Tình trạng dày thành tim và rối loạn chức năng tâm trương ở thai nhi có mẹ bị đái tháo đường
TÓM TẮT
Mục tiêu: So sánh bề dày thành tim và chức
năng tim ở thai nhi có mẹ bị ĐTĐ và mẹ không bị
ĐTĐ; Xác định mối tương quan giữa bề dày thành
tim thai với nồng độ HbA1C của mẹ.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên
cứu cắt ngang mô tả có đối chứng trên 100 bệnh
nhân, bao gồm: 34 thai phụ bị đái tháo đường thai
kì (ĐTĐTK), 10 thai phụ bị đái tháo đường mang
thai (ĐTĐMT) và 56 thai phụ bình thường. Các
biến số thu thập của mẹ bao gồm: tuổi thai phụ,
tuần thai, BMI trước khi mang thai và tại thời điểm
nghiên cứu, nồng độ Glucose máu, HbA1C. Các
biến số thu thập của con trên siêu âm tim bào thai
bao gồm: Bề dày thì tâm trương của thành bên thất
phải (TBTP), thành sau thất trái (TSTT), vách liên
thất (VLT), phân số rút ngắn sợi cơ (FS) và chỉ số
Tei mô thất trái.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình trạng dày thành tim và rối loạn chức năng tâm trương ở thai nhi có mẹ bị đái tháo đường
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG 69TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 Tình trạng dày thành tim và rối loạn chức năng tâm trương ở thai nhi có mẹ bị đái tháo đường Nguyễn Thị Duyên, Trương Thanh Hương Viện Tim mạch Việt Nam TÓM TẮT Mục tiêu: So sánh bề dày thành tim và chức năng tim ở thai nhi có mẹ bị ĐTĐ và mẹ không bị ĐTĐ; Xác định mối tương quan giữa bề dày thành tim thai với nồng độ HbA1C của mẹ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả có đối chứng trên 100 bệnh nhân, bao gồm: 34 thai phụ bị đái tháo đường thai kì (ĐTĐTK), 10 thai phụ bị đái tháo đường mang thai (ĐTĐMT) và 56 thai phụ bình thường. Các biến số thu thập của mẹ bao gồm: tuổi thai phụ, tuần thai, BMI trước khi mang thai và tại thời điểm nghiên cứu, nồng độ Glucose máu, HbA1C. Các biến số thu thập của con trên siêu âm tim bào thai bao gồm: Bề dày thì tâm trương của thành bên thất phải (TBTP), thành sau thất trái (TSTT), vách liên thất (VLT), phân số rút ngắn sợi cơ (FS) và chỉ số Tei mô thất trái. Kết quả: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi, tuần thai và BMI của mẹ giữa các nhóm trong nghiên cứu. Nhóm ĐTĐMT và ĐTĐTK có nồng độ Glucose máu cao hơn nhóm bình thường (7.84 và 5.50 với 4.42, p<0.005), trị số HbA1C trung bình của nhóm ĐTĐMT cao hơn nhóm ĐTĐTK (6.58 với 5.63, p= 0.004). Bề dày TSTT và VLT ở nhóm ĐTĐMT và ĐTĐTK cũng cao hơn hẳn nhóm còn lại ở thời điểm thai 28 – 33 tuần (p<0.001, 0.022), nhưng không có sự khác biệt tại thời điểm ≥ 34 tuần. Chỉ số Tei của nhóm ĐTĐMT và ĐTĐTK cao hơn nhóm bình thường ở cả 2 thời điểm nghiên cứu, (p< 0.001), trong khi chỉ số FS không khác biệt giữa các nhóm. Có mối tương quan đồng biến tuyến tính giữa bề dày TSTT, VLT của tim thai với nồng độ HbA1C của mẹ (r = 0.58, 0.62, p < 0.001). Kết luận: Nghiên cứu bước đầu cho thấy những thai nhi ở nhóm thai phụ bị ĐTĐ có tình trạng thành tim dày hơn hẳn những thai nhi không có mẹ bị ĐTĐ và sự bất thường này xuất hiện đồng đều ở cả TSTT và VLT. Cùng với sự biến đổi đó là sự giảm chức năng tim toàn bộ một cách có ý nghĩa thống kê mặc dù chức năng tâm thu vẫn bình thường. