Quá trình Ăngghen phê phán triết học duy tâm của Hêghen trong tác phẩm “Lútvích phoiơbắc và sự cáo chung triết học cổ điển Đức”

“Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung triết học cổ điển Đức” do Ph. Ăngghen viết là một

trong những tác phẩm quan trọng nhất trong di sản lý luận triết học của chủ nghĩa Mác. Tác

phẩm đ−ợc Lê-nin đánh giá rất cao, và cho đó là một trong những cuốn sách gối đầu gi−ờng của

giai cấp công nhân.

Tác phẩm này đ−ợc Ăngghen viết vào năm 1885, sau khi Mác qua đời đ−ợc hai năm theo

nguyện vọng của tạp chí “Neue Zeit” (Thời Mới)- một cơ quan lý luận của Đảng Cách mạng dân

chủ Đức hồi ấy. Tác phẩm đ−ợc đăng trên hai số liên tục tháng 4 và 5 năm 1886 của tạp chí

“Neue Zeit”. Qua tác phẩm này Ăngghen muốn chứng minh cho mọi ng−ời thấy rõ thái độ của

ông và Mác với hai nhà triết học cổ điển Đức là Hêghen và Phoiơbắc cũng nh− việc các ông kế

thừa những t− t−ởng hợp lý của Hêghen và Phoiơbắc nh− thế nào trong việc đề xuất các nguyên

lý triết học duy vật lịch sử. Ăngghen coi đây là “món nợ danh dự” mà các ông phải trả do tr−ớc

đây các ông ch−a trả đ−ợc.

 

pdf 5 trang phuongnguyen 1200
Bạn đang xem tài liệu "Quá trình Ăngghen phê phán triết học duy tâm của Hêghen trong tác phẩm “Lútvích phoiơbắc và sự cáo chung triết học cổ điển Đức”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quá trình Ăngghen phê phán triết học duy tâm của Hêghen trong tác phẩm “Lútvích phoiơbắc và sự cáo chung triết học cổ điển Đức”

