hồ Chí Minh (1985), Truyện và ký, Nxb Văn 
học, Hà Nội. 
[6] Hồ Chí Minh (1993), Toàn tập, t.3, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
[7] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.4, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
[8] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.8, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
[9] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.12, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[10] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, t.7, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
[11] Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, t.4, Nxb 
Sự thật, Hà Nội, 1958. 
[12] Thích Đức Nghiệp (1995), “Hồ Chủ tịch, một biểu 
 trưng nhân bản Việt Nam”, Đạo Phật Việt Nam, 
Nxb Tổng hợp Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. 
[13] Thích Diệu Niệm (1991), “Tư tưởng Hồ Chí 
Minh gần gũi với tư tưởng Phật giáo”, Nội san 
Nghiên cứu Phật giáo, số 1. 
[14] Nguyễn Đức Quỳnh (2015), “Nét tinh hoa Phật 
giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí 
Nghiên cứu Phật học, số 3. 
[15]  
w/2168/51/, ngày truy cập 14/12/2018 
[16] 
nam/minh-triet-ho-chi-minh-voi-phat-giao-
13744.htm, ngày truy cập 10/12/2018 
[17] https://giacngo.vn/lichsu/2009/02/25/7FD413/, 
ngày truy cập 08/10/2018 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_cua_ho_chi_minh_ve_quan_diem_dao_duc_cua_phat_giao.pdf