Về bản chất mâu thuẫn của vận động

TÓM TẮT

Trên cơ sở phân tích tư tưởng biện chứng của Dê - nông về tính mâu thuẫn của vận động (cơ học),

bài báo đã chỉ ra những giá trị và hạn chế của tư tưởng này, qua đó khẳng định tư tưởng biện

chứng về sự vận động là một trong những giá trị quan trọng của triết học Hy Lạp cổ đại. Từ sự

phân tích các học thuyết toán học, vật lý học hiện đại về vấn đề vận động, không gian, thời gian

bài báo đã góp phần làm sáng tỏ luận điểm của Ph. Ăngghen về bản chất mâu thuẫn của vận động,

qua đó khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa triết học và khoa học.

Từ khóa: mâu thuẫn, vận động, không gian, thời gian, vật chất

pdf 5 trang phuongnguyen 800
Bạn đang xem tài liệu "Về bản chất mâu thuẫn của vận động", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Về bản chất mâu thuẫn của vận động

Về bản chất mâu thuẫn của vận động
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 177 - 181 
 177
VỀ BẢN CHẤT MÂU THUẪN CỦA VẬN ĐỘNG 
Đồng Văn Quân* 
 Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Trên cơ sở phân tích tư tưởng biện chứng của Dê - nông về tính mâu thuẫn của vận động (cơ học), 
bài báo đã chỉ ra những giá trị và hạn chế của tư tưởng này, qua đó khẳng định tư tưởng biện 
chứng về sự vận động là một trong những giá trị quan trọng của triết học Hy Lạp cổ đại. Từ sự 
phân tích các học thuyết toán học, vật lý học hiện đại về vấn đề vận động, không gian, thời gian 
bài báo đã góp phần làm sáng tỏ luận điểm của Ph. Ăngghen về bản chất mâu thuẫn của vận động, 
qua đó khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa triết học và khoa học. 
Từ khóa: mâu thuẫn, vận động, không gian, thời gian, vật chất. 
ĐẶT VẤN ĐỀ * 
Trong tác phẩm “Chống Duyrinh” Ph. 
Ăngghen viết: “Bản thân sự vận động đã là 
một mâu thuẫn; ngay như sự di động một 
cách máy móc và đơn giản sở dĩ có thể thực 
hiện được, cũng chỉ là vì một vật trong cùng 
một lúc vừa ở nơi này lại vừa ở nơi khác, vừa 
ở cùng một chỗ lại vừa không ở chỗ đó. Và sự 
nảy sinh thường xuyên và việc giải quyết 
đồng thời mâu thuẫn này – đó cũng chính là 
sự vận động” [3, tr. 172 – 173]. 
Đây là một tư tưởng biện chứng hết sức sâu 
sắc của Ph. Ăngghen về bản chất mâu thuẫn 
của vận động, được tiếp nhận trong giới triết 
học mác-xít như là một chân lý hiển nhiên, 
không cần phải chứng minh. Song, trên thực 
tế tư tưởng này của Ph. Ăngghen chưa có câu 
trả lời hay sự phân tích thoả đáng. Vì thế, nó 
vẫn đang là vấn đề trăn trở của các nhà 
nghiên cứu triết học khi bàn về vận động. 
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 
Trong lịch sử phát triển của triết học, Ph. 
Ăngghen không phải là người đầu tiên bàn về 
bản chất mâu thuẫn của vận động. Nhà triết 
học Hy Lạp cổ đại Dê - nông (490 – 430 Tcn) 
đã phát hiện ra bản chất mâu thuẫn của vận 
động khi ông tìm cách nắm bắt nó bằng khái 
niệm. Tuy nhiên, khi phát hiện ra bản chất 
mâu thuẫn của vận động ông lại đi đến phủ 
nhận nó, cho rằng vận động không có tính 
* Tel: 0912.021.314; Email: dongvanquan@dhsptn.edu.vn 
hiện thực, vì theo ông, những gì chứa đựng 