Quá trình Ăngghen phê phán triết học duy tâm của Hêghen trong tác phẩm “Lútvích phoiơbắc và sự cáo chung triết học cổ điển Đức”
Tạp chí Khoa học & Công nghệ - Số 2(42)/Năm 2007 
 110
Quá trình ăngghen phê phán triết học duy tâm của hêghen 
trong tác phẩm “Lútvích phoiơbắc và sự cáo chung triết học cổ điển đức” 
Nguyễn Thị Kh−ơng (Tr−ờng ĐH S− phạm - ĐH Thái Nguyên) 
“Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung triết học cổ điển Đức” do Ph. Ăngghen viết là một 
trong những tác phẩm quan trọng nhất trong di sản lý luận triết học của chủ nghĩa Mác. Tác 
phẩm đ−ợc Lê-nin đánh giá rất cao, và cho đó là một trong những cuốn sách gối đầu gi−ờng của 
giai cấp công nhân. 
Tác phẩm này đ−ợc Ăngghen viết vào năm 1885, sau khi Mác qua đời đ−ợc hai năm theo 
nguyện vọng của tạp chí “Neue Zeit” (Thời Mới)- một cơ quan lý luận của Đảng Cách mạng dân 
chủ Đức hồi ấy. Tác phẩm đ−ợc đăng trên hai số liên tục tháng 4 và 5 năm 1886 của tạp chí 
“Neue Zeit”. Qua tác phẩm này Ăngghen muốn chứng minh cho mọi ng−ời thấy rõ thái độ của 
ông và Mác với hai nhà triết học cổ điển Đức là Hêghen và Phoiơbắc cũng nh− việc các ông kế 
thừa những t− t−ởng hợp lý của Hêghen và Phoiơbắc nh− thế nào trong việc đề xuất các nguyên 
lý triết học duy vật lịch sử. Ăngghen coi đây là “món nợ danh dự” mà các ông phải trả do tr−ớc 
đây các ông ch−a trả đ−ợc. 
Chúng ta biết rằng Hêghen (1770- 1831) là ng−ời kết thúc việc xây dựng tòa nhà của chủ 
nghĩa duy tâm cổ điển Đức. Là một giáo s− giảng dạy triết học song Hêghen không xem xét triết 
học d−ới góc cạnh khoa học mà ông cho rằng triết học là sự xem xét đối t−ợng một cách có suy 
nghĩ, còn t− duy nói chung là cái làm cho con ng−ời khác với con vật. Triết học của Hêghen, 
ngoài phép biện chứng – cái hạt nhân hợp lý mang tính cách mạng thì còn lại là một mớ kiến 
thức phản động, chứa đầy mâu thuẫn với chính phép biện chứng cách mạng của ông. Chính vì 
vậy, khi nghiên cứu triết học của Hêghen để kế thừa cái hạt nhân hợp lý đó, Mác- Ăngghen đT 
phải vừa phê phán, vừa khắc phục tính duy tâm trong triết học Hêghen. 
Trong “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung triết học cổ điển Đức” Ăngghen đT đề cập rất 
kỹ về quá trình ông và Mác khắc phục chủ nghĩa duy tâm của Hêghen nh− thế nào? Điều đó đ−ợc 
thể hiện rõ nhất qua việc Mác- Ăngghen gạt bỏ tất cả những ph−ơng diện duy tâm chủ nghĩa 
trong ph−ơng pháp biện chứng của triết học Hêghen và xây dựng nên ph−ơng pháp biện chứng 
duy vật mang tính cách mạng triệt để và đại chúng . Vấn đề này đ−ợc Ăngghen trình bày kỹ 
trong phần bốn của tác phẩm. 
Trong tác phẩm, Ăngghen đT chỉ ra rằng thời gian đầu các ông còn chịu ảnh h−ởng rất 
nhiều của triết học Hêghen. Nh−ng sau khi nghiên cứu triết học Hêghen thì hai ông đT nhận ra 
tính chất duy tâm, mâu thuẫn giữa ph−ơng pháp và hệ thống trong triết học Hêghen. Từ đó các 
ông đT bắt đầu gạt bỏ Hêghen một cách có phê phán, có kế thừa - tức là chỉ gạt bỏ đi ở Hêghen 
những cái không hợp lý, không tích cực còn giữ lại những cái gì là hợp lý là tích cực. Cái hợp lý, 
cái tích cực trong triết học Hêghen đ−ợc Mác- Ăngghen xác định đó chính là ph−ơng pháp biện 
chứng đ−ợc Hêghen bọc trong cái vỏ duy tâm thần bí. Ăngghen cho rằng chính sự tan rT của triết 
