Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (Học phần I)

CHƯƠNG MỞ ĐẦU (1 tiết)

NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CÓ BẢN CỦA

CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN

I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN

1. Chủ nghĩa Mác- Lênin và ba bộ phận cấu thành

1.1. Khái niệm chủ nghĩa Mác-Lênin

Chủ nghĩa Mác- Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của

C.Mác, Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I. Lênin; được hình thành và phát triển trên

cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại; là thế giới

quan, phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là

khoa học về sự nghiệp giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp

bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.

1.2. Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin

Chủ nghĩa Mác-Lênin được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản, có mối

quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, đó là: Triết học Mác-Lênin, Kinh tế chính

trị Mác-Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học

pdf 49 trang phuongnguyen 3200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (Học phần I)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (Học phần I)

Bài giảng Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (Học phần I)
1TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
 BÀI GIẢNG
 Môn học: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN
 CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
 (HỌC PHẦN I)
 Giảng viên biên soạn: Huỳnh Kim Hoa
 Phạm Thị Minh Lan
Quảng Ngãi, tháng 5/2015
2CHƯƠNG MỞ ĐẦU (1 tiết)
NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CÓ BẢN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
I. KHÁI LƯỢC VỀ CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN
1. Chủ nghĩa Mác- Lênin và ba bộ phận cấu thành
1.1. Khái niệm chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác- Lênin “là hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của 
C.Mác, Ph.Ăngghen và sự phát triển của V.I. Lênin; được hình thành và phát triển trên 
cơ sở kế thừa những giá trị tư tưởng nhân loại và tổng kết thực tiễn thời đại; là thế giới 
quan, phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là 
khoa học về sự nghiệp giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp 
bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.
1.2. Ba bộ phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác-Lênin
Chủ nghĩa Mác-Lênin được cấu thành từ ba bộ phận lý luận cơ bản, có mối 
quan hệ thống nhất biện chứng với nhau, đó là: Triết học Mác-Lênin, Kinh tế chính 
trị Mác-Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học.
Triết học Mác-Lênin là bộ phận lý luận nghiên cứu những quy luật vận động, 
phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy; xây dựng thế giới quan và 
phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
Kinh tế chính trị Mác-Lênin nghiên cứu những quy luật kinh tế của xã hội, đặc 
biệt là những quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển, suy tàn của phương thức 
sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự ra đời, phát triển của phương thức sản xuất Cộng sản 
chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là kết quả tất nhiên của sự vận dụng thế giới quan, 
phương pháp luận Triết học và Kinh tế chính trị Mác-Lênin vào việc nghiên cứu làm 
sáng tỏ những quy luật khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa - bước 
chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và tiến tới chủ nghĩa cộng 
sản.
Ngày nay, có thể có nhiều học thuyết với lý tưởng nhân đạo về giải phóng giai 
cấp, giải phóng nhân nhân dân lao động và giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc 
lột nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin mới là học thuyết khoa học nhất, chắc chắn 
nhất và chân chính nhất để thực hiện lý tưởng ấy.
2. Khái lược sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin
2.1. Những điều kiện, tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác
2.1.1. Điều kiện kinh tế-xã hội
Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ 
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên 
nền tảng của cuộc cách mạng công nghiệp. Điều này, làm thay đổi sâu sắc cục diện xã 
hội. Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản đã dẫn đến sự bùng nổ hàng loạt 
cuộc đấu tranh của công nhân chống lại chủ tư bản ở Anh, Pháp, Đức. Đó là những 
3bằng chứng lịch sử thể hiện giai cấp vô sản đã trở thành một lực lượng chính trị độc 
lập, tiên phong trong cuộc đấu tranh cho nền dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội.
Sự thất bại của giai cấp vô sản trong các cuộc đấu tranh giai cấp đã đặt ra yêu 
cầu khách quan là nó phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời 
là sự đáp ứng yêu cầu khách quan đó; đồng thời chính thực tiễn cách mạng đó cũng trở 
thành tiền đề thực tiễn cho sự khái quát và phát triển không ngừng lý luận của chủ 
nghĩa Mác.
2.1.2.Tiền đề lý luận
Chủ nghĩa Mác ra đời còn là kết quả của sự kế thừa tính hoa di sản lý luận của 
nhân loại, đó là triết học cổ điển Đức; kinh tế chính trị cổ điển Anh; chủ nghĩa xã hội 
không tưởng Pháp.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là triết học của G.W.Ph.Hêghen và L.Phoiơbắc
đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận triết học 
của chủ nghĩa Mác. Trên cơ sở phê phán tính chất duy tâm, thần bí trong phép biện 
chứng của Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa để xây dựng nên phép biện 
chứng duy vật.
Chắt lọc những yếu tố khoa học trong lý luận về giá trị lao động và những tư 
tưởng tiến bộ của các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh, C.Mác đã giải quyết những bế 
tắc mà bản thân các nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh đã không thể vượt qua được để 
xây dựng nên lý luận về giá trị thặng dư, luận chứng khoa học về bản chất bóc lột của
chủ nghĩa tư bản và nguồn gốc kinh tế dẫn đến sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư 
bản cũng như sự ra đời tất yếu của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng thể hiện đậm nét tinh thần nhân đạo, phê phán 
mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản. Song, chủ nghĩa xã hội không tưởng đã không luận chứng 
được một cách khoa học về bản chất, không phát hiện được quy luật phát triển của chủ 
nghĩa tư bản và cũng không nhận thức được vai trò, sứ mệnh của giai cấp công nhân.
Tuy nhiên, tinh thần nhân đạo và đặc trưng của xã hội tương lai đã trở thành một trong 
những tiền đề lý luận quan trọng cho sự ra đời của lý luận khoa học về chủ nghĩa xã 
hội trong chủ nghĩa Mác.
2.1.3.Tiền đề khoa học tự nhiên
Những thành tựu khoa học tự nhiên là những tiền đề, luận cứ và những minh 
chứng khẳng định tính đúng đắn về thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa 
Mác.
Quy luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, thuyết tiến hoá và thuyết tế bào là
những thành tựu khoa học bác bỏ tư tưởng duy siêu hình và quan điểm thần học về vai 
trò của Đấng Sáng tạo; khẳng định tính đúng đắn của quan điểm duy vật biện chứng về 
thế giới vật chất là vô cùng, vô tận, tự tồn tại, tự vận động, tự chuyển hoá; khẳng định 
tính khoa học của tư duy biện chứng trong nhận thức và thực tiễn.
Như vậy, sự ra đời của chủ nghĩa Mác là hiện tượng hợp quy luật; nó vừa là sản 
phẩm của tình hình kinh tế - xã hội đương thời, của tri thức nhân loại, vừa là kết quả 
của năng lực tư duy và tinh thần nhân văn của những người sáng lập ra nó.
2.2 C.Mác, Ph.Ăngghen với quá trình hình thành và phát triển chủ nghĩa Mác
4Giai
đoạn
C. Mác
và
Ăngghen
xây
dựng
phát
triển
triết
học
của
mình
2.3. Lênin với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới
Những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển 
sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Bản chất bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tư bản 
ngày càng bộc lộ rõ nét; mâu thuẫn giai cấp giữa vô sản và tư sản ngày càng sâu sắc