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra mối tương quan chặt chẽ giữa độ dày thành tim và chỉ số HbA1C ở cả hai thời điểm nghiên cứu của thai kỳ Từ khoá: Dày thành tim do ĐTĐ ở bào thai, ĐTĐ thai kì, ĐTĐ mang thai. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong thai kỳ, tình trạng tăng đường máu của mẹ không chỉ gây ra nhiều biến chứng cho mẹ mà còn là yếu tố nguy cơ cao cho bệnh tim mạch cấu trúc bào thai. Theo thống kê, ĐTĐTK chiếm tới 88% và tỉ lệ này ngày càng cao có thể tới 16% nhất là ở các nước NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG 70 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 đang phát triển, còn là ĐTĐ được chẩn đoán trước khi mang thai (ĐTĐMT) bao gồm ĐTĐ type 1 và type 2 chiếm tỷ lệ 4% và 8%. Với ĐTĐMT, đường máu cao của mẹ được coi là độc tố gây các dị tật tim bẩm sinh trong giai đoạn hình thành và phát triển phôi thai. Ngược lại với ĐTĐTK, đường máu của mẹ thường bắt đầu tăng từ giai đoạn muộn hơn, thường sau tuần thứ 12, nên ít gây dị tật thai, nhưng có nguy cơ cao gây tình trạng dày thành tim và mức độ nặng là phì đại cơ tim hay còn gọi là “ Bệnh lý cơ tim phì đại do ĐTĐ”[1]. “Bệnh lý cơ tim phì đại do ĐTĐ” lần đầu tiên được quan sát thấy ở một đứa trẻ sơ sinh của một bà mẹ bị ĐTĐ bởi Maron và cộng sự (Maron và cộng sự, 1978)[2]. Bệnh lý này được mô tả bởi tình trạng dày lên của các thành tim, hay gặp ở vách liên thất dẫn đến giảm khả năng giãn nở của tâm thất, rối loạn chức năng tâm trương hay suy tim toàn bộ. Trên hình ảnh mô bệnh học, có sự tăng kích thước nhân và số lượng tế bào cơ tim, các thớ cơ tim phì đại, xoắn vặn. Tình trạng phì đại này thường xuất hiện đơn độc, phần lớn các trường hợp sẽ tự thoái triển trong vòng 2-4 tuần đầu sau sinh, tuy nhiên cũng có một số trường hợp tiếp tục tồn tại đến tuổi thiếu nhi. Cơ chế gây “Bệnh lý cơ tim phì đại do ĐTĐ” vẫn còn nhiều tranh cãi. Một số nghiên cứu cho rằng tăng Insulin trong máu mạn tính có thế gây phì đại một số cơ quan chọn lọc có tính nhạy cảm với Insulin. Thiếu máu mạn tính cũng thường gặp ở bào thai của mẹ bị ĐTĐ do sự cung cấp không đủ của bánh nhau, làm kéo dài thời gian khuếch tán oxy giữa mẹ và thai dẫn đến tăng ức hemoglobin trong máu và tăng số lượng hồng cầu trong máu từ đó dẫn đến những thay đổi mất bù trong tuần hoàn thai [1,2]. Tỷ lệ phát hiện bệnh thay đổi, từ 12,1% chẩn đoán trên lâm sàng đến 25 -30% trên siêu âm tim thai, với mẹ bị ĐTĐ không được kiểm soát thì tỉ lệ này có thể lên tới 75%. Bệnh lý này có thể xuất hiện thoáng qua không biểu hiện triệu chứng gì, trẻ chỉ cần được theo dõi hoặc hỗ trợ chăm sóc, tuy nhiên có trường hợp biểu hiện suy tim cần được điều trị tích cực thậm chí tử vong. Vì vậy việc phát hiện sớm và theo dõi nhóm bệnh lý này ở bào thai có ý nghĩa quan trọng trong việc tiên lượng và cải thiện tỉ lệ sống còn của trẻ sơ sinh có mẹ bị ĐTĐ trong thai kỳ [3]. