Phát triển vượt cấp trong xã hội: lịch sử, lôgíc và thực tiễn chủ nghĩa xã hội ngày nay

Tóm tắt: Sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người là một quá

trình lịch sử - tự nhiên. Trong tiến trình lịch sử, nhân loại tất yếu phải lần lượt

đi từ xã hội thấp lên xã hội cao, theo trật tự xã hội trước đến xã hội sau. Tuy

nhiên, ở từng thời kỳ cụ thể, một quốc gia, dân tộc riêng lẻ có thể diễn ra sự

phát triển vượt cấp bằng cách bỏ qua một giai đoạn phát triển nhất định và tiến

thẳng lên một giai đoạn phát triển cao hơn. Trên cơ sở phân tích các căn cứ về

lịch sử, lôgíc và từ thực tiễn chủ nghĩa xã hội, tác giả khẳng định có sự phát

triển vượt cấp như vậy, đồng thời khẳng định có khả năng quá độ lên chủ nghĩa

xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.

pdf 11 trang phuongnguyen 2260
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển vượt cấp trong xã hội: lịch sử, lôgíc và thực tiễn chủ nghĩa xã hội ngày nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển vượt cấp trong xã hội: lịch sử, lôgíc và thực tiễn chủ nghĩa xã hội ngày nay

Phát triển vượt cấp trong xã hội: lịch sử, lôgíc và thực tiễn chủ nghĩa xã hội ngày nay
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 40
PHÁT TRIỂN VƯỢT CẤP TRONG XÃ HỘI: LỊCH SỬ, 
LÔGÍC VÀ THỰC TIỄN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI NGÀY NAY 
PHẠM VĂN CHÚC* 
Tóm tắt: Sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người là một quá 
trình lịch sử - tự nhiên. Trong tiến trình lịch sử, nhân loại tất yếu phải lần lượt 
đi từ xã hội thấp lên xã hội cao, theo trật tự xã hội trước đến xã hội sau. Tuy 
nhiên, ở từng thời kỳ cụ thể, một quốc gia, dân tộc riêng lẻ có thể diễn ra sự 
phát triển vượt cấp bằng cách bỏ qua một giai đoạn phát triển nhất định và tiến 
thẳng lên một giai đoạn phát triển cao hơn. Trên cơ sở phân tích các căn cứ về 
lịch sử, lôgíc và từ thực tiễn chủ nghĩa xã hội, tác giả khẳng định có sự phát 
triển vượt cấp như vậy, đồng thời khẳng định có khả năng quá độ lên chủ nghĩa 
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. 
Từ khóa: Phát triển vượt cấp trong xã hội, bỏ qua chế độ, chủ nghĩa tư bản, 
chủ nghĩa xã hội, lịch sử, lôgíc. 
Đặt vấn đề 
Từ trước đến nay các nhà tư tưởng, lý 
luận của giai cấp tư sản trên thế giới đều 
luôn luôn nhất quán và triệt để bác bỏ 
toàn bộ mục tiêu, con đường đi lên chủ 
nghĩa xã hội (CNXH) ở tất cả các nước. 
Họ cho rằng, CNXH là điều không 
tưởng, trái tự nhiên, phi lý; còn chủ nghĩa 
tư bản (CNTB) mới chính là đỉnh điểm 
hoàn thiện nhất của tiến bộ xã hội, là 
đích đến cuối cùng trọn vẹn của sự phát 
triển văn hóa, văn minh nhân loại. Đối 
với các nước đang phát triển, chậm phát 
triển về kinh tế - kỹ thuật, bao gồm cả 
những nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), 
thì họ khẳng định rằng, con đường phát 
triển hợp lý tất yếu chỉ có thể là đi lên 
CNTB và mục tiêu tối thượng, duy nhất 
đúng đắn chính là các xã hội tư bản chủ 
nghĩa (TBCN) phương Tây hiện nay. 
Trên ý nghĩa ấy, vào năm 1989, thời 
điểm khó khăn nhất của phong trào 
XHCN thế giới, học giả danh tiếng 
người Mỹ Ph. Phukuyama đã tuyên bố 
đầy hứng khởi về một “sự cáo chung 
của lịch sử” mà hàm ý chính là nhằm 
đến CNXH hiện thực.(*) 
Trong khi đó, có những người không 
hoàn toàn đứng chung đội ngũ với các 
học giả tư sản, thậm chí còn tự coi mình 
là có lập trường “XHCN đích thực”, 
“mácxít chân chính”, thì tuy không trực 
tiếp bác bỏ mục tiêu và con đường đi lên 
CNXH nói chung, song lại hoàn toàn phủ 
nhận khả năng quá độ lên CNXH, xây 
dựng thành công xã hội XHCN ở những 
quốc gia, dân tộc đang hoặc chậm phát 
triển, bỏ qua chế độ TBCN hoặc giai 
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ. 
Phát triển vượt cấp trong xã hội ... 
 41
đoạn phát triển cao của chế độ này. 
Luồng ý kiến trên đã từng xuất hiện 
trong phong trào XHCN ở Châu Âu ngay 
từ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, 
cũng như ở nước Nga trước và trong một 
thời gian nhất định sau cách mạng Tháng 
Mười. Đặc biệt, nó rộ lên chiếm ưu thế 
tại Liên Xô và Đông Âu từ khi bắt đầu 
bước vào cái gọi là “cải tổ”. Ở nước ta, 
thời gian qua và kể cả hiện nay cũng xuất 
hiện những ý kiến như vậy. 