Trong giai đoạn này, khoa học tự nhiên phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh 
vực vật lý học. Điều này đã làm cho một số nhà khoa học tự nhiên rơi vào tình trạng 
khủng hoảng về thế giới quan, do bấp bênh về phương pháp luận triết học duy vật. Sự 
khủng hoảng này bị chủ nghĩa duy tâm lợi dụng, gây ảnh hưởng trực tiếp đến nhận 
thức và hành động của các phong trào cách mạng.
Đây cũng là thời kỳ chủ nghĩa Mác được truyền bá rộng rãi vào nước Nga. Để 
bảo vệ địa vị và lợi ích của giai cấp tư sản, những trào lưu tư tưởng như chủ nghĩa kinh 
nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại, v.v đã mang danh đổi mới 
chủ nghĩa Mác để xuyên tạc và phủ nhận chủ nghĩa Mác.
Trong bối cảnh như vậy, thực tiễn mới đặt ra nhu cầu phải thực hiện cuộc đấu 
tranh lý luận để chống sự xuyên tạc và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác trong điều 
kiện lịch sử mới.
Hoạt động của Lênin đã đáp ứng được nhu cầu lịch sử này.
- Vai trò của V.I. Lênin đối với việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác :
Quá trình V.I. Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác có thể chia thành 3 
thời kỳ: 
1) Thời kỳ từ 1893 đến 1907: V.I. Lênin tập trung chống phái dân tuý. Thể hiện 
trong một loạt tác phẩm “Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh 
chống những người dân chủ - xã hội ra sao? ” (1894), “Làm gì?” (1920), “Hai 
sách lược của đảng dân chủ- xã hội trong cách mạng dân chủ” (1905).
2) Thời kỳ từ 1907 đến 1917: Đây là những năm trong nghiên cứu vật lý học diễn 
ra cuộc khủng hoảng về thế giới quan..V.I.Lênin đã tổng kết toàn bộ thành tựu 
184
2
-
184
184
4
-
184
184
9
-
189
C. Mác hoạt động ở
báo sông Ranh
Thực tiễn ở Pháp
và Anh
C. Mác và Ph. Ăngghen
chuyển từ
CNDT sang CNDVBC
từ DCCM sang CNCS.
Từ thực tiễn phong 
trào đấu tranh của giai
cấp vô sản ở các nước
tư bản Tây Âu.
Đưa lý luận vào phong
trào GCVS và tổng kết
kinh nghiệm thực tiễn
C. Mác, Ph. Ăngghen
bổ sung, phát triển
CNDVBC và 
CNDVLS
C. Mác, Ph. Ăngghen 
đề xuất các nguyên lý 
của CNDVBC và
CNDVLS
5khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; tổng kết những sự kiện lịch 
sử giai đoạn này để viết tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm 
phê phán (1909). Với định nghĩa kinh điển về vật chất, mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, những nguyên tắc cơ bản 
của nhận thức, v.v.., V.I. Lênin đã không chỉ bảo vệ rất thành công mà còn phát 
triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới. Điều này còn thể hiện trong tác phẩm 
Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác (1913), về phép biện 
chứng trong Bút ký triết học (1914- 1916), về nhà nước chuyên chính vô sản, 
bạo lực cách mạng, vai trò của Đảng Cộng sản và con đường xây dựng chủ 
nghĩa xã hội trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng (1917), v.v
3) Thời kỳ từ 1917(Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga thành công) 
đến 1924 Lênin từ trần): Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công 
mở ra một thời đại mới - thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã 
hội trên phạm vi toàn cầu. Sự kiện này làm nảy sinh những nhu cầu mới về lý 
luận mà thời C.Mác về Ph.Ăngghen chưa được đặt ra. V.I. Lênin đã tổng kết 
thực tiễn cách mạng của quần chúng nhân dân, tiếp tục bảo vệ phép biện chứng 
mácxit, đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa chiết trung, thuyết ngụy 
biện đồng thời phát triển chủ nghĩa Mác về nhân tố quyết định thắng lợi của 
một chế độ xã hội, về giai cấp, về hai nhiệm vụ cơ bản của giai cấp vô sản, về 
chiến lược và sách lược của các Đảng vô sản trong điều kiện lịch sử mới, về 
thời kỳ quá độ, về kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chính sách kinh tế 
mới (NEP), v.v qua một loạt tác phẩm nổi tiếng như: Bệnh ấu trĩ “tả 
khuynh” trong phong trào cộng sản (1920), Lại bàn về công đoàn, về tình hình 
trước mắt và về những sai lầm của các đồng chí Tơrốtxki và Bukharin(1921), 