học Hêghen dẫn đến sự xuất hiện chủ nghĩa duy vật biện chứng, ông viết: “Sự tan rT của học 
phái Hêghen cũng còn làm nảy sinh ra một khuynh h−ớng khác, khuynh h−ớng duy nhất thực sự 
Tạp chí Khoa học & Công nghệ - Số 2(42)/Năm 2007 
 111
đem lại kết quả - khuynh h−ớng này chủ yếu gắn với tên tuổi của Mác” (C. Mác - Ăngghen, toàn 
tập, tập 21, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995, trang 427- 428). Với lối t− duy đó Ăngghen 
đT lần l−ợt chỉ rõ mặt cách mạng và hạn chế trong triết học Hêghen. 
Tr−ớc hết Ăngghen đT chỉ ra mâu thuẫn cơ bản của triết học Hêghen- đó chính là mâu 
thuẫn giữa ph−ơng pháp biện chứng với hệ thống triết học của ông ta. Ăngghen cho rằng đây 
chính là hạn chế lớn nhất trong triết học Hêghen. Hạn chế đó của Hêghen thể hiện ở chỗ nếu nh− 
phép biện chứng là hạt nhân hợp lý, là mặt tiến bộ trong triết học của Hêghen thì ng−ợc lại hệ 
thống triết học của ông ta lại duy tâm, siêu hình. Chính yêu cầu của hệ thống đT dẫn Hêghen đến 
việc thừa nhận điểm cuối cùng trong việc nhận thức triết học và thực tiễn lịch sử. Ăngghen viết : 
“Song nh− thế có nghĩa là tuyên bố rằng toàn bộ nội dung giáo điều của hệ thống Hêghen đều là 
chân lý tuyệt đối, vậy là trái với ph−ơng pháp biện chứng của ông, ph−ơng pháp đT phá bỏ mọi 
cái có tính chất giáo điều. Nh− thế nghĩa là mặt cách mạng của học thuyết Hêghen đT bị đè bẹp 
bởi sự tr−ởng thành quá khổ của mặt bảo thủ của nó. Và điều đúng với nhận thức triết học thì 
cũng lại đúng với cả thực tiễn lịch sử nữa” (sđd-tr.396). Rõ ràng, ở đây Ăngghen đT phê phán 
Hêghen, song ông không chỉ dừng lại ở việc phê phán Hêghen mà thông qua đó Ăngghen còn 
muốn phê phán cả một giai cấp t− sản Đức nhỏ bé về kinh tế, yếu hèn về chính trị, không đủ sức 
để làm nên một cuộc cách mạng t− sản nh− ở n−ớc Pháp cuối thế kỷ XVIII. Bởi vậy, hạn chế đó 
không phải riêng của mình Hêghen mà còn là hạn chế chung của các nhà lý luận và toàn bộ giai 
cấp t− sản Đức hồi bấy giờ. 
Song, không chỉ biết phê phán Hêghen, Ăngghen còn đánh giá rất cao những t− t−ởng 
cách mạng mà Hêghen đT đóng góp vào kho tàng triết học nhân loại. Ăngghen khẳng định: 
“Nh−ng tất cả những điều đó –mặt hạn chế trong triết học Hêghen không ngăn trở hệ thống 
Hêghen bao trùm một lĩnh vực hết sức rộng lớn hơn bất cứ hệ thống nào tr−ớc kia, và phát triển, 
trong lĩnh vực đó, một sự phong phú về t− t−ởng mà ngày nay ng−ời ta vẫn còn ngạc nhiên Vì 
Hêghen không những chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà bác học có tri thức bách 
khoa, nên những phát biểu của ông tạo thành thời đại” (sđd-tr.397). 
Thông qua việc đánh giá cao những −u điểm của triết học Hêghen, Ăngghen đT phê phán 
Lútvích Phoiơbăc. Cho rằng ông ta chỉ đơn thuần gạt bỏ triết học Hêghen mà không biết nắm lấy 
ph−ơng pháp cách mạng – phép biện chứng của Hêghen để làm phong phú cho triết học của 
mình. Tuy nhiên, Ăngghen cũng cho rằng không phải bê y nguyên phép biện chứng của Hêghen 
vào là mình đT có một ph−ơng pháp thực sự cách mạng đ−ợc vì phép biện chứng d−ới hình thức 
của Hêghen thì không thể dùng đ−ợc mà phép biện chứng đó cũng cần phải cải tạo lại. Cái cần 
phải gạt bỏ trong phép biện chứng của Hêghen chính là sự xuyên tạc có tính chất hệ t− t−ởng, vì 