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu sử dụng kỹ thuật siêu âm tim thai để chẩn đoán tình trạng phì đại cơ tim ở bào thai cũng như đánh giá hậu quả lên chức năng tim thai ở mẹ bị ĐTĐ [2, 4]. Tuy nhiên, ở Việt Nam, chưa có một nghiên cứu nào như vậy được tiến hành. Vì vậy chúng thực hiện nghiên cứu này nhằm mục đích: - So sánh bề dày thành tim và chức năng tim ở thai nhi có mẹ bị ĐTĐ và mẹ không bị ĐTĐ. - Xác định mối tương quan giữa bề dày thành tim thai với nồng độ HbA1C của mẹ. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là những thai phụ đến khám và điều trị tại Khoa Sản và Khoa Nội tiết Bệnh viện Bạch Mai có đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ của nhóm nghiên cứu a. Tiêu chuẩn lựa chọn nhóm nghiên cứu: - Có tuần thai từ 24 tuần. - Đơn thai. - Đồng ý tham gia nghiên cứu, thai phụ cung cấp đầy đủ số điện thoại hoặc địa chỉ liên lạc. b. Tiêu chuẩn loại trừ của nhóm nghiên cứu - Về phía mẹ: + Đang mắc các bệnh có ảnh hưởng đến chuyển hoá đường + Đang mắc bệnh cấp tính: nhiễm khuẩn, lao phổi. + Đang sử dụng thuốc ảnh hưởng đến chuyển hoá đường - Về phía tim thai: có các bất thường như bệnh NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG 71TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 tim bẩm sinh, rối loạn nhịp, u tim, hình ảnh siêu âm tim thai mờ. Tiêu chuẩn phân loại nhóm bệnh và nhóm chứng của nhóm nghiên cứu. a. Tiêu chuẩn chọn nhóm bệnh: Được chẩn đoán ĐTĐMT hoặc ĐTĐTK theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Tổ chức Y tế thế giới (WHO/NMH/MND 2013)[6] b. Tiêu chuẩn chọn nhóm chứng Được làm nghiệm pháp dung nạp Glucose và được loại trừ ĐTĐMT và ĐTĐTK. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả có đối chứng Cỡ mẫu nghiên cứu Cỡ mẫu được lấy theo phương pháp thuận tiện theo thời gian Địa điểm và thời gian nghiên cứu Tại Bệnh viện Bạch Mai từ 2/2017 đến 7/2017. Biến số nghiên cứu - Biến số về đặc tính thai phụ: Tuổi mẹ, chỉ số BMI, Glucose lúc đói, HbA1C. - Các biến số trên siêu âm tim thai nhi: Bề dày thì tâm trương của TSTT, TBTP, VLT, chỉ số FS, Tei thất trái. Thiết bị nghiên cứu Máy siêu âm 2D, Doppler màu hiệu Philips. Đầu dò 2- 4MHz. Kỹ thuật siêu âm tim thai Thai phụ nằm ngửa, đầu hơi cao, hai chân duỗi thẳng, hai tay xuôi. Bộc lộ toàn bộ bụng và vùng trên khớp mu. Phần da tiếp xúc với đầu dò siêu âm được bôi gel dẫn âm. Máy siêu âm và người làm siêu âm ở phía phải của thai phụ. Cách cầm đầu dò siêu âm như kinh điển. - Đo trên siêu âm TM: ở mặt cắt 4 buồng với tia siêu âm vuông góc với VLT, qua bờ tự do của van 2 lá. Sơ đồ 1. Đo bề dày thành thất phải (D1), vách liên thất (D2) và thành sau thất trái(D3) - Đo chỉ số Tei thất trái trên siêu âm Doppler mô cơ tim Sơ đồ 2. Cách đo chỉ số Tei thất trái NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG 72 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 Sơ đồ 3. Quy trình nghiên cứu KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu Đặc điểm chung N. chứng (n=56) (1) N. ĐTĐMT (n=10) (2) N.