Tư tưởng của Minh Mệnh về đào tạo, sử dụng

Tóm tắt: Minh Mệnh (1791-1841) là một trong những vị vua tiêu biểu nhất

của triều Nguyễn. Ông bước lên ngôi báu khi đã trưởng thành hoàn toàn về mặt

thể chất cũng như về trí lực. Cuộc đời trị vì đất nước giai đoạn triều Nguyễn và

sự nghiệp của Minh Mệnh đã được nhiều học giả nghiên cứu trên những

phương diện khác nhau. Tuy nhiên, trên bình diện lịch sử triết học và tư tưởng

giáo dục thì rất cần thiết phải làm sáng tỏ những đóng góp của Minh Mệnh về

đạo làm người, về giáo dục con người và đặc biệt về chính sách đào tạo và sử

dụng nhân tài trong sự nghiệp phát triển đất nước.

Từ khóa: Minh Mệnh, nhân tài, triều Nguyễn.

pdf 9 trang phuongnguyen 3480
Bạn đang xem tài liệu "Tư tưởng của Minh Mệnh về đào tạo, sử dụng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư tưởng của Minh Mệnh về đào tạo, sử dụng

Tư tưởng của Minh Mệnh về đào tạo, sử dụng
Tư tưởng của Minh Mệnh về đào tạo, sử dụng nhân tài 
 57 
TƯ TƯỞNG CỦA MINH MỆNH 
VỀ ĐÀO TẠO, SỬ DỤNG NHÂN TÀI 
NGUYỄN THỊ HIẾU * 
Tóm tắt: Minh Mệnh (1791-1841) là một trong những vị vua tiêu biểu nhất 
của triều Nguyễn. Ông bước lên ngôi báu khi đã trưởng thành hoàn toàn về mặt 
thể chất cũng như về trí lực. Cuộc đời trị vì đất nước giai đoạn triều Nguyễn và 
sự nghiệp của Minh Mệnh đã được nhiều học giả nghiên cứu trên những 
phương diện khác nhau. Tuy nhiên, trên bình diện lịch sử triết học và tư tưởng 
giáo dục thì rất cần thiết phải làm sáng tỏ những đóng góp của Minh Mệnh về 
đạo làm người, về giáo dục con người và đặc biệt về chính sách đào tạo và sử 
dụng nhân tài trong sự nghiệp phát triển đất nước. 
Từ khóa: Minh Mệnh, nhân tài, triều Nguyễn. 
Ngay từ xa xưa, ông cha ta đã đặc 
biệt coi trọng nhân tài: "Hiền tài là 
nguyên khí của quốc gia", "nhân tài là 
rường cột của quốc gia". Trọng dụng 
nhân tài trong xây dựng và bảo vệ đất 
nước đã trở thành truyền thống trong tư 
tưởng chính trị - xã hội Việt Nam. 
Việc tìm kiếm, sử dụng và đào tạo 
nhân tài luôn là vấn đề nổi bật trong xây 
dựng bộ máy nhân sự nhà nước. Thời 
nào cũng cần nhân tài và cũng thấy thiếu 
nhân tài. Tuy nhiên, quan niệm về nhân 
tài không phải là nhất thành bất biến. 
Bởi vì, mỗi chính thể, mỗi giai đoạn lịch 
sử lại cần những mẫu hình nhân tài khác 
nhau. Quan niệm về nhân tài góp phần 
vào việc xác lập các tiêu chí con người 
lý tưởng, đồng thời góp phần tạo dựng 
nên đội ngũ nhân tài của mỗi thời đại. 
Việc tìm hiểu quan niệm về nhân tài và 
chính sách đào tạo, đãi ngộ nhân tài 
trong tư duy lý luận của dân tộc không 
chỉ để lý giải nhiều sự kiện lịch sử, văn 
hóa, tìm hiểu những đóng góp và vai trò 
của người hiền tài vào lịch sử phát triển 
dân tộc, mà quan trọng hơn là để rút ra 
những bài học kinh nghiệm quý báu về 
nghệ thuật dùng người của tiền nhân.(*) 
Minh Mệnh (1791 – 1841) là một 
trong những vị vua phong kiến Việt 
Nam điển hình về việc kế thừa và vận 
dụng thành công tư tưởng chính trị trọng 
dụng người tài của Nho giáo vào đạo trị 
nước. Ông có quan niệm sâu sắc về vai 
trò của người hiền tài và phương pháp 
tuyển chọn người hiền tài để xây dựng 
đất nước. Trong bài viết này, chúng tôi 
sẽ phân tích một số quan niệm chính của 
Minh Mệnh về nhân tài, về việc đào tạo, 
tuyển chọn, sử dụng nhân tài và ý nghĩa 
(*) Thạc sĩ, Trường Đại học Công đoàn. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68) - 2013 
 58 
của chúng đối với việc đào tạo sử dụng 
người tài ở nước ta hiện nay. 