mâu thuẫn thì không hiện thực. Mâu thuẫn 
của vận động được Dê - nông phân tích trong 
các luận đề nguỵ biện về sự vận động [theo 5, 
tr 166 – 168]. Trong các luận đề của mình, Dê 
– nông tìm cách chứng minh ba điều: vận 
động không thể bắt đầu, vận động không thể 
diễn ra, vận động không thể kết thúc. Cụ thể 
như sau: 
- Luận đề về sự không thể bắt đầu của vận 
động: Để một người đi qua một đoạn đường, 
trước đó người ấy cần đi qua ½ của nó. Để đi 
qua ½ đoạn đường, trước đó nữa người ấy 
phải đi qua được một nửa của nó, tức là ¼ 
đoạn đường Tóm lại, để đi qua một đoạn 
đường, trước tiên cần đi qua 1/2n (n là một số 
tự nhiên) của nó. Tuy nhiên, phép chia 1/2n là 
một phép chia vô tận, không kết thúc. Do đó, 
chúng ta không thể hiểu được làm thế nào để 
người đó có thể bắt đầu được sự vận động của 
mình để đi qua đoạn 1/2n của đoạn đường. 
Kết luận là: Vận động không thể bắt đầu; hay 
nói cách khác là: Sự bắt đầu của vận động là 
vô lý, không thể giải thích được. 
- Luận đề về sự không thể kết thúc của vận 
động: Giữa Asin (thần Asin, đại diện cho vận 
động nhanh) và con rùa (đại diện cho vận 
động chậm) là một khoảng cách, con rùa chạy 
khỏi Asin và Asin đuổi theo nó. Ở lần thứ 
nhất, khi Asin chạy đến điểm con rùa đứng, 
trong thời gian này con rùa đã chạy khỏi điểm 
đó được một đoạn đường. Lần thứ hai, khi 
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 177 - 181 
 178
Asin chạy đến điểm con rùa vừa đứng, trong 
thời gian này con rùa cũng đã chạy khỏi điểm 
đó được một đoạn đường. Lần thứ ba, lần thứ 
tư đều như vậy. Tóm lại, cứ mỗi khi Asin 
chạy đến điểm con rùa vừa đứng thì bao giờ 
con rùa cũng vượt khỏi Asin một đoạn đường, 
do đó Asin không bao giờ có thể đuổi kịp con 
rùa. Kết luận là: Vận động không thể kết thúc. 
- Luận đề về sự không thể xảy ra của vận 
động: Một mũi tên đang bay trong không khí 
(đang vận động). Khi ta xét tại một thời điểm 
nhất định, ta thấy mũi tên đó có mặt tại một vị 
trí nhất định trong không gian. Tại vị trí đó, 
mũi tên có mặt, tức là nó đang đứng im ở đó. 
Khi ta xét tại một thời điểm khác, ta lại thấy 
mũi tên đó có mặt tại một vị trí khác trong 
không gian. Tại vị trí đó, mũi tên có mặt, tức 
là nó đang đứng im ở đó. Xét tại mỗi vị trí, 
mũi tên là đứng im, nhưng xét trên toàn bộ 
đoạn đường đi của nó, mũi tên đang vận 
động. Vậy, vận động là tổng của những điểm 
đứng im. Nhưng tổng của những điểm đứng 
im phải là đứng im. Do đó, vận động là đứng 
im. Kết luận là: vận động không thể diễn ra 
được vì sự diễn ra của nó là vô lý. 
Từ lập luận trên, Dê - nông khẳng định: Vận 
động không bắt đầu, không diễn ra và không 
kết thúc, do đó vận động không tồn tại trong 
hiện thực. 
Sai lầm của Dê - nông bắt nguồn từ việc ông 
hiểu không đúng về bản chất của không gian 
và thời gian, tách không gian, thời gian ra 
khỏi vật chất và coi chúng là những tồn tại 
biệt lập. 
Quan điểm siêu hình coi không gian, thời gian 
là những tồn tại biệt lập, bên ngoài vật chất, 
không phụ thuộc vào vật chất: không gian là 
khoảng trống, là không gian rỗng, thời gian là 
sự trôi qua vĩnh hằng, là thời gian rỗng; coi 