ĐTĐTK (n=34) (3) P(1-2) P(1-3) P(2-3) Tuổi thai phụ (năm) 33.54 ± 3.61 34.66 ± 4.56 35.34 ± 5.44 0.78 0.54 0.46 Tuần thai (tuần) 32.53 ± 2.14 33.4 ± 3.3 33.44 ± 2.43 0.085 0.529 0..259 BMI trước mang thai 20.31 ± 2.12 24.82 ± 2.21 21.54 ± 3.21 0.883 0.052 0.276 BMI tại thời điểm nghiên cứu 24.59 ± 2.38 28.81 ± 2.11 25.74 ± 3.59 0.578 0.098 0.254 Glucose máu lúc đói(mmol/l) 4.42 ± 0.35 7.84 ± 1.57 5.50 ± 0.98 <0.001 <0.001 0.069 HbA1C(%) 6.58 ± 1.68 5.63 ± 0.67 0.004 Dựa trên tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân, nhóm nghiên cứu được chia thành 3 phân nhóm: nhóm chứng (n=56), nhóm bệnh nhân ĐTĐMT (n= 10) và nhóm ĐTĐTK (n=34). Bảng 1 cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi thai phụ, tuần thai, chỉ số BMI của mẹ trước khi mang thai cũng như tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu giữa 3 phân nhóm. Tuy nhiên, nồng độ Glucose lúc đói trong máu mẹ cao hơn đáng kể ở nhóm có ĐTĐ với p<0.05. Bên cạnh đó, nồng độ HbA1C ở nhóm ĐTĐMT cũng cao hơn hẳn nhóm ĐTĐTK (p= 0.004). NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG 73TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 So sánh bề dày thành tim và chức năng tim bào thai giữa các nhóm trong nghiên cứu. So sánh bề dày thành tim bào thai giữa các nhóm trong nghiên cứu. Bảng 2. So sánh bề dày thành tim giữa các nhóm trong nghiên cứu Tuổi thai 28 – 33 tuần Bề dày thành tim Nhóm chứng (n=42)(1) ĐTĐMT (n=4) (2) ĐTĐTK (n=14) (3) P(1-2) P(1-3) P(2-3) TSTT 3.04 ± 0.32 3.77 ± 0.98 3.48 ± 0.55 <0.001 0.022 0.099 VLT 3.10 ± 0.30 3.97 ± 0.73 3.57 ± 0.56 <0.001 0.001 0.322 TBTP 2.80 ± 0.31 3.05 ± 0.63 2.95 ± 0.76 0.09 0.56 0.59 VLT/TT 1.02 ± 0.07 1.07 ± 0.13 1.02 ± 0.06 0.053 0.945 0.074 Tuổi thai ≥ 34 tuần Bề dày thành tim Nhóm chứng (n=14) (1) ĐTĐMT (n=6) (2) ĐTĐTK (n=20) (3) P(1-2) P(1-3) P(2-3) TSTT 3.55 ± 0.38 4.30 ± 0.49 3.75 ± 0.57 0.394 0.129 0.677 VLT 3.57 ± 0.35 4.71 ± 0.53 3.84 ± 0.45 0.261 0.287 0.733 TBTP 3.21 ± 0.44 4.12 ± 0.54 3.75 ± 0.46 0.33 0.45 0.78 VLT/TT 1.00 ± 0.03 1.09 ± 0.13 1.03 ± 0.11 0.001 0.03 0.99 Kết quả trình bày trong bảng 2 cho thấy, TSTT và VLT thì tâm trương ở nhóm có ĐTĐ dày hơn hẳn nhóm không bị ĐTĐ ở thời điểm thai 28 -33 tuần cũng như có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tỉ lệ VLT/TT giữa 2 nhóm này ở thời điểm ≥ 34 tuần thai. Tuy nhiên bề dày TBTP không có sự khác biệt giữa các nhóm ở các thời kì. So sánh chức năng tim bào thai giữa các nhóm trong nghiên cứu Bảng 3. So sánh chức năng tim thai giữa các nhóm trong nghiên cứu Chức năng tim Nhóm chứng (n=42) (1) ĐTĐMT (n=4) (2) ĐTĐTK (n=14) (3) P(1-2) P(1-3) P(2-3) Tuổi thai 28 – 33 tuần FS 37.42 ± 6.55 39.50 ± 8.66 38.57 ± 5.77 0.852 0.547 0.625 SmVHL 3.83 ± 1.19 3.72 ± 0.22 3.7 ± 0.76 0.574 0.805 0.116 Tei thất trái 0.36 ± 0.035 0.57 ± 0.18 0.42 ± 0.021 <0.001 0.053 <0.001 Tuổi thai >= 34 tuần Chức năng tim Nhóm chứng (n=14) (1) ĐTĐMT (n=6) (2) ĐTĐTK (n=20) (3) P(1-2) P(1-3) P(2-3) FS 37.21 ± 5.19 44.3 ± 8.11 40.4 ± 6.79 0.315 0.346 0.77 SmVHL 3.75 ± 0.55 4.21 ± 0.66 3.93± 0.41 0.287 0.392 0.029 Tei thất trái 0.34 ± 0.03 0.57 ± 0.09 0.46 ± 0.06 <0.001 0.032 0.138 NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG 74 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 Để đánh giá chức năng tâm thu và tâm trương của bào thai, chúng