1. Quan niệm về vai trò của người 
hiền tài 
Kế thừa tư tưởng trọng hiền của Nho 
giáo, Minh Mệnh cho rằng quốc gia quý 
nhất là người hiền tài. Năm Minh Mệnh 
thứ 18, nhân ra xem thợ xây dựng điện 
Phụng Tiên, nhà vua đã chỉ vào cái 
rường điện mà bảo thị thần rằng: “Rường 
điện tất phải có cái trụ gỗ đội lên, cũng 
như trong nước có người hiền tài giúp 
sức mới giữ được yên lành. Người xưa 
nói: người hiền tài là rường cột của quốc 
gia là thế đó”(1). Ông coi người hiền tài 
là quý báu nhất không gì sánh bằng: 
“Quốc gia chỉ quý người hiền tài, dù có 
hạt châu minh nguyệt, hòn ngọc chiêu 
thặng cũng không đáng quý”(2). 
Theo Minh Mệnh, hiền tài quý hơn 
ngọc ngà, châu báu, hơn cả “ngọc bích 
soi sáng trước sau mười hai cỗ xe”. Ông 
viết: “Trong nước có người hiền tài thì 
công trị bình được rực rỡ, cũng như núi 
sông có ngọc châu thì mới có ánh sáng... 
Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, hạ chiếu 
cầu hiền đến hai ba lần, tất là kẻ sĩ có tài 
đức không còn đi ẩn nữa, nếu được 
người hiền tài mà dùng thì đường lối trị 
bình trong nước mới có được”(3). 
Từ quan niệm về vai trò quan trọng 
của người hiền tài như “rường cột của 
quốc gia”, “đồ dùng của quốc gia”, 
Minh Mệnh đi đến quan niệm trị nước: 
“đường lối làm cho thịnh trị, tất phải 
thành tựu nhân tài trước, mà phương 
pháp thành tựu phải bồi dưỡng từ trước 
mới được”(4). Kế thừa tư tưởng Nho giáo 
cho rằng sự thịnh suy, trị loạn, an nguy 
của một nước trước hết là do có hay 
không có nhân tài, Minh Mệnh đặc biệt 
quan tâm tới việc phát hiện, tuyển chọn, 
sử dụng người tài vào bộ máy chính trị. 
2. Phương pháp tuyển chọn người tài 
Nho giáo sử dụng hai hình thức là tiến 
cử và khoa cử để tuyển chọn nhân tài vào 
bộ máy cai trị, nhưng càng về sau, hình 
thức khoa cử càng chiếm ưu thế và trở 
thành hình thức chủ yếu, điển hình trong 
thể chế chính trị Nho giáo. Trong hơn 20 
năm trị vì đất nước (1820-1841), Minh 
Mệnh cũng đã triệt để sử dụng hai hình 
thức tuyển chọn nhân tài này. 
2.1. Tiến cử 
Tiến cử là một trong những biện pháp 
mà các triều đại phong kiến Việt Nam 
thường sử dụng để tuyển dụng nhân tài. 
Biện pháp này gồm nhiệm tử, bảo cử 
(tiến cử). Lệ nhiệm tử chỉ áp dụng với 
con quan lại cao cấp và cũng chỉ một 
người con được ấm thụ. Lệ bảo cử, về 
nguyên tắc, được áp dụng rộng rãi 
nhưng quy trình chặt chẽ, quy định rõ 
quan lại ở chức vụ nào thì được đề cử 
người vào chức vụ tương ứng thường 
được sử dụng khi vương triều mới được 
thiết lập hay lúc triều đại lâm nguy, cần 
gấp một nguồn nhân lực đáp ứng tức 
thời cho yêu cầu của bộ máy nhà nước 
phong kiến. Phương pháp tiến cử được 
(1), (2), (3) Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), 
Minh Mệnh chính yếu, tập I, Nxb Thuận Hóa, 
Huế, tr. 183, 174, 161. 