Về chính sách kinh tế mới (1921), Bàn về thuế lương thực (1921),v.v
Với những cống hiến to lớn ở cả ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác, tên 
tuổi của V.I. Lênin đã gắn liền với chủ nghĩa Mác, đánh dấu bước phát triển toàn diện 
của chủ nghĩa Mác và trở thành chủ nghĩa Mác- Lênin.
2.4 Chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn phong trào cách mạng thế giới
Chủ nghĩa Mác ra đời đã ảnh hưởng lớn lao đến phong trào cộng sản và công 
nhân quốc tế. Cuộc cách mạng tháng 3 năm 1871 ở Pháp có thể coi là sự kiện kiểm 
nghiệm vĩ đại đối với tư tưởng của chủ nghĩa Mác. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân 
loại, một nhà nước kiểu mới - nhà nước chuyên chính vô sản (Công xã Pari) được 
thành lập.
Tháng Tám năm 1903, Chính đảng vô sản đầu tiên của giai cấp vô sản được xây 
dựng theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác- Đảng Bônsêvích Nga. Đảng đã lãnh đạo cuộc 
cách mạng 1905 ở Nga như thực hiện một cuộc diễn tập đối với sự nghiệp lâu dài của 
giai cấp vô sản.
Tháng Mười năm 1917, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản 
thắng lợi mở ra một kỷ nguyên mới cho nhân loại, chứng minh tính hiện thực của chủ 
nghĩa Mác- Lênin trong lịch sử.
6Năm 1919 Quốc tế cộng sản được thành lập; năm 1922 Liên bang cộng hoà xã 
hội chủ nghĩa Xôviết ra đời đánh dấu sự liên minh giai cấp vô sản trong nhiều quốc 
gia. Với sức mạnh của liên minh, công cuộc chống phát xít trong chiến tranh thế giới 
thứ hai đã đưa chủ nghĩa xã hội phát triển ra ngoài Liên Xô), hình thành nên cộng 
đồng các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô dẫn đầu, với các thành viên như: Mông 
Cổ, Ba Lan, Rumani, Hunggari, Việt nam, Tiệp Khắc, Nam Tư, Anbani, Bugari, Cộng 
hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Cộng hoà dân chủ nhân dân Đức, Trung Quốc, 
CuBa. Sự kiện này đã làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là hệ thống duy nhất mà 
song song tồn tại là một hệ thống chính trị xã hội đối lập với nó cả về bản chất và mục 
đích hành động.
Những sự kiện trên đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công 
nhân toàn thế giới; thức tỉnh, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng của nhân 
dân các nước thuộc địa. Vai trò định hướng của chủ nghĩa Mác- Lênin đã đem lại 
những thành quả lớn lao cho sự nghiệp vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ 
xã hội.
Song, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nên từ cuối những năm 
80 của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa bị khủng hoảng và rơi vào giai đoạn thoái 
trào. Nhưng ngay cả khi hệ thống xã hội chủ nghĩa bị khủng hoảng và rơi vào giai 
đoạn thoái trào thì tư tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại trên phạm vi toàn cầu; quyết 
tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội vẫn được khẳng định ở nhiều quốc gia và 
chiều hướng đi theo con đường xã hội chủ nghĩa vẫn lan rộng ở các nước khu vực Mỹ 
Latinh.
Đặc điểm của thời đại ngày nay là sự biến đổi nhanh chóng và đa dạng các mặt 
của đời sống xã hội do cách mạng khoa học – công nghệ đem lại. Thế nhưng, cho dù 
xã hội biến đổi nhanh chóng và đa dạng đến đâu thì bản chất của phương thức sản 
xuất tư bản chủ nghĩa vẫn không thay đổi. Chính vì vậy, để bảo vệ thành quả của chủ 
nghĩa xã hội; để có những bước phát triển vượt bậc trong sự nghiệp giải phóng con 
người thì việc bảo vệ, kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin và đổi mới công cuộc 
xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành vấn đề cấp bách trên cả phương diện lý luận và 
thực tiễn.
Công cuộc đổi mới ở nước ta do Đảng ta phát động và lãnh đạo không có nghĩa 
là từ bỏ mà là nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư 
tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững sự lãnh đạo của Đảng; kiên trì mục tiêu chủ nghĩa xã 
hội; nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh 
phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta và bối cảnh thế giới hiện nay. 