tôi sử dụng chỉ số phân số co rút sợi cơ và Tei mô thất trái. Kết quả bảng 3 cho thấy, không có sự khác biệt về phân số tống máu thất trái giữa các nhóm trong nghiên cứu, tuy nhiên có sự giảm rõ của chức năng tâm trương ở nhóm có ĐTĐ so với nhóm chứng ở cả hai thời điểm nghiên cứu. Mối tương quan giữa bề dày thành tim và HbA1C Cơ chế gây dày thành tim bào thai ở mẹ bị ĐTĐ hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi, tuy nhiên nhiều nghiên cứu cho rằng, tình trạng kháng Insulin là một trong những cơ chế quan trọng. Đường máu mẹ càng cao, càng không được kiểm soát, biểu hiện bằng nồng độ HbA1C cao thì mức độ dày thành tim càng tăng lên. Kết quả trong Sơ đồ 4 và 5 cho thấy, có sự tương quan chặt giữ nồng độ HbA1C với bề dày TSTT và VLT thì tâm trương. Sơ đồ 4. PT tương quan giữa bề dày TSTT thì tâm trương với HbA1C Sơ đồ 5. PT tương quan giữa bề dày VLT thì tâm trương với HbA1C BÀN LUẬN Nhận xét đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu KQNC tại bảng 1 cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi thai phụ, tuần thai, chỉ số BMI của mẹ trước khi mang thai cũng như tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu giữa 3 phân nhóm với độ tuổi trung bình là 34 tuổi, tuần thai được nghiên cứu trung bình 33 tuần (do đây cũng là thời điểm thai phụ làm hồ sơ trước sinh). Tuy chỉ số BMI trung bình của nhóm thai phụ ĐTĐMT có cao hơn hai nhóm còn lại, song sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Độ tuổi trung bình của thai phụ trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự ng- hiên cứu của Sandra Ullmo và cs, nhưng chỉ số BMI trung bình lại thấp hơn [6] hay của tác giả Thái Thị Thanh Thuý vs cs [7]. KQNC cũng cho thấy nồng độ Glucose máu ở thai phụ bị ĐTĐ cao hơn hẳn hai nhóm còn lại với p<0.05 và nồng độ HbA1C ở nhóm ĐTĐMT cũng cao hơn nhóm ĐTĐTK (p= 0.004). Kết quả của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của Kafle và cs[5]. So sánh bề dày thành tim và chức năng tim bào thai giữa các nhóm trong nghiên cứu So sánh bề dày thành tim bào thai giữa các nhóm trong nghiên cứu Trong bào thai, trái tim thai nhi liên tục phát triển giống như các cơ quan khác [8]. Để loại bỏ sự ảnh hưởng của yếu tố này đến kết quả so sánh bề dày thành tim của 3 nhóm nghiên cứu, chúng tôi chia thành 2 thời điểm đánh giá: thời điểm thai từ 28 – 33 tuần và thời điểm từ 34 tuần trở lên. Kết NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG 75TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 quả trình bày trong bảng 2 cho thấy, bề dày TSTT và VLT thì tâm trương ở nhóm có ĐTĐ dày hơn hẳn nhóm không bị ĐTĐ ở thời điểm thai 28 -33 tuần, tuy nhiên không có sự khác biệt giữa hai nhóm ĐTĐMT và ĐTĐTK. Kết quả này cũng tương tự nghiên cứu của Chu chen vs cs trên 44 thai phụ bị ĐTĐ và 70 thai phụ bình thường [9]. Và trong nghiên cứu này, tác giả thấy rằng, sự khác biệt này vẫn thể hiện rõ ở thời điểm trên 34 tuần, tuy nhiên KQNC của chúng tôi lại cho thấy ở thời điểm quần thai này, bề dày VLT và TSTT ở nhóm bị ĐTĐ cao hơn không đáng kể so với nhóm bình thường. Điều này có thể do