vận động chỉ là sự di chuyển vị trí giản đơn 
của các vật trong không gian. Sự phát triển 
của khoa học dần dần bác bỏ quan điểm này. 
Trong hình học phẳng Êcơlít có một mệnh đề 
được thừa nhận mà không thể chứng minh 
hay bác bỏ, đó là: “Qua một điểm nằm ngoài 
một đường thẳng ta vẽ được một và chỉ một 
đường thẳng song song với đường thẳng đã 
cho” [2, tr. 92]. Một số nhà toán học đặt vấn 
đề thay thế mệnh đề này bằng một mệnh đề 
khác, từ đó họ xây dựng các hệ thống hình 
học phi Êcơlit, trong số đó có hình học lồi của 
Labachepxki (người Nga). Ông đặt vấn đề 
ngược lại, cho rằng tiên đề Êcơlit là không 
đúng, cần diễn đạt lại theo hướng khác là, qua 
một điểm đứng ngoài một đường thẳng cho 
trước, ta có thể vẽ được vô số những đường 
song song với nó. Hình học lồi của 
Labachepxki cho ta ý tưởng về một loại 
không gian mới, không gian cong, vênh. 
Trong loại không gian này, khái niệm đường 
thẳng được hiểu là đường kéo dài vô tận theo 
chiều của không gian mà tại mỗi điểm của nó, 
độ vênh so với chiều không gian đó là bằng 0. 
Khi đó, có vô số đường cùng đi qua một điểm 
nhưng đều được coi là song song với đường 
thẳng cho trước vì chúng cách đều đường 
thẳng này tại mỗi điểm (hai đường thẳng 
được coi là song song nếu như chúng cách 
đều nhau tại mỗi điểm). Trong không gian 
phẳng, tất cả các đường này là trùng nhau, 
còn trong không gian lồi (cong vênh) những 
đường này tách biệt nhau. 
Thuyết tương đối của Anhxtanh đã chứng 
minh cho tính đúng đắn của ý tưởng khoa học 
này. Theo thuyết tương đối, khi một hệ vật 
chất vận động với một tốc độ rất cao, tương 
đương với tốc độ ánh sáng (300.000km/s) thì 
tất cả các thuộc tính không gian, thời gian, 
khối lượng trong hệ này đều thay đổi: khối 
lượng của vật tăng lên, không gian bị co hẹp 
lại, thời gian chậm lại (trong cơ học của 
Niuton, những đại lượng này được coi là bất 
biến). Điều này chứng tỏ: không gian và thời 
gian không tồn tại biệt lập, bên ngoài vật chất 
mà chúng gắn liền với vật chất và phụ thuộc 
vào từng hệ vật chất cụ thể. 
Trên cơ sở khái quát những thành tựu của 
khoa học, triết học Mác – Lênin dần dần làm 
sáng tỏ các vấn đề biện chứng về không gian, 
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 177 - 181 
 179
thời gian và vận động, từ đó giúp ta phân tích, 
làm rõ luận điểm của Ph. Ăngghen về bản 
chất mâu thuẫn của vận động. 
- Không gian là hình thức tồn tại của vật chất, 
biểu thị các thuộc tính của vật như vị trí, kết 
cấu, quảng tính. 
- Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất, 
biểu thị các thuộc tính của vật như trình tự 
trước, sau; trạng thái cũ, mới; độ lâu của quá 
trình. 
- Không gian và thời gian luôn gắn liền với 
nhau, tạo nên một hệ thống thống nhất, hệ 
thống không gian - thời gian mà trong đó vật 
chất tồn tại và vận động. Không gian, thời 
gian bao giờ cũng là không gian vật chất và 
thời gian vật chất; chúng được lấp đầy vật 
chất, không có không gian rỗng và thời gian 
rỗng; chúng phụ thuộc vào từng hệ vật chất 
cụ thể. Ngược lại, vật chất chỉ có thể tồn tại 
được trong không gian và trong thời gian. Do 
đó, Ph. Ăngghen đã chỉ ra rằng, tồn tại ngoài 
