Thực nghiệm và đánh giá quá trình cacbonat hoá cưỡng bức vật liệu bê-Tông cốt thực vật

Tóm tắt: Có thể nhận thấy tiềm năng của việc

sử dụng phế phẩm nông nghiệp trong chế tạo các

loại vật liệu nhẹ không chịu tải, khai thác các biểu

hiện tính chất cách âm, cách nhiệt. Trong nghiên

cứu này, chúng tôi sử dụng vỏ trấu làm thành phần

cốt liệu kết hợp với nền kết dính là vôi tôi và meta

cao-lanh để chế tạo sản phẩm bê-tông cốt thực vật.

Dự kiến các khảo sát đánh giá trên mẫu bê-tông

thực vật gồm: phân tích thành phần, vi cấu trúc

cũng như đặc trưng cơ lý. Ngoài ra, thí nghiệm đánh

giá tác động của việc bảo dưỡng mẫu trong môi

trường cacbonat hóa cưỡng bức cũng được thiết kế

và bố trí thực hiện. Kết quả thu được khi bảo dưỡng

ở điều kiện nồng độ CO2 4% rất khả quan khi xét

đến các chỉ tiêu cơ lý, từ đó có thể dự đoán được

hiệu quả sử dụng của loại bê-tông cốt thực vật vỏ

trấu nếu được đưa vào thực tế

pdf 7 trang phuongnguyen 8920
Bạn đang xem tài liệu "Thực nghiệm và đánh giá quá trình cacbonat hoá cưỡng bức vật liệu bê-Tông cốt thực vật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực nghiệm và đánh giá quá trình cacbonat hoá cưỡng bức vật liệu bê-Tông cốt thực vật