Các ý kiến này cho rằng, theo chính 
lý luận mácxít thì các nước tiền TBCN 
cần phải và cũng chỉ có thể đi lên 
CNTB. Tương tự, các nước TBCN phát 
triển thấp hoặc trung bình cũng cần phải 
và chỉ có thể đi lên CNTB phát triển 
cao. Sự kiện chế độ XHCN ở Đông Âu 
và Liên Xô sụp đổ chính là cái giá mà 
các nước này phải trả cho “tội tổ tông” 
của họ. Đó là việc, trong khi nền kinh tế, 
sản xuất còn thua kém xa các nước 
TBCN phương Tây, thì các Đảng Cộng 
sản, nhà nước XHCN và người dân ở 
đây đã cố thực hiện cách mạng tháng 
Mười và các cuộc cách mạng XHCN 
khác một cách gò ép, chủ quan, duy ý 
chí. Mọi khó khăn, trở ngại và bất cập 
của CNXH hiện thực trong suốt thời 
gian qua, cũng như thất bại cuối cùng 
không tránh khỏi tới đây của các nước 
XHCN còn lại, đều bắt nguồn từ sự bất 
chấp, vi phạm những quy luật lịch sử tự 
nhiên mà chính “Mác trẻ” thiên tài đã 
phát hiện... 
Các ý kiến trên đây trái ngược với 
quan điểm của Đảng ta khẳng định rằng, 
Việt Nam bỏ qua chế độ TBCN để quá 
độ lên CNXH. Bài viết này phân tích 
một số căn cứ (lịch sử, lôgíc, thực tiễn) 
để bác bỏ các ý kiến vừa nêu. 
1. Lịch sử 
Lịch sử phát triển của toàn bộ xã hội 
loài người trên phạm vi cả thế giới nói 
chung từ trước đến nay đã và đang trải 
qua năm hình thái kinh tế - xã hội: công 
xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong 
kiến, TBCN, CSCN. Trong tiến trình 
lịch sử chung đó, nhân loại tất yếu phải 
lần lượt đi từ xã hội thấp lên xã hội cao, 
theo trật tự từ xã hội trước đến xã hội 
sau. Ở đây lịch sử không thể có sự đứt 
đoạn, hụt hẫng hoặc nhảy cóc phi thực 
tế từ hư vô, bất chấp những tiền đề, mục 
tiêu hiện thực cụ thể nhất định. 
Nhưng mặt khác, sự vận động, phát 
triển của xã hội loài người là một quá 
trình lịch sử - tự nhiên, chứ không phải 
là một quá trình tự nhiên trực tiếp đơn 
thuần, tuyệt đối cứng nhắc, máy móc 
định mệnh. Cho nên cũng chính trong 
sự phát triển tuần tự, tổng thể chung, thì 
ở từng thời kỳ, giai đoạn cụ thể nhất 
định, trong phạm vi từng khu vực, từng 
quốc gia, dân tộc riêng lẻ lại diễn ra 
những trường hợp đặc thù. Chẳng hạn, 
một số cư dân, nền văn minh ở Ấn Độ 
thời cổ đại, Trung Mỹ thời tiền Côlông 
đang từ tầm cao phát triển lại trở nên 
tàn lụi, diệt vong. Hoặc không ít cộng 
đồng người trên thế giới trong những 
thời kỳ lịch sử khác nhau, do lâm vào 
điều kiện sống khắc nghiệt hơn trước 
mà bị thụt lùi về trình độ phát triển mọi 
mặt. Ngược lại, một số quốc gia, dân 
tộc, cộng đồng trong những điều kiện 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 42
thuận lợi nhất định lại phát triển vượt 
cấp lên một hình thái kinh tế - xã hội 
cao hơn hẳn, bỏ qua một hay thậm chí 
một vài hình thái kinh tế - xã hội cao 
hơn kế tiếp liền kề. Hoặc ở mức độ gần 
tương tự như vậy là việc trong cùng 
một hình thái kinh tế - xã hội, thì có 
quốc gia, dân tộc, cộng đồng đi trước 
nhưng về sau lại tụt hậu. Còn quốc gia, 
dân tộc, cộng đồng đi sau lại vươn lên 
hàng đầu, đạt tới mức phát triển cao 
nhất và sớm nhất của hình thái kinh tế - 
xã hội đó. 
Về trường hợp thứ hai nêu trên, lịch 
sử đã có một số ví dụ cụ thể tiêu biểu. 
Chẳng hạn, người Giécmanh ở Đức thời 
cổ đại đã từ xã hội Công xã nguyên thủy 
bỏ qua chế độ chiếm hữu nô lệ của 
người La Mã cùng thời, tiến lên một xã 
hội hoàn toàn mới cho đến lúc đó là xã 
hội phong kiến. Người Mông Cổ, Mãn 
Thanh thời trung cổ sau khi chinh phục 
nước Trung Hoa, đã bỏ qua chế độ 
chiếm hữu nô lệ trong quá khứ để tiến 
lên xã hội phong kiến đương thời của 
những kẻ bại trận, tuy nhiên cũng bị họ 
đồng hóa hoàn toàn. Thổ dân da đỏ ở 
Bắc Mỹ, người Maori ở Ôxtrâylia thời 
cận đại đã từ xã hội Công xã nguyên 
thủy tiến lên xã hội TBCN, bỏ qua các 
chế độ nô lệ và phong kiến. Nước Mỹ 
thời cận đại là một cộng đồng bao gồm 
cả thổ dân da đỏ lẫn dân nhập cư da 
trắng và da đen, đã từ một xã hội có nền 
sản xuất TBCN kết hợp với chế độ 
chính trị mang yếu tố chiếm nô đậm nét, 
thực hiện cuộc Cách mạng tư sản năm 
1776 để tiến lên CNTB. 