không gian cũng hoàn toàn vô lý như là tồn 
tại ngoài thời gian. V.I.Lênin cũng khẳng 
định rằng trong thế giới, không có gì khác 
ngoài vật chất đang vận động và vật chất vận 
động không thể ở đâu khác hơn là trong 
không gian và trong thời gian; và đó là không 
gian, thời gian vật chất: “những khái niệm 
đang phát triển của chúng ta về không gian và 
thời gian đều phản ánh thời gian và không 
gian thực tại khách quan” [4, tr. 225]. 
- Hệ thống không gian – thời gian có các tính 
chất cơ bản sau: 
+ Tính khách quan: cả không gian và thời 
gian đều tồn tại một cách khách quan, bên 
ngoài đầu óc của con người, không phụ thuộc 
vào ý thức của con người. 
+ Tính vĩnh viễn và vô cùng tận: Không gian 
và thời gian tồn tại một cách vĩnh viễn, không 
sinh ra, không mất đi, chúng luôn biến đổi 
trong sự phụ thuộc vào từng hệ vật chất cụ 
thể. Không gian và thời gian là vô cùng tận cả 
về bề dài (thời gian), bề rộng (không gian) và 
bề sâu (phân chia vô tận). Chúng không có 
điểm đầu, điểm cuối và được phân chia vô 
tận, tức là không có điểm không gian nhỏ 
nhất và không có thời điểm ngắn nhất. 
+ Tính ba chiều của không gian và Tính một 
chiều của thời gian: “Không gian luôn có ba 
chiều (chiều dài, chiều rộng, chiều cao), còn 
thời gian chỉ có một chiều (từ quá khứ tới 
tương lai” [1, tr. 163]. 
Tính ba chiều của không gian: 
Không gian vật chất bao giờ cũng có đủ ba 
chiều, đó là chiều cao, chiều dài và chiều 
rộng. Nếu thiếu một trong ba chiều này thì 
toàn bộ không gian bị triệt tiêu. Do đó, các 
khái niệm mặt phẳng (không gian hai chiều), 
đường thẳng (không gian một chiều), điểm 
(không gian không chiều) chỉ là những khái 
niệm lý tưởng mà trong thực tế không tồn tại. 
Như vậy, mặt phẳng vẫn là một không gian ba 
chiều, trong đó chiều cao (độ dày) rất nhỏ nên 
được trừu tượng hoá, không tính đến, nhưng 
vẫn đảm bảo khác không. Đường thẳng cũng 
là không gian ba chiều, trong đó chiều cao và 
chiều rộng rất nhỏ nên được trừu tượng hoá. 
Điểm cũng là không gian ba chiều mà cả ba 
chiều này đều rất nhỏ nên có thể trừu tượng 
hoá khỏi chúng. 
Không gian vật chất cũng không thể lớn hơn 
ba chiều. Trong toán học xuất hiện khái niệm 
không gian n chiều, đây chỉ là một khái niệm 
lý tưởng, không tương ứng với không gian 
thực. Lợi dụng khái niệm này, một số nhà duy 
tâm tôn giáo đã lập luận để chứng minh cho 
sự tồn tại của Thượng đế, Chúa trời như sau: 
Giả sử tồn tại một thế giới hai chiều (chỉ có 
chiều dài và chiều rộng, chiều cao bằng 
không), trong đó có các thực thể tư duy đang 
tồn tại. Có một quả bóng rơi từ chiều thứ ba 
của không gian vào thế giới hai chiều này rồi 
ra khỏi nó. Đối với chúng ta, sống trong 
không gian ba chiều, chúng ta nhận thức được 
đầy đủ đường đi của quả bóng. Nhưng đối với 
những thực thể sống trong không gian hai 
chiều, họ thấy tự nhiên quả bóng xuất hiện, 
rồi tự nhiên nó biến mất mà họ không biết nó 
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 177 - 181 
 180
biến đi đâu. Tương tự như vậy, Chúa hay 
Thượng đế sống ở chiều thứ tư của không 
gian, nơi con người không nhận thức được. 