II. ĐỐI TƯỢNG, MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU VỀ PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP, 
NGHIÊN CỨU MÔN HỌC “ NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC- LÊNIN”
1. Đối tượng và mục đích của việc học tập nghiên cứu
- Đối tượng của việc học tập, nghiên cứu môn học “Những nguyên lý cơ bản của 
chủ nghĩa Mác- Lênin” là những quan điểm cơ bản, nền tảng và mang tính chân lý bền 
vững của chủ nghĩa Mác- Lênin trong phạm vi ba bộ phận lý luận cấu thành nó.
7- Mục đích của việc học tập, nghiên cứu môn học “ Những nguyên lý cơ bản của 
chủ nghĩa Mác- Lênin” là:
+ Nắm vững quan điểm khoa học, cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác 
Lênin.
+ Hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đường 
lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học và vận dụng sáng tạo 
những nguyên lý đó trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, hiểu rõ nền tảng tư tưởng 
của Đảng
+ Học tập, nghiên cứu Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin là để 
xây dựng niềm tin, lý tưởng cách mạng, rèn luyện tu dưỡng đạo đức, đáp ứng yêu cầu 
của con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất ...  đến sự phân hóa những người sản xuất hàng 
hóa trong nội bộ cộng đồng xã hội. 
3.5.1.3. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội 
có đối kháng giai cấp
- Khái niệm đấu tranh giai cấp: 
Theo Lênin, khái niệm đấu tranh giai cấp dùng để chỉ “cuộc đấu tranh của 
quần chúng bị tướt hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc 
lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê 
hay những người vô sản chống lại những người hữu sản hay giai cấp tư sản”
Thực chất của đấu tranh giai cấp là nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn lợi ích 
kinh tế và chính trị xã hội giữa giai cấp thống trị và bị thống trị ở những phạm vi và 
mức độ khác nhau.
- Vai trò của đấu tranh giai cấp:
+ Trong xã hội có sự đối kháng giai cấp, thông qua đấu tranh giai cấp, mâu thuẫn 
giữa hai mặt của phương thức sản xuất, tức là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và 
quan hệ sản xuất được giải quyết dẫn tới sự ra đời của phương thức sản xuất mới cao 
hơn. 
+ Đấu tranh giai cấp còn là sức ép buộc giai cấp thống trị phải thường xuyên đổi 
mới cách thức quản lý sản xuất, ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản 
xuất và đồng thời cải tạo chính bản thân giai cấp cách mạng. Chính vì vậy làm cho lực 
lượng sản xuất ngày càng phát triển. 
+ Sự phát triển của xã hội chỉ có thể được thực hiện thông qua những cuộc đấu 
tranh giai cấp nhằm giải quyết những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế và 
chính trị - xã hội
Như vậy, trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp thì đấu tranh giai cấp đã 
trở thành cơ chế chính trị - xã hội để giải quyết mâu thuẫn trong phương thức sản xuất, 
thực hiện nhu cầu khách quan của sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đấy sự 
phát triển của xã hội. Do đó, đấu tranh giai cấp vừa là động lực vừa là phương thức 
của sự tiến bộ và phát triển xã hội
3.5.2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có 
đối kháng giai cấp
3.5.2.1. Khái niệm cách mạng xã hội và nguyên nhân của nó 
Khái niệm cách mạng xã hội và khái niệm cải cách xã hội
Cách mạng xã hội được hiểu theo hai nghĩa:
- Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính bước ngoặt và căn bản 
về chất trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xh, là phương thức chuyển từ một hình 
45
thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội mới ở trình độ phát triển 
cao hơn. 
- Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời 
và thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn của giai cấp cách mạng.
Khái niệm cách mạng xã hội khác với khái niệm cải cách, khác với khái niệm 
đảo chính:
- Cải cách là khái niệm dùng để chỉ những cuộc cải biến diễn ra trên một hay 
một số lĩnh vực của đời sống xã hội, trong phạm vi một hình thái kinh tế - xã hội, 