(4) Sđd, tập 3, tr. 85. 
Tư tưởng của Minh Mệnh về đào tạo, sử dụng nhân tài 
 59 
thực hiện theo hai bước. Bước 1: một vị 
quan nào đó đứng ra giới thiệu, bảo lãnh 
với nhà vua người có thực tài ở những 
lĩnh vực nhất định. Bước 2: nhà vua 
xem xét, cân nhắc để bổ dụng. Chính 
sách này một mặt đáp ứng nhu cầu về 
nhân sự tức thời giúp cho triều đình giải 
quyết một công việc nào đó, mặt khác, 
giúp khắc phục tình trạng bỏ sót nhân tài 
do không đáp ứng một quy định, luật lệ 
nào đó trong khoa cử. Có thể nói, tiến 
cử là một hình thức quan trọng của các 
quân vương nhằm thu hút nhân tài, tạo 
điều kiện cho nhân tài có điều kiện 
mang tài năng ra "phò vua, giúp nước". 
Là nhà chính trị quyết đoán và linh 
hoạt, Minh Mệnh đã sử dụng hình thức 
tiến cử như một chính sách quan trọng 
nhằm tìm kiếm nhân tài phục vụ cho 
việc củng cố vương triều. Ngay khi mới 
lên ngôi, năm 1820, ông đã xuống Chiếu 
cầu hiền, trong đó có đoạn: “Kẻ hiền tài 
là đồ dùng của quốc gia... cho nên ngoài 
việc khoa cử ra còn cần có người đề cử, 
trẫm từ khi mới lên ngôi, gắng sức mưu 
đồ cho nước thịnh trị, rất muốn trong 
triều có nhiều kẻ sĩ đức hạnh tốt mà 
không bỏ sót người hiền tài nào ở nơi 
thôn dã, để tô điểm sự nghiệp nhà vua 
dùng tiếng âm nhạc mà hóa dân trị quốc. 
Nay hạ lệnh ở kinh đô, thì quan văn từ 
Tham tri, võ từ Phó đô thống chế trở 
lên, ở ngoài thì các quan địa phương đều 
phải đề cử những người mình biết, 
không kể nhà nghèo, nhà thế gia, cần 
được người có thực tài để lượng xét sao 
lục ra dùng”(5). Trong 21 năm ở ngôi, 
ông đã bốn lần hạ chiếu cầu hiền vào 
các năm Minh Mệnh thứ nhất, thứ ba, 
thứ tám và thứ mười một. Ngoài ra, hầu 
như năm nào ông cũng có chỉ dụ cho 
quan lại thực hiện việc tiến cử. Dụ rằng: 
"Trẫm từ khi lên ngôi đến nay chỉ lo có 
được nhân tài, đã từng tìm kiếm rộng 
khắp để tùy tài, ghi tên bổ dụng. Nhưng 
còn nghĩ học trò tài giỏi bị chìm giấu ở 
hàng quan dưới còn nhiều, nếu không 
cho tiến dẫn ngoài lệ thì sao đạt đến trên 
được. Từ nay các nhân viên chuyên 
quản, văn mà có người kinh sách thông 
thạo, viết và toán tinh thông, võ mà có 
người thao lược uẩn súc, tài nghệ thành 
thạo, nếu biết đích xác thì dẫu chưa dự 
vào lệ đình thần đề cử cũng được xét cử 
cho 2 bộ Lại Binh tâu lên"(6). 
Qua chiếu và dụ cầu hiền, chúng ta 
thấy quan niệm về người hiền tài của 
Minh Mệnh chú trọng "thực tài", không 
giới hạn chỉ trong giới nho sĩ tinh thông 
Nho học mà bao gồm cả những người 
tài giỏi trong những lĩnh vực khác như 
toán pháp, võ nghệ... Cách nhìn nhận về 
người tài của Minh Mệnh cũng hết sức 
cởi mở. Người tài không nhất thiết phải 
là người giỏi toàn diện mọi lĩnh vực. 
Trước hết phải tận dụng chỗ mạnh của 
mỗi người. Ông nói: “Ôi dùng người 
cũng như dùng đồ vật, không cần phải 
(5) Quốc sử quán triều Nguyễn (1972), Minh 
Mệnh chính yếu, tập I, tủ sách cổ văn xuất bản, 
Sài Gòn, tr. 167. 