Chỉ khi nào Chúa xuất hiện trong không gian 
ba chiều thì con người mới nhận thức được sự 
tồn tại của Chúa và chỉ một số ít người (thầy 
tu, cha cố) mới được tiếp xúc với ngài (?). 
Trong thực tế, không có chiều thứ tư nào cả vì 
không gian vật chất chỉ có ba chiều. 
Tính một chiều của thời gian: Thời gian vật 
chất chỉ có một chiều duy nhất, đó là đi từ quá 
khứ đến hiện tại và hướng vào tương lai, 
không có chiều ngược lại. Sự vật tồn tại và 
biến đổi trong thời gian. Thời gian tồn tại và 
biến đổi của nó có thể dài, ngắn khác nhau 
nhưng độ dài của thời gian vật chất bao giờ 
cũng phải khác không. Như vậy, thời điểm 
không phải là một lát cắt thời gian bằng 
không, mà đây là một khoảng thời gian rất 
ngắn, có thể được trừu tượng hoá (không tính 
đến) nhưng vẫn khác không. 
Từ các lập luận trên, chúng ta sẽ tập trung 
phân tích để làm sáng tỏ luận điểm của Ph. 
Ăngghen: “Bản thân sự vận động là một mâu 
thuẫn; ngay cả sự di chuyển một cách máy 
móc và đơn giản cũng chỉ có thể thực hiện 
được là vì một vật thể trong cùng một lúc vừa 
ở nơi này lại vừa ở nơi khác, vừa ở cùng một 
chỗ lại vừa không ở chỗ đó” [3, tr 172-173]. 
Trước tiên, cần làm rõ khái niệm “Thời điểm”: 
Thời gian được tính bằng các đơn vị giây, 
phút, giờ, ngày, tuần, tháng, năm Trong đó, 
đơn vị cơ sở là "ngày", một ngày được chia 
làm 24 giờ (12 canh giờ - cách tính thường sử 
dụng thời xưa), 1 giờ chia thành 60 phút, một 
phút có 60 giây, 1 tuần gồm 7 ngày, 1 tháng 
bao gồm 28 đến 31 ngày tuỳ thuộc vào tháng 
trong năm... 
Theo quy ước hiện đại trong vật lý, 1 giây 
được định nghĩa như sau: 
Giây là khoảng thời gian bằng 9,192,631,770 
lần chu kỳ của bức xạ điện từ phát ra bởi 
nguyên tử Ce133 khi thay đổi trạng thái giữa 
hai mức năng lượng đáy siêu tinh vi. 
"Thời điểm" là một trạng thái vật lý cụ thể (có 
thể xác định được) của một hệ. Thời điểm 
không phải là một lát cắt thời gian có độ dài 
bằng 0, bởi vì khi đó thời gian sẽ bị triệt tiêu. 
Thời điểm phải được hiểu là một khoảng thời 
gian rất ngắn (khác 0), nên có thể tạm thời 
được trừu tượng hoá, không tính đến độ dài 
của nó. Nhưng vì độ dài của thời điểm là khác 
không, nên nó vẫn có thể được chia nhỏ hơn 
(không có thời điểm nhỏ nhất), do đó mỗi một 
thời điểm đều chứa đựng trong nó vô số thời 
điểm khác. 
Khái niệm “Điểm” không gian: Vì không 
gian là không gian vật chất, không gian hiện 
thực nên mọi khái niệm liên quan đến không 
gian đều phải thể hiện được đầy đủ các tính 
chất của không gian hiện thực. Trong toán 
học, khái niệm “Điểm” là một khái niệm lý 
tưởng, nó trừu tượng hoá khỏi mọi kích 
thước không gian nên điểm được coi là một 
không gian có kích thước bằng 0 về mọi 
hướng. Tuy nhiên, nếu mọi kích thước của 
điểm đều bằng 0 thì bản thân điểm sẽ bị triệt 
tiêu (không tồn tại trong thực tế). Do đó, 
điểm được hiểu là một không gian hẹp về cả 
ba chiều, nhưng khác 0. Vì kích thước của 
điểm khác 0 nên mỗi điểm vẫn có thể chia 
nhỏ hơn, do đó mỗi điểm không gian chứa 
đựng trong nó vô số điểm khác. 
Khi ta nói: “một vật thể trong cùng một lúc 
vừa ở nơi này lại vừa ở nơi khác”. Điều đó có 