số bệnh nhân ĐTĐMT ở tuổi thai này trong nghiên cứu của chúng tôi còn ít và được kiểm soát đường máu sớm. Trong nghiên cứu của Gardiner và cs [10] và Palmieri và cs [11] cũng cho thấy có sự dày hơn đáng kể của thành tim ở nhóm ĐTĐMT so với nhóm bình thường, tuy nhiên chỉ quan sát thấy ở VLT. Trong nghiên cứu của Palmieri và cs cũng chỉ ra rằng, tình trạng phì đại cơ tim ở thai nhi có mẹ bị ĐTĐ có thể xuất hiện bất kể thành tim nào, tuy nhiên hay gặp ở VLT do tại đây có nhiều receptor nhận cảm Insulin hơn các vùng khác[11],[ 12]. Còn trong nghiên cứu của chúng tôi có sự dày hơn hẳn của cả VLT và TSTT tương tự nghiên cứu của Jaeggi ET và cs trên 294 thai phụ bị ĐTĐTK [13]. So sánh chức năng tim bào thai giữa các nhóm trong nghiên cứu Để đánh giá chức năng tâm thu bào thai, chúng tôi sử dụng chỉ số phân số tống máu thất trái. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng như của tác giả CHU [10] cho thấy không có sự khác biệt về phân số tống máu thất trái giữa các nhóm trong nghiên cứu, tuy nhiên kết quả trung bình chúng tôi đo được ở cả ba nhóm đều cao hơn so với tác giả trên. Theo sinh lý tuần hoàn thai nhi, tại thời điểm tam cá nguyệt thứ 2 và thứ 3 hệ tuần hoàn của thai nhi hoạt động mạnh hơn so với thời điểm tam cá nguyệt thứ nhất và trong nghiên cứu của Jaeggi và cs [13] còn cho thấy có sự tăng phân số tống máu tâm thu ở nhóm thai phụ có ĐTĐ sớm hơn và nhiều hơn nhóm bình thường do tình trạng tăng chuyển hoá, tăng nhu cầu oxy dẫn tới tái phân bố tuần hoàn thai nhi. Điều này cũng được ghi nhận trong nghiên cứu của tác giả Palmieri và cs [11]. Tei thất trái là một chỉ số siêu âm được áp dụng rộng rãi trong đánh giá chức năng toàn bộ cơ tim ở cả người lớn và trẻ em, tuy nhiên nhiều nghiên cứu gần đây cũng áp dụng chỉ số này ở thai nhi. Theo kết quả nghiên cứu của [9] và [14].]trị số Tei thất trái của nhóm có ĐTĐ cao hơn nhóm bình thường, điều này thể hiện sự giảm chức năng tim toàn bộ. Tác giả lý giải hiện tượng trên là do dưới tình trạng tăng cường chuyển hoá, mặc dù tim tăng sức bóp nhưng bị giảm khả năng đàn hồi thư giãn nên chức năng tâm trương giảm sớm và do đó chỉ số Tei sẽ tăng lên. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng thấy sự tăng rõ của chỉ số Tei ở nhóm có ĐTĐ so với nhóm bình thường. Bên cạnh đó, tại thời điểm 28 – 33 tuần, chỉ số Tei của nhóm ĐTĐMT cũng cao hơn đáng kể nhóm ĐTĐTK với p<0.001. Mối tương quan giữa phì đại thành tim với HbA1C Cơ chế gây dày thành tim bào thai ở mẹ bị ĐTĐ hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi, tuy nhiên nhiều nghiên cứu cho rằng, tình trạng kháng Insulin là một trong những cơ chế quan trọng và tình trạng đường máu mẹ càng cao, càng không được kiểm soát, biểu hiện bằng nồng độ HbA1C cao thì mức độ dày thành tim càng tăng lên. Kết quả trong sơ đồ 4 và 5 cho thấy, có sự tương quan chặt giữ nồng độ HbA1C với bề dày TSTT và VLT thì tâm trương. Điều này cũng được khẳng định trong nghiên cứu của tác Vela-Huerta MM [15] và Behlel và cs [16] Theo tác giả Cooper và cs, với sự tương quan chặt này, chỉ số HbA1C có thể là một chỉ điểm hữu NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG 76 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 ích trong tiên lượng nguy cơ phì đại cơ tim ở em bé có mẹ bị ĐTĐ [17]. KẾT LUẬN Nghiên cứu bước đầu cho thấy những thai nhi ở nhóm thai phụ bị ĐTĐ có tình trạng thành tim dày hơn hẳn những thai nhi không có mẹ bị ĐTĐ và sự bất thường này xuất hiện đồng đều ở cả TSTT và VLT. Cùng với sự biến đổi bất thường đó là sự giảm chức năng tim toàn bộ một cách có ý nghĩa thống kê mặc dù chức năng tâm thu vẫn bình thường. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra mối tương quan chặt chẽ giữa độ dày thành tim và chỉ số HbA1C ở cả hai thời điểm nghiên cứu của thai kỳ. Nghiên cứu còn bị hạn chế bởi số lượng đối tượng nghiên cứu còn ít nhất là những thai phụ bị ĐTĐ có đường máu lúc đói và HbA1C thực sự cao còn ít nên chưa đưa ra được mốc giá trị bất thường xác định thành tim bị phì đại. SUMMARY THE VENTRICULAR THICKNESS AND DIASTOLIC DYSFUNCTION IN FETAL HEART OF DIABETIC MOTHERS Objectives of the study: To compare cardiac wall thickness and cardiac function in fetuses with diabetes mothers (DM) and non-diabetic mothers (non-DM); Determine the correlation between fetal cardiac wall thickness and maternal HbA1C levels. Materials and Methods: A cross-sectional descriptive study of 100 pregnant patients, including 34 gestational diabetes (GDM), 10 pre-gestational diabetes (PGDM) and 56 normal objects. Maternal variables included maternal age, gestational age, BMI before pregnancy and at study time, blood glucose, HbA1C levels. The data on fetal echocardiography included: diastolic post left ventricular wall (PLVW), diastolic interventricular septal thickness (IVS), diastolic lateral right ventricular wall (LRVW), fraction shortening (FS) and left ventricular Tei index. Results: There were no statistically significant differences in maternal age, gestation and maternal BMI among study groups. Pregnant women with GDM and PGDM had significantly higher blood glucose concentrations than normal group (7.84 and 5.50 with 4.42, p <0.005). The average HbA1c was higher in the PGDM group than in the GDM group (6.58 vs. 5.63, p = 0.004). The PLVW in PGDM and GDM was also significantly higher than in the other group at 28-33 weeks (p <0.001, 0.022), but no difference at more than 34 weeks duration. Tei index of PGDM and GDM was higher than normal for both gestational study times, while the FS index which reflects left ventricular systolic function, there was no difference between groups in study. There were linear correlations between the PLVW and IVS of the fetal heart with maternal HbA1C levels. Conclusions: Preliminary studies have shown that fetuses in pregnant women with diabetes had a significantly thicker wall of fetal heart than non diabetes , and this finding appeared evenly in both PLVW and IVS. In addition to abnormal variability, there is a statistically significant reduction in overall cardiac function although systolic function remains normal. In addition, the study also showed a strong correlation between PLVW, IVS and HbA1C at both gestation stages of pregnancy. Keywords: Ventricular wall thickness, gestational diabetes, gestational diabetes. NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG 77TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sandra Ullmo, Yvan et al. Pathologic ventricular hypertrophy in the offspring of diabetic mothers: a retrospective study, European Heart Journal (2007) 28, 1319–1325 doi:10.1093/eurheartj/ehl416. 