Hêghen cho rằng con ng−ời nhận thức đ−ợc thế giới song thế giới đó không phải là thế giới hiện 
t−ợng mà chính là thế giới của ý niệm tuyệt đối. ý niệm tuyệt đối này tồn tại vĩnh viễn và vận 
động không ngừng. Nhận thức của con ng−ời là sự phản ánh của sự vận động riêng của ý niệm 
tuyệt đối. Ăngghen cho rằng đây là sự thể hiện rõ nhất điểm khác nhau giữa phép biện chứng của 
chủ nghĩa Mác với phép biện chứng của Hêghen. Về điều này Ăngghen viết : “ở Hêghen, sự phát 
triển biện chứng biểu hiện trong giới tự nhiên và trong lịch sử chỉ là sự sao chép lại sự tự vận 
động của ý niệm, một sự tự vận động diễn ra vĩnh viễn, không biết ở đâu, nh−ng dù sao cũng độc 
lập đối với mọi bộ óc đang t− duy của con ng−ời. Sự xuyên tạc mang tính chất t− t−ởng ấy cần 
Tạp chí Khoa học & Công nghệ - Số 2(42)/Năm 2007 
 112
gạt bỏ. Chúng tôi lại trở về với quan điểm duy vật và thấy rằng những ý niệm trong đầu óc của 
chúng ta là những phản ánh của sự vật hiện thực, chứ không xem những sự vật hiện thực là những 
phản ánh của giai đoạn này hay giai đoạn khác của ý niệm tuyệt đối” (sđd-tr.429). 
Trên cơ sở phép biện chứng duy tâm của Hêghen, Ăngghen đT đ−a ra quan niệm về phép 
biện chứng duy vật. Thoạt đầu, Ăngghen đ−a ra định nghĩa kinh điển về phép biện chứng và đồng 
thời ông phân biệt rõ hai loại biện chứng là biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Theo 
Ăngghen thì : “phép biện chứng đ−ợc quy thành khoa học về các quy luật chung của sự vận động 
của thế giới bên ngoài cũng nh− của t− duy con ng−ời, với hai loại quy luật đồng nhất về thực 
chất, nh−ng khác nhau về biểu hiện, theo ý nghĩa là bộ óc con ng−ời có thể vận dụng những quy 
luật đó một cách có ý thức, còn trong tự nhiên, và cho đến nay, phần lớn cả trong lịch sử loài 
ng−ời, những quy luật đó tự mở cho mình một con đ−ờng đi, một cách vô ý thức, d−ới hình thức 
tất yếu bên ngoài, giữa một loạt vô cùng tận những sự ngẫu nhiên bên ngoài. nh−ng nh− vậy thì 
bản thân biện chứng của ý niệm cũng chỉ đơn thuần là sự phản ánh có ý thức của sự vận động 
biện chứng của thế giới hiện thực” (sđd-tr.429-430). Ăngghen cho rằng biện chứng của tự nhiên 
tức biện chứng khách quan và biện chứng của sự nhận thức, tức biện chứng chủ quan là hai loại 
biện chứng đT, đang và sẽ tồn tại trong thế giới hiện thực. Biện chứng khách quan đó là biện 
chứng của tự nhiên luôn vận động, biến đổi và phát triển tuân theo những quy luật chặt chẽ, vốn 
có của nó. Còn biện chứng chủ quan chính là sự nhận thức của con ng−ời - đó là sự phản ánh 
những quy luật của thế giới hiện thực trong đầu óc con ng−ời. Nh− vậy, phép biện chứng khách 
quan là ph−ơng pháp nghiên cứu biện chứng của tự nhiên còn phép biện chứng chủ quan là 
ph−ơng pháp nghiên cứu sự phản ánh biện chứng của tự nhiên. Qua đây, một lần nữa ta thấy rõ sự 
khác nhau, đối lập nhau giữa phép biện chứng của Hêghen với phép biện chứng của Mác-
Ăngghen. Mác - Ăngghen coi những ý niệm trong đầu óc con ng−ời là phản ánh của sự vật hiện 
thực. Bản thân biện chứng của ý niệm cũng chỉ đơn thuần là sự phản ánh có ý thức của sự vận 
động biện chứng của thế giới hiện thực. Và với việc làm đó của hai ông thì “phép biện chứng của 
Hêghen đT đ−ợc đảo ng−ợc lại. Hay nói đúng hơn từ chỗ tr−ớc kia nó đứng bằng đầu, bây giờ 