nhằm hoàn thiện hình thái kinh tế - xã hội đó.
- Đảo chính là khái niệm dùng để chỉ những sự biến tranh giành địa vị quyền 
lực nhà nước giữa các lực lượng chính trị (thường trong cùng một giai cấp) và với chủ 
trương không thay đổi bản chất chế độ hiện thời.
Nguồn gốc của cách mạng xã hội:
Nguyên nhân sâu xa của cách mạng xã hội là từ mâu thuẫn gay gắt trong bản 
thân nền sản xuất vật chất của xã hội, tức là mâu thuẫn giữa nhu cầu khách quan của 
sự phát triển lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi 
thời mà không một cuộc cải cách kinh tế hay chính trị nào giải quyết được. Biểu hiện 
về mặt chính trị xã hội của mâu thuẫn đó là đấu tranh giai cấp, đẫn đến bùng nổ các 
cuộc cách mạng xã hội
Nguyên nhân chủ quan là sự phát triển nhận thức và tổ chức của giai cấp cách 
mạng, tức giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, từ đó tạo ra 
phong trào đấu tranh giai cấp từ tự phát đến tự giác và khi có sự kết hợp chín muồi của 
các nhân tố khách quan và chủ quan, tức tạo được thời cơ cách mạng thì khi đó tất yếu 
cách mạng sẽ bùng nổ.
3.5.2.2. Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự vận động, phát triển của xã hội 
có đối kháng giai cấp
- Cách mạng xã hội giữ vai trò là phương thức, động lực của sự phát triển xã 
hội. Không có những cuộc cách mạng xã hội trong lịch sử thì không thể diễn ra quá 
trình thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng một hình thái kinh tế - xã hội khác 
cao hơn.
Với ý nghĩa đó, cách mạng xã hội cũng là động lực thúc đẩy cho xã hội phát 
triển. Chính nhờ những cuộc cách mạng xã hội mà các mâu thuẫn cơ bản trong các 
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, của đời sống xã hội được giải quyết triệt để, 
từ đó tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Đồng thời, cách mạng 
xã hội còn là nhân tố phát huy cao độ năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân.
3.6. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và vai trò sáng 
tạo lịch sử của quần chúng nhân dân
3.6.1. Con người và bản chất của con người
3.6.1.1. Khái niệm con người
Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất 
biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
46
Tiền đề vật chất đầu tiên qui định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con 
người chính là giới tự nhiên, vì vậy bản tính tự nhiên phải là một trong những 
phương diện cơ bản của con người, loài người. 
- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau đây:
+ Con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Điều 
này đã được khoa học tự nhiên chứng minh, đặc biệt là học thuyết Darwin về sự 
tiến hóa của các loài.
+ Con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng 
là thân thể vô cơ của con người. Do đó, những biến đổi của giới tự nhiên và tác 
động của qui luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên qui định sự tồn tại 
của con người và xã hội người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người 
và giới tự nhiên; ngược lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người luôn 
tác động trở lại môi trường tự nhiên, làm biến đổi môi trường đó. 
- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ các giác độ sau đây:
+ Xét từ giác độ nguồn gốc hình thành thì con người còn có nguồn gốc xã hội 
của nó. Đó chính là lao động. Nhờ lao động mà con người có khả năng vượt qua 
loài động vật để tiến hóa và phát triển thành người. Đây là một trong những phát 
hiện mới của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhờ đó mà có thể hoàn chỉnh học thuyết về 
nguồn gốc loài người mà tất cả các học thuyết trong lịch sử đều chưa có lời giải 
đúng đắn và đầy đủ.
+ Xét từ giác độ tồn tại và phát triển của con người, loài người thì sự tồn tại 
của nó luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các qui luật xã hội. Xã hội biến 
đổi thì mỗi con người cũng do đó mà cũng có sự thay đổi tương ứng và ngược lại, 
sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. 