Thực nghiệm và đánh giá quá trình cacbonat hoá cưỡng bức vật liệu bê-Tông cốt thực vật
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
48 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2017 
 THỰC NGHIỆM VÀ ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH CACBONAT HOÁ 
CƯỠNG BỨC VẬT LIỆU BÊ-TÔNG CỐT THỰC VẬT 
ThS. NGUYỄN NGỌC TRÍ HUỲNH, KS. TRẦN ANH TÚ, TS. NGUYỄN KHÁNH SƠN 
Đại học Bách khoa Tp. Hồ Chí Minh (HCMUT) 
Tóm tắt: Có thể nhận thấy tiềm năng của việc 
sử dụng phế phẩm nông nghiệp trong chế tạo các 
loại vật liệu nhẹ không chịu tải, khai thác các biểu 
hiện tính chất cách âm, cách nhiệt. Trong nghiên 
cứu này, chúng tôi sử dụng vỏ trấu làm thành phần 
cốt liệu kết hợp với nền kết dính là vôi tôi và meta 
cao-lanh để chế tạo sản phẩm bê-tông cốt thực vật. 
Dự kiến các khảo sát đánh giá trên mẫu bê-tông 
thực vật gồm: phân tích thành phần, vi cấu trúc 
cũng như đặc trưng cơ lý. Ngoài ra, thí nghiệm đánh 
giá tác động của việc bảo dưỡng mẫu trong môi 
trường cacbonat hóa cưỡng bức cũng được thiết kế 
và bố trí thực hiện. Kết quả thu được khi bảo dưỡng 
ở điều kiện nồng độ CO2 4% rất khả quan khi xét 
đến các chỉ tiêu cơ lý, từ đó có thể dự đoán được 
hiệu quả sử dụng của loại bê-tông cốt thực vật vỏ 
trấu nếu được đưa vào thực tế. 
Từ khóa: bê-tông thực vật, vỏ trấu, meta cao-
lanh, cacbonat hoá 
Abstract: Recent studies show the potential of 
using agricultural by-products as aggregates for 
lightweight concretes. This bio-based aggregate 
concrete or also called as agro-concrete can be 
used as non-load-bearing element in building with 
regards to performance of thermal and acoustic 
insulation. In this paper, rice husk aggregate was 
mixed with lime-based binder and metakaolin. 
Concrete samples were produced and performed 
component analysis, structural analysis and 
mechanical resistance. In addition, we invesitgated 
the effect of the carbonation reaction on the global 
properties of the sample by using an designed 
accelerated carbonation testing chamber. The level 
of carbonation reaction in the cacbonation test 
chamber controls the initial concentration of CO2 
(4%) show significant improvement of compressive 
strength at early age. From this, we could envisage 
some perspective of pratical production of this type 
of concrete. 
Keywords: bio-based aggregate concrete, agro-
concrete, rice husk, metakaolin, carbonation 
1. Tổng quan 
Có thể nói ý tưởng sử dụng thực vật làm cốt liệu 
cho bê-tông đã được các nhà khoa học quan tâm từ 
rất sớm. Phần nhiều các công bố khoa học đã tập 
trung khai thác đặc điểm thổ nhưỡng, cây trồng, 
nguyên liệu thực vật cũng như mục đích sử dụng 
tùy thuộc đặc điểm khí hậu theo khu vực địa lý ở 
các nước trên thế giới. Điển hình như ở Pháp và 
một số nước châu Âu, bã gai dầu (hemp shives) 
đang được sử dụng chế tạo bê-tông nhẹ làm vách 
cách nhiệt bảo ôn cho công trình [1]. Hoặc như ở 
Mã-Lai thuộc khu vực Đông Nam Á, vốn nổi tiếng 
sản xuất dầu cọ và dừa, phế thải dạng hạt và sợi 
cũng được sử dụng làm cốt liệu cho bê-tông xi-
măng hay bê-tông xi-măng vôi [2]. Cốt liệu thực vật 
có một ưu điểm hiếm có là tính tự nhiên và không 
phát thải thậm chí phát thải âm khí gây hiệu ứng 
nhà kính do đặc điểm sinh trưởng của thực vật là 
hút khí CO2 và thải ra khí O2. Do đó khi kết hợp cốt 
thực vật với vật liệu kết dính từ vôi cũng là thành 
phần nhìn chung có tính không phát thải khí gây 