ngừời ta đặt nó đứng bằng chân” trên mảnh đất của chủ nghĩa duy vật. 
Từ lý luận trên của mình, Ăngghen đT phân tích sự đối lập giữa ph−ơng pháp biện chứng 
và ph−ơng pháp siêu hình. 
Về ph−ơng pháp siêu hình Ăngghen chỉ ra nguồn gốc của nó: Ăngghen cho rằng chủ 
nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII có thiếu sót lớn là mang nặng tính chất siêu hình, do tình trạng 
không phát triển của khoa học tự nhiên mang lại. ở thời kỳ này khoa học tự nhiên chỉ nghiên cứu 
những vật vô cơ và hữu cơ nh− những vật thể có cấu tạo một lần là xong. Đến tận cuối thế kỷ 
XVIII khoa học tự nhiên cũng chỉ mới dừng lại ở việc mô tả và s−u tập tài liệu và là khoa học của 
các vật nhất thành bất biến với ph−ơng pháp phân tích thực nghiệm là ph−ơng pháp nghiên cứu 
chủ yếu. Chính vì vậy mà ph−ơng pháp siêu hình coi thế giới nh− là một tập hợp các sự vật đT 
hình thành không có phát triển, coi mọi sự vật là bất biến. Nói về ph−ơng pháp siêu hình, 
Ăngghen viết: “ph−ơng pháp nghiên cứu và t− duy cũ mà Hêghen gọi là ph−ơng pháp siêu hình 
tức là ph−ơng pháp chủ yếu nghiên cứu những sự vật nh− là đT hoàn thành, cố định, ph−ơng pháp 
mà tàn tích cho đến nay vẫn còn tiếp tục bám chặt vào đầu óc con ng−ời. Ph−ơng pháp đó, vào 
thời của nó, đT có căn cứ lịch sử lớn của nó. Cần phải nghiên cứu các sự vật tr−ớc khi có thể bắt 
Tạp chí Khoa học & Công nghệ - Số 2(42)/Năm 2007 
 113
tay nghiên cứu các quá trình. Tr−ớc hết cần phải biết một sự vật nào đấy là cái gì, rồi mới có thể 
nghiên cứu những sự biến đổi diễn ra trong sự vật đó. Trong các khoa học kỹ thuật, tình hình là 
nh− vậy. Siêu hình học cũ cho rằng các sự vật đT đ−ợc cấu tạo nhất thành bất biến – là sản phẩm 
của một khoa học tự nhiên nghiên cứu những vật vô sinh và những vật hữu sinh nh− là những vật 
nhất thành bất biến” ((Sđd – tr.431). Ăngghen cho rằng, với điều kiện lịch sử nh− vậy thì ph−ơng 
pháp t− duy siêu hình thống trị thời kỳ đó là một tất yếu. Nh−ng sang đến thế kỷ XIX, khoa học 
tự nhiên đT tiến lên một b−ớc lớn “về thực chất đT trở thành một khoa học hệ thống hóa, khoa học 
về các quá trình, về sự phát sinh, phát triển của các sự vật đó và về mối liên hệ gắn bó các quá 
trình đó của tự nhiên thành một chỉnh thể lớn” (Sđd – tr.432). Bởi vậy mà ph−ơng pháp siêu hình 
không còn thích hợp nữa vì có quá nhiều nh−ợc điểm, thiếu sót, hạn chế. Khoa học tự nhiên bắt 
buộc nó phải lùi về lịch sử, nh−ờng chỗ cho một ph−ơng pháp mới thích hợp hơn – ph−ơng pháp 
biện chứng. Về điều này, Ăngghen viết: “Nh−ng khi việc nghiên cứu ấy, tiến đến mức có thể có 
đ−ợc b−ớc tiến quyết định, nghĩa là b−ớc chuyển sang nghiên cứu có hệ thống những biến đổi mà 
những vật đó trải qua ở ngay trong tự nhiên thì lúc đó, trong lĩnh vực triết học, giờ cáo chung của 
siêu hình học cũ đT điểm. Và thực vậy, nếu nh− đến với thế kỷ tr−ớc, khoa học tự nhiên chỉ là 
một khoa học s−u tập, một khoa học về các vật nhất thành bất biến, thì trong thế kỷ của chúng ta, 
khoa học tự nhiên, về thực chất đT trở thành một khoa học hệ thống hóa, khoa học về các quá 
trình, về sự phát sinh và phát triển của các sự vật đó và về mối liên hệ gắn bó với các quá trình đó 
của tự nhiên thành một chỉnh thể lớn” (sđd – tr.432). 
Vậy, ph−ơng pháp biện chứng có −u điểm gì hơn so với ph−ơng pháp siêu hình. Ăngghen chỉ 