(6) Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam 
thực lục chính biên, tập 2, Bản dịch của Viện sử 
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 119. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68) - 2013 
 60 
đủ các tài. Nếu nay có người học rộng 
văn hay, am thuộc kinh điển cũ, cho đến 
người có một tài, một nghề có thể đem 
thực dụng được, cho phép thân đến các 
nha ở chỗ hành tại này (chỗ vua dừng 
chân), hoặc đến các thành, các trấn 
chuẩn cho các quan đem tâu lên, trẫm 
sai người sát hạch quả có thực tài, sẽ sao 
lục để dùng”(7); “đạo làm vua ở chỗ biết 
người, nhưng nhân tài có cao thấp, lớn 
nhỏ khác nhau, nếu không xem xét dần 
dần cho kỹ, thì ít khi khỏi dùng lầm. Về 
việc dùng người, trẫm vẫn luôn luôn để 
ý, mỗi khi cất nhắc một người tất phải 
xem xét lời nói, việc làm”(8); “phàm việc 
cử người phải nên biết đích xác người 
ấy, quan võ có tài nghệ, thì quan văn 
bên tả ban chưa dễ đã biết, quan văn hay 
hay dở, thì quan võ bên hữu ban cũng 
chẳng hiểu biết được, chỉ cứ nghe theo 
nhau mà cử, chả cũng chỉ có cái danh 
mà không có thực tài ư!”(9). Minh Mệnh 
quan tâm đến việc nhận biết và phát huy 
sở trường của người tài trong hoạt động 
thực tiễn. Phương pháp sử dụng người 
tài theo nguyên tắc “Xem xét dần dần 
cho kĩ, thì ít khi dùng nhầm” của vị vua 
thứ hai triều Nguyễn là một phương pháp 
đúng đắn và hữu hiệu. Chính vì vậy, 
dưới triều Minh Mệnh có rất nhiều “nhân 
tài” được bổ sung cho đội ngũ quan lại 
triều Nguyễn như: Nguyễn Công Trứ, 
Phan Huy Chú, Trương Đăng Quế... 
Theo Minh Mệnh, vị trí và vai trò của 
người tài là vô cùng quan trọng. Sách 
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ của 
nội các triều Nguyễn có ghi lại 11 lần vua 
Minh Mệnh ban Dụ để cầu người hiền tài, 
yêu cầu tiến cử người hiền tài tham gia 
vào bộ máy hành chính nhà nước. 
Để cụ thể hoá việc cầu hiền, Minh 
Mệnh đã ban bố và thực thi nhiều chính 
sách, biện pháp thiết thực. Năm 1821, 
Minh Mệnh cải tổ lại quan phụ trách 
Quốc tử giám, bỏ chức Chánh phó đốc 
học (có từ thời Gia Long, chỉ có một 
người) và đặt 1 viên Tế tửu, 2 viên Tư 
nghiệp. Năm 1822, ông đặt thêm 1 viên 
Học chánh, chuyên việc giảng dạy số 
học sinh tôn thất được lựa chọn vào học 
tại Quốc Tử Giám. 
Minh Mệnh đưa ra phương pháp 
tuyển chọn người hiền tài: “Vì nước tiến 
người, chỉ cần hiểu biết cho đích xác, 
không câu nệ người thân, không tránh 
kẻ thù, người không yêu cũng lấy, kẻ 
không ghét cũng bỏ, theo người đời xưa 
mà làm thì lo gì không tiến cử được 
người hiền”(10); “Từ nay các con em 
đường quan trong sáu bộ có chức hàm, 
không được suy cử cho nhau”(11); “Ngày 
nay dùng người không ngoài hai lối mở 
khoa thi và tiến cử"(12). 
Trong việc tiến cử, cũng như trong 
(7) Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Minh 
Mệnh chính yếu, tập 1, Nxb Thuận Hóa, Huế, 
tr. 150. 
(8) Quốc sử quán triều Nguyễn (1972), Minh 
Mệnh chính yếu, tập 1, tủ sách cổ văn xuất bản, 
Sài Gòn, tr. 173. 
(9) Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Minh 
Mệnh chính yếu, tập 1, Nxb Thuận Hóa, Huế, 
tr. 197. 
(10), (11), (12) Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), 
Minh Mệnh chính yếu, tập 1, Nxb Thuận Hóa, 
Huế, tr. 155, tr. 177, tr. 171. 