hiệu ứng nhà kính nhờ chu trình kín khử cacbonat – 
cacbonat hoá của vôi có thể xem là đáp ứng rất tốt 
với tiêu chí vật liệu xây dựng thân thiện với môi 
trường phù hợp mục tiêu phát triển xây dựng bền 
vững hiện nay. Hơn nữa, ngoài đặc điểm cách 
nhiệt, cách âm tốt, một ưu điểm nữa của vật liệu bê-
tông cốt thực vật khi sử dụng trong vách tường 
công trình xây dựng là đặc điểm vi khí hậu, đó là 
khả năng có thể hút – xả ẩm, lọc sạch không khí 
góp phần điều hoà, kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm tạo 
sự thoái mái cho người sử dụng công trình [3–6]. 
Khả năng tiến hành phản ứng cacbonat hoá để liên 
tục phát triển cường độ theo thời gian cũng phù hợp 
với phương thức hấp thụ cacbon (CO2 
sequestration) của nền sản xuất đi kèm mục tiêu 
không phát thải hiện nay. 
Ở Việt Nam, chúng ta cũng có một nền nông 
nghiệp lâu đời và phát triển phong phú. Khai thác 
nguồn phế phẩm nông nghiệp lớn này làm cốt liệu 
thực vật cũng đã được các nhà nghiên cứu quan 
tâm như công bố của [7]. Tuy nhiên do ưu tiên sử 
dụng xi-măng làm thành phần kết dính nên hạn chế 
của những nghiên cứu này vẫn là tính nhẹ và phần 
nào chưa phù hợp sử dụng làm vật liệu vách. Gần 
đây, nhóm nghiên cứu chúng tôi đã tiếp cận cách 
thức nghiên cứu vật liệu bê-tông cốt thực vật sử 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2017 49 
dụng vôi làm chất kết dính chính theo như xu 
hướng của thế giới để sản xuất một vật liệu thực sự 
“xanh” và không gây phát thải. Gần đây, công bố 
nghiên cứu [8] của chúng tôi tập trung vào khảo sát 
hệ vỏ trấu vôi và các đặc trưng cơ lý của vật liệu 
theo dõi theo thời gian trải qua quá trình cacbonat 
hoá tự nhiên. Kết quả đo giá trị hệ số dẫn nhiệt xấp 
xỉ 0,27 W/m.K của mẫu bê-tông vỏ trấu ứng với giá 
trị khối lượng thể tích từ 800-900kg/m3. Đây là cơ 
sở để khai thác tính cách nhiệt và cách âm của vật 
liệu này như cách thức ứng dụng loại bê-tông gai 
dầu trên thế giới. Tuy nhiên, ngoài ưu điểm về tính 
dẻo dễ tạo hình kiểu đầm lèn thì dùng vôi làm thành 
phần kết dính chính, chúng tôi còn gặp hạn chế về 
tính co khô khi tháo khuôn bảo dưỡng, dễ gây biến 
dạng, cong vênh mẫu. Ngoài ra quá trình phát triển 
độ bền chịu nén của mẫu bê-tông thực vật còn 
chậm do đặc điểm phản ứng cacbonat hoá rất 
chậm, điều này cũng ảnh hưởng đến khả năng tạo 
hình sản phẩm. 
Trong nghiên cứu lần này, chúng tôi sẽ trình bày 
khắc phục hai hạn chế trên đây đối với sản phẩm 
bê-tông thực vật vỏ trấu. Theo đó meta cao-lanh 
được chúng tôi dự kiến sử dụng làm thành phần 
phụ gia khoáng hoạt tính puzơlanic khi kết hợp với 
vôi ở giai đoạn sau khi tạo hình trong khuôn. Ngoài 
ra, hệ thống thí nghiệm buồng cacbonat hoá cưỡng 
bức (nồng độ %CO2, độ ẩm) cũng được thiết kế chế 
tạo nhằm kích thích quá trình bảo dưỡng cacbonat 
hoá tạo cường độ chịu lực cho sản phẩm. Các kết 
quả khảo sát thành phần, tính chất cơ lý của mẫu 
bê-tông thực vật vỏ trấu trong hai trường hợp: mẫu 
đối chứng với chất kết dính vôi và bảo dưỡng không 
khí và mẫu cải tiến với chất kết dính vôi-meta cao-
lanh và bảo dưỡng buồng cacbonat hoá cưỡng bức 
sẽ được đối sánh và nhận xét. 
2. Thành phần nguyên liệu và chế tạo mẫu bê -
tông cốt thực vật 
Các nguyên liệu sau được sử dụng: vôi tôi từ 
Công ty TNHH Nhật Mỹ Phát, meta cao-lanh nghiền 
mịn từ cao-lanh Lâm Đồng, vỏ trấu khô. 
Trên cơ sở tiếp nối nghiên cứu trước đây, 