Trong thời hiện đại, nhiều quốc gia, 
dân tộc ở Châu Phi đã từ các xã hội tiền 
phong kiến tiến lên xã hội TBCN. Trong 
thời cổ đại, một số thuộc địa của các nhà 
nước chiếm hữu nô lệ Hy Lạp (như 
Cáctagiơ ở Bắc Phi,...) đã phát triển lên 
trình độ điển hình của chế độ này cao 
hơn và sớm hơn so với chính quốc. 
Trong thời trung cổ ở Châu Âu, một số 
cư dân (như người Noócmăngđi ở 
Anh,...) đã đi lên xã hội phong kiến 
muộn hơn người Giécmanh, nhưng lại 
phát triển xã hội này đến trình độ điển 
hình trước tiên. Thể chế phong kiến đó 
vẫn hiện diện trong nền quân chủ lập 
hiến đại nghị tư sản của nước Anh ngày 
nay. Sang thời cận, hiện đại thì mầm 
mống của CNTB hình thành sớm nhất 
và những cuộc chính biến tư sản nổ ra 
đầu tiên không phải tại Anh, mà lại là ở 
Italia và Hà Lan. Cuộc cách mạng tư sản 
điển hình nhất được thừa nhận chung, là 
Đại cách mạng tư sản Pháp năm 1789. 
CNTB đạt tới trình độ phát triển điển 
hình sớm nhất và cao nhất cho đến nay, 
không phải là ở Tây Âu mà là ở Mỹ và 
Nhật Bản... 
2. Lôgíc 
Trên cơ sở kết hợp việc tổng kết toàn 
bộ lịch sử phát triển xã hội loài người từ 
đầu cho đến khoảng những năm 20 thế 
kỷ XX, bao gồm cả phương Tây và 
phương Đông, Châu Âu và ngoài Châu 
Âu (trong đó có nhiều trường hợp đã 
nêu ở phần trên) với việc nghiên cứu sâu 
sắc lý luận triết học, kinh tế chính trị 
học và tư tưởng XHCN, các nhà sáng 
lập ra chủ nghĩa Mác - Lênin đã xây 
Phát triển vượt cấp trong xã hội ... 
 43
dựng học thuyết cách mạng khoa học về 
hình thái kinh tế - xã hội. Từ nội dung 
của học thuyết này, có thể rút ra những 
luận điểm cơ bản quan trọng sau đây 
làm căn cứ luận để khẳng định quan 
điểm đúng đắn của Đảng ta về vấn đề 
quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN 
ở Việt Nam. 
Thứ nhất, toàn bộ lịch sử thế giới nói 
chung tất yếu tuần tự trải qua tất cả các 
hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến 
cao: từ công xã nguyên thủy, chiếm hữu 
nô lệ, phong kiến, TBCN, đến XHCN; 
quá trình phát triển chung nhất, phổ biến 
đó không thể bỏ qua bất kỳ một hình 
thái kinh tế - xã hội nào đã nêu. 
Thứ hai, đối với từng khu vực, quốc 
gia, dân tộc nhất định, thì sự phát triển 
có tính đặc thù (tức là nó có thể không 
tuần tự đi hết tất cả các hình thái kinh tế - 
xã hội, mà bỏ qua một hay một số hình 
thái kinh tế - xã hội kế tiếp liền kề để 
tiến vượt cấp lên hình thái kinh tế - xã 
hội cao hơn hẳn). 
Thứ ba, khả năng quá độ bỏ qua, phát 
triển vượt cấp này không phải là tùy tiện 
mà dựa trên những điều kiện lịch sử cụ 
thể nhất định. 
Thứ tư, trong trường hợp một xã hội 
thấp hơn muốn bỏ qua một xã hội cao 
hơn đang tồn tại để tiến lên một xã hội 
cao hơn hẳn và là hoàn toàn mới cho 
đến lúc đó thì cần có những điều kiện 
sau: Một là, xã hội được bỏ qua (cao 
hơn) đã ra đời, tồn tại và đạt tới trình độ 
phát triển chín muồi; các mâu thuẫn 
kinh tế và chính trị cơ bản của nó đã trở 
nên gay gắt đến mức không thể khắc 
phục được hoàn toàn; yêu cầu khách 
quan về sự xóa bỏ, thay thế nó đã xuất 
hiện. Hai là, bằng những phương thức, 
cách thức và theo những quy mô, mức 
độ cụ thể nhất định, xã hội này cao phải 
tham gia góp phần tạo nên tiền đề vật 
chất - kỹ thuật, kinh tế - kỹ thuật cần 
thiết nhất định cho xã hội thực hiện sự 
bỏ qua (thấp hơn). Ba là, xã hội thấp 
phải có mối liên hệ, quan hệ, tác động 
qua lại thuận lợi và độc lập tự chủ với 
xã hội cao. Bốn là, xã hội thấp hơn (về 
vật chất - kỹ thuật, kinh tế - kỹ thuật) 
phải có sẵn nhân tố vật chất - xã hội 
(kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội, xã 
hội) tích cực thích hợp nhất định, góp 
phần làm tiền đề cho sự ra đời của xã 
hội cao hơn hẳn (mới). Năm là, xã hội 
thấp hơn phải làm chủ được cơ sở vật 
chất - kỹ thuật, kinh tế - kỹ thuật mà xã 
hội cao đã tạo ra; cải biến, nâng cao 
thêm chất lượng và hiệu quả, vai trò và 
tác dụng của nhân tố tích cực vốn có của 
mình; liên kết, phối hợp chặt chẽ những 
tiền đề này, phát triển chúng đầy đủ hơn 
nữa; xây dựng, sáng tạo được những 
nhân tố của xã hội mới. Sáu là, xã hội 
thấp hơn tất yếu phải tiến hành bước quá 
độ gián tiếp, chứ không phải trực tiếp 
lên xã hội mới. Khâu trung gian ở đây là 
bước quá độ trực tiếp của nó lên cơ sở 
kinh tế - kỹ thuật của xã hội cao hơn. 