nghĩa là: “trong cùng một lúc” – tức là trong 
cùng một thời điểm (một khoảng thời gian rất 
ngắn nào đó), vật thể tiến đến một vị trí nào đó 
trong không gian; nhưng cũng trong khoảng 
thời gian đó nó vượt qua vị trí này để có mặt ở 
vị trí lân cận (do nó luôn thay đổi vị trí). 
Khi ta nói: “một vật thể trong cùng một lúc 
vừa ở cùng một chỗ lại vừa không ở chỗ đó”. 
Điều này có nghĩa là trong cùng một lúc (một 
khoảng thời gian ngắn) vật thể tiến đến, đồng 
thời vượt qua một điểm nào đó, nên sự vật 
vừa có mặt, vừa không có mặt. 
Đồng Văn Quân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 186(10): 177 - 181 
 181
KẾT LUẬN 
Vận động là một phương thức tồn tại của vật 
chất, do đó vận động bao giờ cũng là vận động 
của vật chất, gắn liền với vật chất và vật chất 
vận động không ngừng. Vận động của vật chất 
có nguồn gốc từ mâu thuẫn, hơn thế nữa, bản 
thân vận động đã là một mâu thuẫn rồi. 
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, đại biểu tiêu 
biểu là Dê – nông, đã phát hiện ra bản chất 
mâu thuẫn của vận động khi cố gắng nắm bắt 
nó bằng khái niệm. Tuy nhiên, do bị hạn chế 
bởi tư duy siêu hình, cho rằng những gì chứa 
đựng mâu thuẫn thì không tồn tại trong thực 
tế, nên họ đi đến phủ nhận vận động. 
Tư tưởng của Ph. Ăngghen coi vận động là 
một mâu thuẫn thể hiện rõ quan điểm của triết 
học Mác – Lênin về bản chất mâu thuẫn của 
vận động. Tư tưởng này đã được chứng minh 
bằng kiến thức khoa học hiện đại, liên quan 
đến các vấn đề về không gian, thời gian vật 
chất. Ta chỉ có thể hiểu đúng bản chất tư tưởng 
của Ph. Ăngghen khi gắn nó với khoa học hiện 
đại, nếu không, mọi luận bàn về vấn đề này 
đều là sáo rỗng. Điều này khằng định mối liên 
hệ mật thiết giữa triết học và khoa học. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình triết 
học Mác – Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Sách giáo khoa 
Toán 7 tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
3. C. Mác, Ph. Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 20, 
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
4. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, Tập 18, Nxb Tiến 
bộ, Matxcơva. 
5. Nguyễn Hữu Vui (2002), Giáo trình Lịch sử 
triết học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 
SUMMARY 
THE CONTRADICTION IN MOTION 
Dong Van Quan* 
TNU - University of Education 
Analyzing Zeno’s dialectical paradoxes on contradiction of motion (mechanically), this paper 
points out the values along with drawbacks of this ideology. Therefore, dialectical ideology of 
motion is confirmed to be one of the most essential values of ancient Greek philosophy. Having 
analyses of modern mathematics and physics on motion, space and time, the paper contributes to 
enlighten F. Engels’ argument on contradiction of motion and affirm close relationship between 
philosophy and science. 
Keywords: contradiction, motion, space, time, materials. 
Ngày nhận bài: 13/8/2018; Ngày phản biện: 04/9/2018; Ngày duyệt đăng: 28/9/2018 
* Tel: 0912.021.314; Email: dongvanquan@dhsptn.edu.vn 

File đính kèm:

  • pdfve_ban_chat_mau_thuan_cua_van_dong.pdf