2. Michael J. Cooper et al, Asymmetric Septal Hypertrophy in Infants of Diabetes Mother. ADC – vol 146, February 1992. 3. Noirin E et al, Effect of pregestational diabetes mellitus on fetal cardiac function and structure, American Journal of Obstetrics & Gynecology SEPTEMBER 2008. 4. Kafle P, Ansari MA Khanal. Fetal Cardiac Interventricular Septal Thickness at 28–37 Weeks of Gestation in Nepalese Population . NJR / VOL 2 / No. 2/ ISSUE 3 / July-Dec, 2012. 5. Diagnostic Criteria and Classification of Hyperglycaemia First Detected in Pregnancy. WHO/NMH/ MND/13.2 – 2013. 6. Sandra Ullmo, et al. Pathologic ventricular hypertrophy in the offspring of diabetic mothers: a retrospective study, European Heart Journal (2007) 28, 1319–1325 doi:10.1093/eurheartj/ehl416. 7. Nghiên cứu tỉ lệ đái tháo đường thai kỳ theo tiêu chuẩn ADA năm 2011 và các yếu tố nguy cơ, Thái Thị Thanh Thuý, Nguyễn Khoa Diệu Vân, Tạp chí nghiên cứu y học 97(5) – 2015. 8. Salil Garg et al. Use of Fetal Echocardiography for Characterization of Fetal Cardiac Structure in Women With Normal Pregnancies and Gestational Diabetes Mellitus. 9. CHU Chen et al. The Impacts of Maternal Gestational Diabetes Mellitus (GDM) on Fetal Hearts. Biomed Environ Sci, 2012; 25(1): 15‐22. 10. Gardiner HM et al. Increased periconceptual maternal glycated haemoglobin in diabetic mothers reduces fetal long axis cardiac function. Heart, 2006; 92, 1125‐30. 11. Carolina Rossi Palmieri et al. Prevalence of Hypertrophic Cardiomyopathy in Fetuses of Mothers with Gestational Diabetes before Initiating Treatment. Rev Bras Ginecol Obstet Vol. 39 No. 1/2017. 12. Garg S et al. Use of fetal echocardiography for characterization of fetal cardiac struc- ture in women with normal pregnancies and gestational diabetes mellitus. J Ultrasound Med 2014;33(08):1365–1369. 13. Jaeggi ET, et al. Cardiac performance in uncomplicated and well‐controlled maternal type I diabetes. Ultrasound Obstet Gynecol, 2001; 17, 311‐5. 14. Maryam Moradian et al. Comparing Ventricular Function in Fetuses of Diabetic and Non-Diabetic Mothers Using . Doppler Imaging, Res Cardiovasc Med. 2016 November; 5(4):e31864. 15. Vela-Huerta MM et al. Asymmetrical septal hypertrophy in newborn infants of diabetic mothers. Am J Perinatol 2000;17(02):89–94 16. Behle I et al. Glycosylated hemoglobin levels and cardiac abnormalities in fetuses of diabetic mothers. Rev Bras Ginecol Obstet 1998;20(05):237–243 Portuguese. 17. Michael J. Cooper et al. Asymmetric Septal Hypertrophy in Infants of Diabetes Mother. ADC – Vol 146, February 1992.
File đính kèm:
- tinh_trang_day_thanh_tim_va_roi_loan_chuc_nang_tam_truong_o.pdf