Tiếp theo là phát triển bản thân cơ sở 
này đến những trình độ cao nhất, tột bậc 
của chính nó. Cuối cùng là từ đây quá 
độ lên xã hội mới. 
Những luận điểm lôgíc đã được khái 
quát này hoàn toàn phù hợp và thống 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 44
nhất biện chứng với các trường hợp lịch 
sử thực tế đã nêu trên. Cụ thể là: người 
Giécmanh gắn liền nhiều mặt với người 
La Mã đang ở trình độ cao nhất của xã 
hội chiếm hữu nô lệ. Trong mối quan hệ 
này, tuy thuộc xã hội thấp hơn nhưng 
người Giécmanh lại là kẻ chiến thắng, 
thống trị; còn người La Mã chỉ là kẻ bại 
trận, bị chinh phục. Khi kết hợp với lực 
lượng sản xuất cao hơn của người La 
Mã, thì kiểu tổ chức quân sự của người 
Giécmanh đã được vận dụng, cải biến và 
phát triển thành quan hệ sản xuất phong 
kiến. Đối với trường hợp nước Nga 
trong bối cảnh của CNTB giữa thế kỷ 
XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã quan 
tâm xem xét, phân tích sâu sắc khả năng 
nước này có thể bỏ qua “khe núi 
Cápđia”, tức là những khó khăn, gian 
khổ trong xã hội TBCN để tiến thẳng 
lên xã hội cộng sản chủ nghĩa (CSCN). 
Theo các ông, từ khoảng nửa đầu thế kỷ 
XIX, CNTB phương Tây đã phát triển 
chín muồi. Mâu thuẫn giữa lực lượng 
sản xuất xã hội hóa cao độ với quan hệ 
sản xuất chiếm hữu tư bản tư nhân trở 
nên gay gắt. Điều này dù chưa làm 
CNTB sụp đổ, song cũng cho thấy rõ là, 
chế độ đó sẽ không thể loại trừ, hay 
khắc phục được hoàn toàn mâu thuẫn 
ấy. Công xã Pari năm 1871 dù chỉ tồn 
tại trong 72 ngày, nhưng đã khẳng định 
rõ thêm điều đó. Như vậy, từ đây điều 
kiện khách quan cho việc phủ định, thay 
thế CNTB, bao gồm cả sự phát triển 
vượt cấp từ các xã hội tiền TBCN (hay 
CNTB chưa phát triển cao) bỏ qua chế 
độ TBCN lên CNCS, đã xuất hiện. Cũng 
theo C.Mác và Ph.Ăngghen, điều kiện 
cần thiết để nước Nga thực hiện được 
bước chuyển biến cách mạng tốt đẹp 
này là, công xã nông thôn cổ truyền ở 
đây phải được bảo tồn cho đến khi bước 
vào xã hội mới. Lúc đó nó sẽ được tiếp 
nhận, cải biến và phát triển thành các 
quan hệ xã hội và kinh tế - xã hội, quan 
hệ sản xuất CSCN. Ngoài ra, cuộc cách 
mạng vô sản của giai cấp công nhân 
Nga phải nhận được sự phối hợp, ủng hộ 
của giai cấp công nhân Tây Âu cũng 
đồng thời thực hiện thắng lợi cách mạng 
ở nước mình. 
Như vậy, trong hai trường hợp trên, 
xã hội cao hơn đã có sự phát triển tuần 
tự và quá độ trực tiếp lên xã hội cao hơn 
hẳn kế tiếp liền kề sát nó. Còn xã hội 
thấp hơn đã phát triển vượt cấp và quá 
độ gián tiếp lên xã hội cao hơn hẳn. Xét 
chung tổng thể cả hai xã hội này, thì với 
xã hội cao hơn hẳn mới ra đời, trên thực 
tế và về bản chất một sự phát triển vượt 
cấp tương đối và một bước quá độ gián 
tiếp tương đối đã được thực hiện. 
3. Đột phá lý luận của V.I.Lênin 
Trong thời đại CNTB phát triển lên 
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin 
đã tiếp tục phát triển lý luận và giải quyết 
trong thực tiễn vấn đề quá độ lên CNXH 
bỏ qua chế độ TBCN ở nước Nga nói 
riêng, các nước lạc hậu nói chung. 