Tư tưởng của Minh Mệnh về đào tạo, sử dụng nhân tài 
 61 
việc dùng người, Minh Mệnh chủ 
trương phải công khai, công bằng, chí 
công vô tư: "triều đình chọn người làm 
quan, hoặc lấy người có tư cách, hoặc 
lấy người có công lao, đều đem ra chỗ 
công bàn định cả chớ có phải riêng tư 
đâu mà dẫn dắt nhau được đâu"(13); "cất 
nhắc người có tài cần ở chỗ rất công 
bằng. Nếu bảo là người không quen biết 
mà không tiến cử thì người điềm đạm 
không cầu cạnh phải chìm đắm, mà kẻ 
xu nịnh lại được hãnh diện; như thế có 
phải là đạo công bằng trong việc dùng 
người chăng?"(14). 
Quy định về thưởng, phạt trong việc 
tiến cử của Minh Mệnh rất rõ ràng và 
công khai nhằm đảm bảo việc tiến cử 
không bị lợi dụng. Minh Mệnh đã lường 
trước những sai phạm có thể xảy ra 
trong việc tiến cử nên quy định chặt chẽ 
người tiến cử phải chịu trách nhiệm đến 
cùng trong việc tiến cử. Nếu người được 
tiến cử sau này phạm tội thì người tiến 
cử cũng phải chịu tội. Người nào tiến cử 
sai hoặc lợi dụng tiến cử để kéo bè kết 
cánh sẽ bị biếm phạt nặng. Ví dụ: năm 
Minh Mệnh thứ chín, Thượng thư Bộ 
Hộ là Lương Tiến Tường và Thượng 
Thư Bộ Lễ là Phan Huy Thực vì tiến cử 
người không tốt đều bị giáng chức. 
Nhân dịp này, nhà vua dụ rằng: “Đem 
người vào thờ vua là chức vụ của người 
làm bầy tôi... Vì nước tiến người hiền, 
chỉ cần biết cho đích xác, không nể 
người thân, không tránh kẻ thù, người 
không yêu cũng lấy, kẻ không ghét cũng 
bỏ"(15). Đương nhiên, nếu tiến cử đúng 
và người hiền tài được vua tin dùng thì 
người tiến cử sẽ được trọng thưởng. 
Minh Mệnh luôn nhắc nhở tinh thần 
chí công trong việc tiến cử, cất nhắc và 
dùng người hiền tài. Trong việc dùng 
người, Minh Mệnh một mặt, rất chú 
trọng đến đạo đức; mặt khác, bao giờ 
cũng chú ý đầy đủ đến tài năng, không 
dùng những viên quan vô học hoặc chỉ 
có nết thật thà, chất phác, nhưng tri thức 
lại nghèo nàn. Như trường hợp Lê Văn 
Liêm là một ví dụ. Lê Văn Liêm được 
một quan to tiến cử làm tri phủ Ninh 
Giang. Khi ông ta được dẫn vào bệ kiến, 
Vua xét hỏi, Liêm tâu là ít học, Vua 
nói: “chức tri phủ chính lệnh trong một 
phủ, không học thì không rõ luật lệ, lỡ 
khi xử đoán sai lầm thì pháp luật khó 
dung, như thế là làm hại chớ không phải 
là yêu”(16). Minh Mệnh đã không chấp 
nhận sự tiến cử trường hợp Lê Văn Liêm. 
Ông ý thức được rằng, muốn cho đất 
nước được trị bình thì trước hết phải có 
nhân tài. Chính vì muốn có nhiều người 
tài để dùng, nên Minh Mệnh chưa từng 
sao nhãng việc đào tạo nhân tài. Minh 
Mệnh thường nói: “Trẫm từ khi ra chấp 
chính đến nay, chưa từng không lấy việc 
đào tạo nhân tài làm việc trước tiên, 
phàm việc bổ dụng đều là người anh 
(13), (14) Quốc sử quán triều Nguyễn (1972), Minh 
Mệnh chính yếu, tập 1, tủ sách cổ văn xuất bản, 
Sài Gòn, tr. 185, tr. 196. 
(15) Sđd, tr. 175. 
(16) Quốc sử quán triều Nguyễn (1964), Đại 
Nam Thực lục chính biên, tập VI, Nxb Khoa 
học xã hội, Hà Nội, tr. 39. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68) - 2013 
 62 
minh tài tuấn cả”(17). Tư tưởng trọng 
người hiền tài được quán xuyến suốt 
cuộc đời trị vì của Minh Mệnh. 