Như vậy, hai phương diện tự nhiên và xh của con người tồn tại trong tính thống 
nhất của nó, quy định lẫn nhau, nhờ đó, tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con 
người trong quá trình làm ra lịch sử.
3.6.1.2. Bản chất của con người 
- C.Mác: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá 
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những 
quan hệ xã hội”.
- Bản chất của con người được hình thành và bộc lộ trong những quan hệ xã hội.
- Bản chất của con người không cố định, bất biến mà sẽ thay đổi khi những quan 
hệ kinh tế, chính trị - xã hội biến đổi.
- Con người luôn gắn với những điều kiện hoàn cảnh lịch sử nhât định, trong hoạt 
động thực tiễn, con người tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo 
nhu cầu sinh tồn và phát triển thì con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính mình.
3.6.1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
47
Từ quan niệm khoa học của chủ nghĩa Mac-Lênin về con người có thể rút ra ý 
nghĩa phương pháp luận quan trọng sau đây:
Một là, để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người phải căn cứ cả
vào phương diện tự nhiên và phương diện xã hội, trong đó vấn đề có tính quyết định là 
phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế xã hội của nó.
Hai là, động lực cơ bản của tiến bộ và phát triển của xã hội là năng lực sáng tạo 
lịch sử của con người, vì vậy phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người là phát 
huy nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch 
sử của nó phải hướng vào việc giải phóng những quan hệ kinh tế xã hội. Trên cơ sở đó 
có thể khẳng định giá trị căn bản nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là ở mục tiêu 
xóa bỏ triệt để các quan hệ kinh tế xã hội áp bức, bóc lột nhằm giải phóng con người, 
phát huy cao nhất năng lực sáng tạo của con người, đưa con người tới sự phát triển tự 
do và toàn diện.
3.6.2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần 
chúng nhân dân và cá nhân
3.6.2.1. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần 
chúng nhân dân 
trong lịch sử
 Khái niệm quần chúng nhân dân
Khái niệm quần chúng nhân dân được dùng để chỉ bộ phận dân cư có 
cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm những giai cấp, những tầng lớp liên kết 
thành một tập thể (cộng đồng) dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, một tổ chức, 
một đảng phái nhằm giải quyết những nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực kinh 
tế, chính trị, văn hóa của xã hội của một thời đại nhất định.
Những lực lượng cơ bản tạo thành cộng đồng quần chúng nhân dân 
bao gồm:
+ Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần.
+ Bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với 
cộng đồng dân cư.
+ Những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt 
động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quần chúng nhân dân không phải là một cộng đồng bất biến mà trái lại, nó 
thay đổi cùng với sự biến đổi của những nhiệm vụ lịch sử ở mỗi thời đại, mỗi giai 
đoạn phát triển nhất định. Tuy nhiên, lực lượng cơ bản nhất của mỗi cộng đồng 
nhân dân chính là những con người lao động sản xuất ra của cải vật chất và tinh 
thần cho sự sinh tồn và phát triển của xã hội. 
 Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân trong lịch sử:
Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo 
chân chính ra lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử; do đó, lịch 
48
sử trước hết và căn bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả 
các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Vai trò chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của 
quần chúng nhân dân được phân tích từ ba giác độ sau đây:
Các nhà tư tưởng trước C.Mác đều không nhận thức đúng 
vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch 
sử và là lực lượng quyết định sự phát triển lịch sử, do đó lịch sử trước hết và căn bản 
là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống 