Để xoa dịu, giải tỏa mâu thuẫn cơ bản 
của CNTB trong phạm vi quốc gia, dân 
tộc mình, các nước TBCN lớn phương 
Tây đã đẩy mạnh xu hướng quốc tế hóa 
và trở thành những nước đế quốc. Đến 
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX xu 
hướng này phát triển tới mức làm cho 
mâu thuẫn giữa các nước đế quốc trở 
Phát triển vượt cấp trong xã hội ... 
 45
nên hết sức trầm trọng và dẫn đến Chiến 
tranh Thế giới lần thứ nhất. Chính điều 
đó đã mở ra cơ hội cho phong trào đấu 
tranh của giai cấp công nhân có thể phát 
triển, cách mạng XHCN có thể nổ ra mà 
không bị CNTB đế quốc quốc tế thống 
nhất phối hợp đàn áp, tiêu diệt. 
So với khả năng được C.Mác và 
Ph.Ăngghen dự kiến trước đây, thì nước 
Nga lúc này còn thiếu cả cơ sở kinh tế - 
kỹ thuật tiên tiến, hùng mạnh được hỗ 
trợ từ bên ngoài lẫn một nhân tố vật chất - 
xã hội tích cực có sẵn ở bên trong để 
quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. 
Đó là “sự giúp đỡ của công nhân Tây 
Âu” và kết cấu “công xã nông thôn” (đã 
bị chính CNTB ở Nga phá vỡ) làm tiền 
đề để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, 
phát triển lực lượng sản xuất và tạo lập 
các mối quan hệ kinh tế - xã hội, quan 
hệ sản xuất của CNXH. Mặt khác, do là 
một cường quốc thế giới, nên nước Nga 
có thể giữ vững nền độc lập và chủ 
quyền quốc gia, dân tộc của mình. Như 
vậy, giai cấp công nhân Nga có thể 
tránh được sự tấn công giai cấp tư sản 
quốc tế để tiến hành thắng lợi cuộc cách 
mạng XHCN, thực hiện thành công thời 
kỳ quá độ lên CNXH. 
Trước bối cảnh tình hình trong nước 
và quốc tế mới đó, V.I.Lênin đã nêu lên 
những tư tưởng cách mạng sáng tạo có 
tính đột phá chính như sau: 
Thứ nhất, cho đến trước chiến tranh 
thế giới thứ nhất, nước Nga đã rơi vào 
tình trạng không thể phát triển được khi 
tiếp tục đi theo con đường cũ. Chế độ 
phong kiến Sa hoàng đã hết sức lỗi thời, 
thối nát, phản động. CNTB Nga, giai 
cấp tư sản mại bản Nga phụ thuộc nặng 
nề vào tư bản phương Tây. Cuộc thế 
chiến làm cho những mâu thuẫn bên 
trong và bên ngoài nước Nga càng trở 
nên gay gắt, trầm trọng. Như vậy là, cả 
thời đại và dân tộc, quốc tế và quốc gia 
đều tạo nên những nhân tố khách quan 
cần thiết cho một sự thay đổi cách mạng 
của đất nước. Vấn đề chỉ còn là ở chỗ 
nhân tố chủ quan đã được chuẩn bị đầy 
đủ đến đâu. 
Thứ hai, giai cấp công nhân Nga, 
dưới sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvích, 
trước hết phải độc lập và chủ động giành 
và giữ vững chuyên chính vô sản, Nhà 
nước Xô-viết. Đây chính là điều kiện, 
tiền đề tiên quyết để từ đó tiếp tục tạo 
lập các điều kiện, tiền đề cần thiết khác 
còn chưa có, hoặc chưa có đầy đủ cho 
việc quá độ lên CNXH. 
Thứ ba, quá độ lên CNXH của nước 
Nga thực chất là quá độ lên CNXH từ 
một nước TBCN riêng lẻ đơn độc, kém 
phát triển với nền sản xuất tiểu nông là 
phổ biến, bỏ qua giai đoạn phát triển cao 
của chế độ TBCN. Cho nên, nội dung 
quan trọng hàng đầu trong thời kỳ quá 
độ này không phải là thực hiện ngay 
bước chuyển trực tiếp lên CNXH, mà là 
xây dựng tiền đề, điều kiện đầy đủ cho 
bước chuyển này. Nhìn chung, bản thân 
tiền đề, điều kiện ấy chưa mang tính 
XHCN hoàn toàn, nhưng cũng không 
còn là TBCN thuần túy. Đó chỉ là những 
kết cấu TBCN đã bị tước bỏ vai trò chi 
phối và thống trị về chính trị - xã hội, 
được cải biến sâu sắc và kiểm soát chặt 
chẽ về kinh tế - xã hội, phát triển nhanh 
mạnh về kinh tế - kỹ thuật. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 46
Thứ tư, cho đến khi được giai cấp 
công nhân các nước tiên tiến giúp đỡ, thì 
nước Nga phải quyết tâm và kiên nhẫn 
đứng vững trong vòng vây của CNTB 
đế quốc thế giới. Nó phải vừa sẵn sàng 
đánh thắng mọi sự can thiệp, tấn công 
xâm lược quân sự, đồng thời vừa khôn 
khéo, linh hoạt tranh thủ khai thác, tận 
dụng mọi mối quan hệ kinh tế, thương 
mại với những nước TBCN tiên tiến. Về 
nội dung thứ hai trong đường lối quốc tế 
này của V.I.Lênin, thì Liên Xô và các 
nước XHCN qua nhiều thập niên sau 
này (1924 - 1991) về cơ bản đã không 
thực hiện được hoàn toàn đầy đủ và hiệu 
quả. Nguyên nhân chủ yếu ở đây là, hơn 
lúc nào hết kể từ khi “bóng ma CNCS”, 
chủ nghĩa Mác - Lênin xuất hiện, lúc 
này chính CNTB đế quốc phương Tây 
cũng đã thấy rõ những điều kiện, khả 
năng, con đường, phương cách để 
CNXH có thể ra đời, tồn tại, phát triển 
và đi tới thắng lợi từ các nước tiền 
TBCN, hoặc TBCN chưa phát triển cao. 