Nhận biết và phát huy được sở trường 
của người tài trong hoạt động thực tiễn 
xây dựng vương triều là thực chất quan 
niệm về tuyển chọn và sử dụng người 
hiền tài của Minh Mệnh. Do đó, bên 
cạnh chủ trương mềm dẻo, linh hoạt và 
thực dụng trong lựa chọn nhân tài thông 
qua tiến cử, ông đồng thời chú ý hướng 
lựa chọn nhân tài chủ yếu và quan trọng 
nhất là thi tuyển với mục đích quán 
xuyến là tìm người giỏi tham gia vào bộ 
máy quản lý nhà nước. 
2.2. Thi tuyển 
Thi tuyển là hình thức quan trọng 
nhất trong việc phát hiện và tuyển chọn 
nhân tài để bổ sung nguồn lực cho bộ 
máy nhà nước. Nhìn chung, có ba loại 
hình thi tuyển nhân tài là khoa cử Nho 
học; võ cử; các hội thi tay nghề, thi đấu 
thể thao. Dưới thời Minh Mệnh, ông sử 
dụng triệt để các hình thức này nhưng 
quan trọng nhất là khoa cử. 
Ý thức được vai trò của người hiền 
tài và bổ sung cho bộ máy nhà nước, 
Minh Mệnh ban chiếu tiếp tục khẳng 
định tầm quan trọng của khoa cử: 
"Tuyển cử hiền tài là thịnh điển đời 
minh vương; cho nên nhà nước dùng 
người, phần nhiều chọn ở trong khoa 
mục. Hoàng Khảo Thế tổ cao hoàng đế 
ta, sau khi đại định mở khoa thi hương, 
có đủ quy thức. Trẫm nối ngôi đến nay, 
luôn nghĩ đến việc cất nhắc nhân tài. 
Trước đã mở ân khoa thi hương, thi hội 
để mở rộng việc thu dùng. Nay vẫn 
chuẩn cho mùa thu Ất Dậu năm Minh 
Mệnh thứ 6 mở khoa thi Hương"(18). 
Năm 1820, Nhà vua xuống chiếu: “Thánh 
nhân để phúc không gì lớn bằng gây 
dựng con nguời, vương giả gia ân tất 
trọng về việc tuyển lấy kẻ sĩ... nhà nước 
ta chính trị, giáo hóa sáng tỏ, phong trào 
Nho học chấn hưng... vậy đặc chuẩn cho 
mở ân khoa lấy mùa thu năm Tân Tị 
(1821) thi Hương, mùa xuân năm Nhâm 
Ngọ (1822) thi Hội”(19). Đến triều Minh 
Mệnh, khoa thi tiến sĩ đầu tiên đã được 
tổ chức vào năm Nhâm Ngọ (1822). 
Nhìn chung, thể thức khoa cử triều 
Nguyễn phỏng theo thể thức thời nhà 
Minh, cũng phân thành khoa Tiến sĩ và 
Chế khoa. Khoa Tiến sĩ tổ chức đều đặn, 
thỉnh thoảng có thêm vài Ân khoa vào 
dịp nhà nước có việc mừng. 
Việc mở mang khoa cử của Minh 
Mệnh để tuyển chọn nhân tài không chỉ 
đáp ứng nhu cầu của bộ máy quản lý 
hành chính mà thực sự phản ánh chủ 
trương rộng mở trong việc dùng người. 
Có thể thấy, chủ trương dùng người của 
Minh Mệnh "khá giống với triều Lê 
nhưng hoàn toàn khác với chính sách 
dùng người thân với phương châm "tông 
tử duy thành" (dùng con em làm thành 
(17) Quốc sử quán triều Nguyễn (1974), Minh 
Mệnh chính yếu, tập 4, tủ sách cổ văn xuất bản, 
Sài Gòn, tr. 170. 
(18) Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại 
Nam Hội điển sự lệ, tập 7, Nxb Thuận Hóa, Huế, 
tr. 203. 
(19) Sđd, tập 1, tr. 99. 
Tư tưởng của Minh Mệnh về đào tạo, sử dụng nhân tài 
 63 
trì) của nhà nước quân chủ quý tộc thời 
Lý Trần"(20). 