kinh tế xã hội.
Vai trò chủ thể sáng tạo lịch sử, quyết định tiến trình phát triển lịch sử của quần 
chúng nhân dân được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, 
trực tiếp tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người và 
xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị tinh thần của 
xã hội. Hoạt động của quần chúng nhân dân là cơ sở hiện thực và là cội nguồn phát 
sinh những sáng tạo văn hóa tinh thần của xã hội; mọi giá trị sáng tạo tinh thần dù qua 
phương thức nào thì cuối cùng cũng là để phục vụ hoạt động của quần chúng nhân 
dân, chỉ có ý nghĩa hiện thực khi được vật chất hóa bởi hoạt động thực tiễn của nhân 
dân.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của mọi cuộc 
cách mạng và cải cách trong lịch sử. Cách mạng xã hội hoặc cải cách xã hội chỉ có thể 
thành công nếu xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân thực 
hiện. Với ý nghĩa đó có thể nói: “cách mạng là ngày hội của quần chúng”, nhờ đó làm
cho lịch sử tiến được những bước dài.
3.6.2.2. Khái niệm cá nhân và vai trò của cá nhân trong lịch sử:
- Khái niệm cá nhân dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một cộng 
đồng xã hội nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua tính 
đơn nhất và tính phổ biến của nó. Theo quan niệm đó, mỗi cá nhân là một chỉnh thể 
thống nhất, vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, 
của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và 
chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Mỗi cá nhân, tùy theo vị trí, chức năng, vai trò và năng lực sáng tạo cụ thể của 
họ mà có thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra lịch sử của cộng đồng nhân dân. Theo 
ý nghĩa đó, mỗi cá nhân của cộng đồng nhân dân đều indấu ấn của mình vào quá trình 
sáng tạo ra lịch sử, dù mức độ và phạm vi có thể khác nhau.
Lãnh tụ và vai trò của lãnh tụ:
Lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quần chúng 
nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân.
49
Để trở thành lãnh tụ của nhân dân, được quần chúng nhân dân tín nhiệm, lãnh 
tụ phải là người có các phẩm chất sau:
- Có tri thức khoa học uyên bác, nắm được xu thế vận động, phát triển của lịch 
sử.
- Có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của 
quần chúng nhân dân.
- Gắn bó mật thiết với nhân dân, hy sinh vì lợi ích của nhân dân.
Lãnh tụ nhất là lãnh tụ ở tầm vĩ nhân có vai trò to lớn trong việc tập hợp, tổ 
chức, chỉ đạo phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Lãnh tụ xuất hiện và 
thực hiện vai trò của mình từ trong phong trào của quần chúng nhân dân.
Trong hoạt động thực tiễn cần có quan điểm biện chứng về vai trò của quần 
chúng nhân dân và vai trò của cá nhân. Không được tuyệt đối hóa vai trò của quần 
chúng nhân dân cũng như không được tuyệt đối hóa vai trò của cá nhân, của lãnh tụ.
Bất cứ một thời kỳ nào, một cộng đồng xã hội nào, nếu lịch sử đặt ra những 
nhiệm vụ cần giải quyết thì từ trong phong trào quần chúng tất yếu sẽ xuất hiện 
những lãnh tụ đáp ứng nhiệm vụ đó.
3.6.2.3. Ý nghĩa phương pháp luận.
Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng 
nhân dân và vai trò của các cá nhân đối với tiến trình lịch sử đã cung cấp một phương 
pháp luận khoa học quan trọng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Thứ nhất, lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định lịch sử của quần 
chúng nhân dân, chống những quan điểm sai trái của chủ nghĩa duy tâm đồng thời đem 
lại phương pháp luận khoa học trong việc nghiên cứu, đánh giá vai trò của cá nhân, 
của vĩ nhân, của lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.
Thứ hai, cung cấp phương pháp luận khoa học để các đảng cộng sản phân tích 
các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực lượng quần chúng nhân dân trong công 
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, tập hợp đông đảo lực lượng quần chúng nhân dân để 
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_nhung_nguyen_ly_co_ban_cua_chu_nghia_mac_lenin_hoc.pdf