Do nguyên nhân đó cho nên trong 
gần suốt thế kỷ XX, đối với các nước 
XHCN mà trường hợp tiêu biểu là Việt 
Nam, chúng đã tổ chức nhiều đợt tấn 
công quân sự xâm lược trực tiếp khốc 
liệt; tiến hành cuộc “chiến tranh lạnh” 
và chiến lược “diễn biến hòa bình” dai 
dẳng, hiểm độc, dựng “bức màn sắt” 
bao vây, phong tỏa, cấm vận ngặt 
nghèo về kinh tế, khoa học, kỹ thuật, 
công nghệ. Thậm chí cho đến tận ngày 
nay, Cu Ba và Cộng hòa Dân chủ Nhân 
dân Triều Tiên, một số nước dân tộc 
độc lập theo xu hướng tiến bộ, cách 
mạng vẫn đang phải tiếp tục chịu đựng 
sự “trừng phạt” đó. Tất cả những hành 
động trên đều nhằm mục tiêu là kiềm 
chế, bóp nghẹt các nước XHCN trong 
tình trạng lạc hậu, nghèo nàn, dốt nát 
vĩnh viễn, kể cả bị “đẩy lùi về thời kỳ 
đồ đá”. Điều đó gây ra cho các nước 
XHCN tình trạng căng thẳng, khó khăn, 
thiếu thốn kéo dài, tương tự như hoàn 
cảnh của nước Nga Xô-viết những năm 
1918 - 1921, khi thi hành “chính sách 
CNCS thời chiến”. Chính sách “CNCS 
thời chiến” này không phải là “giáo 
điều, tả khuynh” như một số ý kiến 
đánh giá giản đơn, một chiều. Thực ra 
nó chính là giải pháp duy nhất đúng 
đắn, cần thiết tất yếu cho một tình hình 
chính trị, quân sự, đối ngoại, kinh tế cụ 
thể đương thời của đất nước. Chính 
sách ấy chỉ trở thành sai lầm khi bị duy 
trì, áp dụng kéo dài quá giới hạn của 
những điều kiện thực tế đã làm nảy sinh 
ra nó; tức là tình trạng khẩn cấp, thời 
chiến đã được giải tỏa, bối cảnh tình 
hình trong nước và quốc tế đã thay đổi 
cơ bản. 
Thứ năm, giai đoạn quá độ gián tiếp 
phải thực hiện đầu tiên và trong một thời 
gian rất lâu dài. Nó diễn ra trước bước 
quá độ trực tiếp chỉ có thể có ở cuối thời 
kỳ quá độ lên CNXH. Với điểm xuất 
phát cụ thể đã nêu, quá độ gián tiếp ấy 
của nước Nga Xô-viết sẽ khó khăn, 
phức tạp hơn nhiều so với quá độ lên xã 
hội phong kiến của người Giécmanh, 
cũng như so với quá độ lên xã hội 
CSCN của nước Nga mà C.Mác và 
Ph.Ăngghen giả định từ nửa cuối thế kỷ 
XIX. Trong tương quan và ý nghĩa như 
vậy, qua độ lên CNXH của nước Nga là 
Phát triển vượt cấp trong xã hội ... 
 47
quá độ gián tiếp hoàn toàn, hay quá độ 
“gián tiếp của gián tiếp”. Nội dung tổng 
quát của nó bao gồm: trước hết là bước 
quá độ từ xã hội phong kiến nửa TBCN 
với nền sản xuất tiểu nông còn phổ biến 
lên trình độ kinh tế - kỹ thuật cao nhất 
của CNTB, và cuối cùng là quá độ từ 
đỉnh điểm ấy của cơ sở vật chất - kỹ 
thuật, kinh tế - kỹ thuật TBCN lên xã 
hội XHCN. 
Thứ sáu, chính sách kinh tế mới 
(NEP), với nội dung toàn diện không chỉ 
về kinh tế và đối nội mà còn về chính trị 
và đối ngoại, chính là biểu hiện tập 
trung, cụ thể, đầy đủ và rõ ràng của tư 
tưởng “tiền đề của tiền đề”, thực hiện 
quá độ “gián tiếp của gián tiếp” nêu 
trên. Đó cũng là đường lối của nước 
Nga Xô-viết độc lập tự chủ quá độ lên 
CNXH từ xã hội tiểu nông phong kiến 
nửa tư bản, bỏ qua giai đoạn phát triển 
cao của chế độ TBCN. 
4. Thực tiễn chủ nghĩa xã hội trên 
thế giới 
Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga 
năm 1917 đến nay, công cuộc xây dựng 
CNXH ở các nước XHCN có nội dung 
cơ bản, thực chất là tiến trình quá độ lên 
CNXH bỏ qua chế độ TBCN hoặc giai 
đoạn phát triển cao của nó. Tiến trình ấy 
mở đầu thời đại quá độ từ CNTB lên 
CNXH trên toàn thế giới, đã đạt được 
những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch 
sử. Tiến trình quá độ bỏ qua này vẫn 
đang tiếp tục được đẩy mạnh với nhiều 
kết quả tích cực, quan trọng. 