rõ, ph−ơng pháp biện chứng thể hiện tính −u điểm ở chỗ nó coi thế giới nh− một quá trình trong đó 
các sự vật không ngừng sinh ra, không ngừng mất đi, không ngừng phát triển. Nó có sự đối lập giữa 
chân lý và sai lầm, giữa thiện và ác và sự đối lập ấy cũng chỉ mang ý nghĩa t−ơng đối mà thôi. 
Trong khi chỉ ra nguồn gốc của ph−ơng pháp siêu hình thì Ăngghen cũng chỉ ra nguồn 
gốc của ph−ơng pháp biện chứng. Nguồn gốc trực tiếp nhất của ph−ơng pháp biện chứng theo 
Ăngghen là do sự ra đời của ba phát minh vĩ đại trong khoa học tự nhiên vào cuối thế kỷ XIX: 
một là, sự phát minh ra tế bào, hai là, sự phát minh ra định luật bảo toàn và chuyển hóa năng 
l−ợng, ba là, sự phát minh của Đacuyn về thuyết tiến hóa. 
Nh− vậy là để khắc phục ph−ơng pháp t− duy siêu hình, Mác và Ăngghen đT tiến đến 
ph−ơng pháp biện chứng duy vật. Điều đó có đ−ợc là do hai ông đT phê phán và kế thừa triết học 
của Hêghen. Song có một điều vô cùng quan trọng mà Ăngghen đT đề cập đến trong việc khắc 
phục chủ nghĩa duy tâm của Hêghen là Ăngghen cho rằng phép biện chứng duy vật không chỉ 
nghiên cứu và vận dụng đúng khi nghiên cứu tự nhiên mà nó còn đ−ợc vận dụng trong nghiên 
cứu lịch sử. Vì cũng giống nh− tự nhiên, lịch sử xT hội loài ng−ời cũng phát triển nh− một quá 
trình. Ăngghen viết về điều này: “song điều đó đT đúng với giới tự nhiên mà chúng ta coi là một 
quá trình lịch sử thì cũng đúng với tất cả các bộ môn của lịch sử xT hội và cũng đúng với toàn bộ 
các khoa học nghiên cứu những cái thuộc về con ng−ời” (Sđd-tr.434). Chính từ t− duy này mà 
Ăngghen đT đ−a ra một số quan điểm về chủ nghĩa duy vật lịch sử có giá trị rất lớn. 
Về mặt lý luận, nh− Lênin đT từng nhận xét, tác phẩm là cuốn sách gối đầu gi−ờng của 
giai cấp công nhân. Nó chính là cơ sở lý luận không thể thiếu giúp cho giai cấp công nhân và 
Tạp chí Khoa học & Công nghệ - Số 2(42)/Năm 2007 
 114
Đảng cộng sản ở các n−ớc trong đó có n−ớc ta đ−a ra những định h−ớng chiến l−ợc, sách l−ợc 
phù hợp về xây dựng chủ nghĩa xT hội trong bối cảnh toàn cầu hoá. 
Còn về mặt thực tiễn, cuốn sách mà Ăngghen viết đT soi đ−ờng, chỉ lối cho quá trình xây 
dựng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên đất n−ớc ta đặc biệt là những năm gần đây. Nó 
giúp cho chúng ta nhận định đúng cũng nh− biết vận dụng một cách sáng tạo trong việc xây dựng 
nhà n−ớc pháp quyền xT hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xT hội không qua giai đoạn t− bản 
chủ nghĩa ở n−ớc ta 
Tài liệu tham khảo 
[1]. Các Mác- Ph.Ăngghen , toàn tập, tập 21, Nxb chính trị Quốc gia, Hà nội 1995. 
[2]. Giáo trình triết học dùng cho nghiên cứu sinh và cao học không chuyên triết. Nxb chính trị 
quốc gia 2001, tập 2. 
[3]. Lịch sử phép biện chứng Mácxit, Nxb chính trị quốc gia 1998, tập 2,3. 
[4]. Lênin toàn tập, tập 23 Nxb Matxcơva 1978. 
[5]. Trần Văn Phòng, “Một số quan điểm duy vật lịch sử trong tác phẩm Lut vích PhoiơBắc và sự 
cáo chung của triết học cổ điển Đức”. Tạp chí Lý luận số 11 năm 2005. 
[6]. Vấn đề triết học trong tác ptẩm của Mác - Ăngghen – VI Lênin. Sách tham khảo. Nxb chính 
trị quốc gia 2003. PGS.TS DoTn Chính – TS. Đinh Ngọc Thạch chủ biên. 

File đính kèm:

  • pdfqua_trinh_angghen_phe_phan_triet_hoc_duy_tam_cua_heghen_tron.pdf