Thể thức khoa cử dưới thời Minh 
Mệnh đã đạt tới mức hoàn chỉnh nhằm 
đảm bảo tuyển được người vừa có thực 
tài, vừa đáp ứng yêu cầu đạo đức Nho 
giáo và đảm bảo công bằng. Minh Mệnh 
xuống dụ rằng: “Việc cầu tài tất phải do 
người khoa mục tạo thành, chứ không 
lấy ân mà riêng tư được. Trẫm ra chấp 
chính muốn ngồi đợi người hiền tài ra 
giúp dân, ân khoa năm nay là việc quan 
trọng nhất phàm bày tôi các ngươi được 
dự tuyển vào việc này, cần phải rất công 
minh, chớ có thiên tư để di họa vào 
mình, đều phải nên cố gắng cho toại ý 
của trẫm kén chọn người tài”(21). Những 
chính sách của Minh Mệnh xây dựng 
chế độ khoa cử đi vào nề nếp và trở 
thành một trong những con đường cung 
cấp nhân tài - quan lại chủ yếu cho bộ 
máy chính quyền thời Minh Mệnh. Để 
giữ các chức quan từ cấp huyện trở lên, 
nho sĩ phải trải qua một thời gian đi học 
trau dồi học vấn, phải thi đỗ các kỳ thi 
chính thức của triều đình, bắt buộc phải 
có trình độ cử nhân trở lên. Tầng lớp lại 
viên, thuộc viên đều phải có học nhưng 
không nhất thiết phải thi đỗ(22). 
Minh Mệnh rất chú ý đến việc xây 
dựng trường học, chuẩn bị sách vở, qui 
định nội dung học, đề ra phép thi cử. 
Minh Mệnh xác định: “Trường học là nơi 
các hiền sĩ ganh đua, nước nhà dùng 
người phần nhiều lấy nhân tài ở nơi ấy... 
Trẫm noi theo chí Tiên đế, muốn ra lệnh 
dựng thêm nhà học, tăng thêm học viện, 
cấp nhiều học bổng, mở rộng chương 
trình khiến học trò đều được thành tài”(23). 
Chương trình, quy cách giảng dạy và 
học tập ở các trường Quốc tử giám và 
các trường địa phương được Minh Mệnh 
quy định khá cụ thể, chi tiết. Từ năm 
1825, Minh Mệnh quy định: “Học đường 
sở tại của các quan Tế tửu, Tư nghiệp, 
Đốc học, Giáo thụ, Huấn đạo đặt giảng 
nên chia ngày lẻ, ngày chẵn. Đầu tiên 
giảng Ngũ kinh, Tứ thư cho rõ nghĩa lý, 
sau giảng Bắc sử, Nam sử cho hiểu sự 
tích. Sau đó, dạy bảo những điều vinh 
nhục, liêm sỉ, giải rõ nghĩa hiếu, đễ, 
trung, tín. Học quan mặc áo, khăn ngồi 
trên nhà học, học trò mặc áo, khăn ngồi 
im lặng nghe giảng. Còn người nào có 
thói xấu lười học tập, hạnh kiểm kém, 
cho phép đánh roi, để cho biết nhục”(24). 
Việc tuyển chọn quan lại thông qua khoa 
cử càng về sau càng hoàn thiện và chiếm 
ưu thế so với tiến cử. Phần lớn trong số 
những người đỗ đạt đều được bổ dụng 
vào các chức vụ của bộ máy nhà nước 
và trở thành bộ phận nòng cốt của nền 
hành chính quốc gia. 
(20) Vũ Thị Phương Hậu (2011), Chính sách văn 
hóa của triều Nguyễn, Luận án tiến sĩ Văn hóa 
học, Hà Nội, tr. 92. 
(21) Quốc sử quán triều Nguyễn (1972), Minh 
Mệnh chính yếu, tập 1, tủ sách cổ văn xuất bản, 
Sài Gòn, tr. 69. 
(22) Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam 
thực lực chính biên, tập 1, Bản dịch của Viện sử 
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 876. 
(23) Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Minh Mệnh 
chính yếu, tập 2, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr. 209. 