Từ những năm 1989-1991 tại các 
nước XHCN Đông Âu và Liên Xô trước 
đây, tiến trình trên bị gián đoạn. Tuy 
nhiên, cả tiến trình đó ở các nước XHCN 
còn lại lẫn thời đại vẫn đang tiếp diễn với 
bản chất không thay đổi. Không những 
thế, tính đặc thù của giai đoạn đầu (tiến 
trình quá độ bỏ qua) của thời đại càng trở 
nên rõ rệt, đậm nét hơn trước. Do vậy, lý 
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về quá độ 
bỏ qua nói chung, trực tiếp là quá độ lên 
CNXH bỏ qua chế độ TBCN nói riêng, 
càng trở nên có ý nghĩa lý luận - thực 
tiễn to lớn và tính thời sự cấp thiết. 
CNXH ở các nước XHCN Đông Âu 
và Liên Xô trước đây sụp đổ do nhiều 
nguyên nhân cơ bản quan trọng. Một 
trong số đó là, việc lý luận trên đã vừa 
không được thực hiện đầy đủ, vừa 
không được tiếp tục bổ sung, phát triển 
ở mức độ cần thiết ngang tầm với tinh 
thần sáng tạo của chính nó. Điều này 
biểu hiện ở các điểm sau: 
Thứ nhất, thời kỳ quá độ tại đây không 
những không được nhìn nhận một cách 
đúng đắn là thời kỳ quá độ bỏ qua, mà 
còn bị cắt giảm, đơn giản hóa, đồng nhất 
theo hướng lạc quan và chủ quan thành 
CNXH, CNXH phát triển chín muồi, 
thậm chí đã bắt đầu quá độ trực tiếp lên 
CNCS. Vấn đề này ở đây liên quan không 
phải đến thuật ngữ định danh, mà đúng 
hơn là thực chất nội hàm khái niệm và nội 
dung, lập trường tư tưởng. 
Thứ hai, một số kết cấu, quan hệ kinh 
tế - xã hội XHCN được xác lập chưa có 
cơ sở đầy đủ, vững chắc và còn mang 
tính hình thức. 
Thứ ba, chưa hình thành được những 
thể chế, cơ chế chính trị - xã hội mới 
mẻ, sáng tạo, hiệu quả để phát triển dân 
chủ XHCN và phát huy quyền làm chủ 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 48
của người lao động. 
Thứ tư, nhân tố TBCN ở bên trong, 
một mặt không được tận dụng, khuyến 
khích đúng mức về kinh tế. Nhưng mặt 
khác, nó lại không được chi phối, kiểm 
soát chặt chẽ về chính trị, tư tưởng, văn 
hóa, xã hội, để cuối cùng đã trỗi dậy 
phục hồi, phục thù và trở thành chế độ 
thống trị theo phương cách dường như 
hết sức đột ngột, bất ngờ. 
Thứ năm, đối với CNTB đế quốc bên 
ngoài, thì tuy các nước XHCN đã đánh 
thắng mọi cuộc tấn công quân sự xâm 
lược, nhưng chưa khắc phục được một 
cách hiệu quả chiến lược bao vây, phong 
tỏa của chúng. Vì thế CNXH đã tiếp nhận 
được không đáng kể những thành tựu 
khoa học - công nghệ và nguồn lực kinh 
tế - kỹ thuật tiên tiến của nhân loại tập 
trung tại các nước TBCN phương Tây. 
5. Thực tiễn chủ nghĩa xã hội ở 
Việt Nam 
Từ lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin 
và chủ nghĩa yêu nước chân chính, từ 
thực tế đất nước và thế giới đầu thế kỷ 
XX, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ 
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện 
đã sớm nắm bắt được nội dung, tính 
chất, xu hướng cơ bản của thời đại mới 
từ sau Cách mạng tháng Mười Nga năm 
1917, là thời đại quá độ từ CNTB lên 
CNXH trên toàn thế giới bao hàm cả 
khả năng mang tính hiện thực trực tiếp 
bỏ qua chế độ TBCN. Ngay từ những 
năm 1930, Đảng ta đã xác định: sau khi 
thực hiện thành công cuộc đấu tranh giải 
phóng dân tộc, cách mạng Việt Nam sẽ 
chuyển ngay sang thời kỳ quá độ lên 
CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Đường 
lối này đã được phát triển ngày càng đầy 
đủ, sâu sắc, thể hiện trong Cương lĩnh, 
Nghị quyết Đại hội và Hội nghị Trung 
ương từ trước đến nay của Đảng. Nó đã 
được thực hiện nhất quán, toàn diện và 
đạt nhiều kết quả to lớn quan trọng trên 
miền Bắc từ năm 1954, trên cả nước từ 
năm 1975, nhất là trong thời kỳ đổi mới 
từ năm 1986 đến nay. 
Đường lối đổi mới của Đảng ta chính 
là đường lối thực hiện mục tiêu, nhiệm 
vụ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ 
TBCN trong tình hình mới, với những 
nội dung chính sau: 
Thứ nhất, từ sau ngày 30/4/1975, nhất 
là từ sau năm 1990 trở đi, đất nước vẫn 
còn phải tiến hành hai cuộc chiến tranh 
biên giới, nhưng đã ra khỏi tình trạng 
thời chiến, khẩn cấp, hoặc tình hình chủ 
yếu là như vậy. 
Thứ hai, từ những năm 1989 - 1991 
phe XHCN không còn, các nước XHCN 
còn lại cũng không tạo thành một hệ 
thống thế giới liên minh, liên kết toàn 
diện về chính trị, tư tưởng, quân sự, kinh 
tế như trước. Việt Nam ở trong hoàn 
cảnh gần tương tự như nước Nga Xô-
viết, sau đó là Liên Xô những năm 1917 - 
1945 đơn độc đi lên CNXH. Ngoài ra, 
nước ta hoàn toàn chưa có được những 
cơ sở vật chất - kỹ thuật, kinh tế - kỹ 
thuật lớn mạnh đáng kể cả về tương đối 
lẫn tuyệt đối, cũng như không bao giờ 
có được vị thế cường quốc hay siêu 
cường thế giới như nước Nga từ thời Sa 
hoàng sang thời Xô-viết đến nay. 
Thứ ba, xác lập cơ sở vật chất - xã 
hội, tức là hệ thống những quan hệ, tổ 
chức, cơ cấu, hình thức, phương thức 
Phát triển vượt cấp trong xã hội ... 
 49
mới tiến bộ phù hợp của CNXH về kinh 
tế - xã hội, chính trị - xã hội thích ứng 
với điều kiện vật chất - kỹ thuật, kinh tế - 
kỹ thuật cụ thể của đất nước. 
Thứ tư, sử dụng hợp lý một số nhân 
tố không chỉ về kinh tế - kỹ thuật, mà cả 
về kinh tế - xã hội của tư bản trong và 
ngoài nước, trước hết nhằm cải tạo nền 
sản xuất nhỏ lạc hậu tiền TBCN. 
Thứ năm, sử dụng cơ chế thị trường 
và phát triển nền kinh tế thị trường định 
hướng XHCN. 
Thứ sáu, tranh thủ mặt tích cực của 
toàn cầu hóa để tiếp nhận nguồn lực vật 
chất - kỹ thuật, kinh tế - kỹ thuật, khoa 
học - công nghệ tiên tiến của các nước 
TBCN phát triển. Nhưng đây là một quá 
trình không phải là tuyệt đối khách 
quan, mà do CNTB hiện đại thời “hậu 
chiến tranh lạnh” chi phối, chủ đạo. 
Trên thực tế và về bản chất, toàn cầu 
hóa lồng ghép một chiến lược mới của 
CNTB. Vì vậy, tuy mang tính hình thức 
dường như trái ngược với chiến lược bao 
vây, phong tỏa trước đây, song thật ra nó 
vẫn nhằm đạt tới những mục tiêu không 
thay đổi của CNTB đế quốc thế giới. Đó 
là đẩy lùi, tiêu diệt CNXH; trở thành nô 
dịch theo phương cách cả mới lẫn cũ của 
các nước dân tộc độc lập; phân hóa và 
làm suy yếu, tan rã phong trào công nhân 
trong phạm vi từng quốc gia, dân tộc 
cũng như trên quy mô quốc tế. 
Các nước XHCN ngày nay buộc phải 
một mặt là, vượt qua thử thách không 
kém phần nặng nề, khốc liệt của cuộc 
chiến mới không tiếng súng ấy mà 
không thể lẩn tránh hay cự tuyệt nó, mặt 
khác là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi 
nguy cơ Đảng và Nhà nước suy thoái, 
thoái hóa, biến chất đi đến kết cục tan 
rã, sụp đổ. Chỉ khi giải quyết tốt những 
yêu cầu và nhiệm vụ đó, thì các nước 
này mới có thể thu hút, tiếp nhận được 
nguồn lực vật chất - kỹ thuật, kinh tế - 
kỹ thuật, khoa học - công nghệ lớn 
mạnh, tiên tiến của nhân loại hiện đại 
tập trung chủ yếu ở các nước phương 
Tây, để thực hiện thành công sự phát 
triển xã hội vượt cấp và quá độ bỏ qua 
chế độ TBCN lên CNXH. 
Thứ bảy, chủ động, tích cực nắm bắt 
và vận dụng những thành tựu của cuộc 
cách mạng khoa học - công nghệ hiện 
đại và nên kinh tế tri thức trên thế giới, 
nhờ đó phát triển nhanh mạnh cơ sở vật 
chất - kỹ thuật, kinh tế - kỹ thuật của 
nền sản xuất và nền kinh tế XHCN. 
Thứ tám, tất cả những việc trên đều 
nhằm khắc phục, xóa bỏ tình trạng lạc 
hậu và tụt hậu của các xã hội tiền 
TBCN, hoặc TBCN chưa phát triển cao. 
Đồng thời, chính trong tiến trình này, 
cũng như thông qua tiến trình đó mà 
từng bước xây dựng, phát triển ngày 
càng mạnh mẽ, vững chắc cơ sở vật chất - 
xã hội, kinh tế - kỹ thuật, khoa học - 
công nghệ của toàn bộ nền sản xuất và 
đời sống xã hội của XHCN hiện thực. 
Tài liệu tham khảo 
1. C.Mác và Ph. Ăngghen (2002), Toàn tập, 
tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 
2. V.I.Lênin (1998), Toàn tập, tập 45, Nxb 
Tiến bộ, Matxcơva. 
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn 
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, 
Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9 (70) - 2013 
 50

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_vuot_cap_trong_xa_hoi_lich_su_logic_va_thuc_tien.pdf