(24) Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định 
Đại Nam hội điển sự lệ, tập 12, Nxb Thuận 
Hóa, Huế, tr. 187 (Bắc sử là sử Trung Quốc, 
Nam sử là sử Việt Nam). 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7 (68) - 2013 
 64 
Thời Minh Mệnh đã đào tạo được số 
lượng lớn người đỗ Cử nhân, Tiến sĩ. Cụ 
thể, số cử nhân thời Minh Mệnh đào tạo 
được bằng 13,57% số cử nhân của cả 
thời Nguyễn đào tạo. Số Tiến sĩ thời 
Minh Mệnh đào tạo được bằng 13,62% 
số tiến sĩ của cả thời Nguyễn đào tạo và 
bằng 2,6% số Tiến sĩ của cả thời phong 
kiến đào tạo. 
Với những thành tựu đã đạt được như 
vậy, lịch sử giáo dục, khoa cử dưới thời 
phong kiến ghi nhận Minh Mệnh là một 
trong không nhiều ông vua rất chú trọng 
việc đào tạo, tuyển chọn và hiểu rõ vị trí 
của nhân tài đối với quốc gia. 
Biết giá trị, vị trí của người hiền tài là 
một chuyện, song biết sử dụng họ đúng 
với tài năng lại là một chuyện hoàn toàn 
khác. Điều đáng phải kể đến ở Minh 
Mệnh là, ông đã thực sự làm được 
những gì ông suy nghĩ và nói ra. Tư 
tưởng và hành động của Minh Mệnh là 
thống nhất. Dưới thời Minh Mệnh, 
người hiền tài được sử dụng đúng lúc, 
đúng chỗ. Mặc dù triều Nguyễn dựng 
nghiệp từ phương Nam, nhưng trong 
việc sử dụng hiền tài, ông chưa từng có 
sự phân biệt trọng Nam, khinh Bắc. 
Có thể nói khoa cử dưới thời Nguyễn 
nói chung, triều Minh Mệnh nói riêng, 
được coi là con đường chính thống đào 
tạo và tuyển dụng đội ngũ quan lại cung 
cấp cho bộ máy nhà nước quân chủ Việt 
Nam. Đồng thời, đây cũng là môi trường 
chủ yếu đào tạo nên các thế hệ trí thức 
Việt Nam mà tiêu biểu là các nhà văn 
hóa, nhà khoa học kiệt xuất như Nguyễn 
Du, Phan Huy Ích, Phan Huy Chú, 
Nguyễn Công Trứ... Đó là sự khẳng 
định truyền thống "thượng hiền", tôn 
vinh những người có học. Tuy nhiên, 
con đường đào tạo và tuyển chọn nhân 
tài thông qua giáo dục và khoa cử Nho 
học dưới triều Nguyễn nói chung và 
Minh Mệnh nói riêng cũng thể hiện 
những hạn chế, bất cập. Đó là lối học 
hình thức, khoa trương sách vở, trọng 
bằng cấp, lối tư duy nặng giáo điều, 
không gắn liền với thực tiễn đất nước 
thế kỷ XIX. Đó là thế giới quan và nhân 
sinh quan bảo thủ. Những hạn chế này là 
một nguyên nhân không nhỏ khiến cho 
tư tưởng triều Nguyễn ở thế kỷ XIX trở 
nên vô cùng lạc hậu so với thế giới. 
Lịch sử hào hùng của dân tộc Việt 
Nam đã chứng minh: đào tạo và sử dụng 
nhân tài trong việc cai quản đất nước và 
chăm lo dân chúng là một nguyên tắc 
chính trị, một chính sách quan trọng của 
nhà nước. Các vị vua đầu triều Nguyễn 
mà tiêu biểu là Minh Mệnh đã nắm bắt 
được tinh thần tôn trọng hiền tài trong 
việc trị nước. Cả hai phương pháp dùng 
người thông qua tiến cử và thi tuyển đều 
hướng tới mục đích chung là tìm ra 
người tài giỏi bổ sung vào bộ máy quản 
lý nhà nước. 
Những kinh nghiệm thành công và 
thất bại về phát hiện, tuyển chọn, đào 
tạo, sử dụng và đãi ngộ hiền tài của ông 
cha ta nói chung và của Minh Mệnh nói 
riêng, chính là bài học có giá trị tham 
khảo bổ ích và thiết thực trong việc phát 
hiện, đào tạo, bồi dưỡng và lựa chọn cán 
bộ đáp ứng với yêu cầu nhân sự trong 
bộ máy quản lý nhà nước hiện nay. 
Tư tưởng của Minh Mệnh về đào tạo, sử dụng nhân tài 
 65 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_cua_minh_menh_ve_dao_tao_su_dung.pdf