chúng tôi đề xuất sử dụng cấp phối thành phần 
nguyên liệu như sau (bảng 1) để khảo sát chế tạo 
mẫu bê-tông thực vật. 
Bảng 1. Cấp phối mẫu bê-tông thực vật, tính cho 1m3 bê-tông 
Vôi (kg) Meta cao-lanh (kg) Trấu* (kg) N/KD** 
975 418 209 0,7 
**Lượng N/KD được tính bằng nước/tổng lượng 
chất kết dính vôi và meta cao-lanh. 
Việc lựa chọn cốt liệu vỏ trấu bên cạnh các ưu 
thế về khối lượng lớn, dễ kiếm và dễ nhào trộn, còn 
nhiều lý do khác, trong đó có phần của vỏ trấu. Vỏ 
trấu có hàm lượng xen-lu-lô-zơ cao, đây là thành 
phần bền kiềm. 
Thông thường, bê-tông thực vật có thể được sử 
dụng ở hai dạng tạo hình thành viên blốc hoặc để 
dạng vữa phun điền đầy vào cốp pha vách. Ở thí 
nghiệm này, chúng tôi chọn cách tạo hình đúc mẫu 
bê-tông cốt thực vật trong khuôn lập phương 
70x70x70mm. Quy trình chế tạo mẫu bê-tông cốt 
thực vật được tiến hành theo các bước mô tả trong 
sơ đồ hình 1. Theo đó, để thuận lợi cho quá trình 
trộn đều hỗn hợp cấp phối trong cối, cốt liệu vỏ trấu 
được cho ngâm nước trước sau đó vớt ra để trong 
không khí cho ráo bề mặt rồi mới tiến hành trộn 
cối.Sau khi nhào trộn đều ở tốc độ cao trong cối 
hành tinh, lần lượt cho hỗn hợp vào khuôn theo 
từng lớp 20mm, và được đầm bằng chày gỗ tiết 
diện 17x17mm. Quá trình đổ từng lớp được thực 
hiện như vậy cho đến khi đầy khuôn và mẫu được 
làm bằng mặt. 
Hình 1. Quy trình chế tạo các mẫu bê-tông cốt thực vật 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
50 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2017 
Sau khi tạo hình xong, mẫu được tiếp tục lưu 
trong khuôn trong vòng 1 ngày, để nơi không khí 
tính không có gió nhằm hạn chế mất nước nhanh 
trên bề mặt gây nứt. Sau đó cẩn thận tháo khuôn 3 
mặt và tiếp tục để yên bảo dưỡng không di chuyển 
mẫu nhằm hạn chế mẫu bị biến dạng. Các mẫu sau 
1 tuần được kí hiệu, phân thành hai nhóm, một 
nhóm bảo dưỡng tự nhiên trong không khí (mẫu đối 
chứng) và một nhóm trong buồng cacbonat hóa 
cưỡng bức (mẫu cải tiến). 
Hình 2. Các mẫu bê-tông cốt thực vật bảo dưỡng trong môi trường không khí 
Các mẫu bê-tông cốt thực vật sau khi tháo 
khuôn ít bị biến dạng, nứt vỡ ở các cạnh và 
góc (hình 2). Có thể thấy vai trò của meta 
cao-lanh bổ sung trong thành phần chất kết 
dính tạo cường độ sớm đảm bảo khả năng tạo 
hình đúc khuôn mẫu bê-tông thực vật. Đây là 
điểm chúng tôi khắc phục được hạn chế về 
khả năng tạo hình của nghiên cứu công bố 
trước đây [8] khi chỉ sử dụng vôi làm chất kết 
dính chính. 
3. Thiết kế và chế tạo buồng bảo dưỡng mẫu 
trong điều kiện cacbonat hoá cưỡng bức 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2017 51 
Hình 3. Chế tạo hệ thống thực nghiệm buồng cacbonat hóa cưỡng bức 
Với hệ thống cacbonat hóa cưỡng bức, khí CO2 
từ bình khí nén được đưa vào buồng hòa trộn 
(buồng 1) với lưu lượng 1 lít/phút và áp suất trong 
van lưu lượng duy trì ở mức 2kPa nhằm giảm thất 
thoát khí trong buồng. Nồng độ CO2 trong buồng đạt 
mức 4% yêu cầu sau khoảng thời gian 1 phút 30 
giây bơm khí. Lúc này, quạt thông khí được mở để 
ổn định nồng độ, nhiệt độ và độ ẩm. Đồng thời, khí 
CO2 đã ổn định được đẩy qua ống thông khí sang 
buồng chứa mẫu (buồng 2). Khi hệ thống đã ổn 
định, quạt tắt, mẫu bên trong bắt đầu quá trình hấp 
thụ CO2. Hệ thống thực nghiệm đã được chế tạo và 
tiến hành thử với các mẫu bê-tông cốt thực vật 
70x70x70mm. Sau một thời gian đưa vào buồng, 
giá trị nồng độ CO2 bắt đầu giảm do bị mẫu hấp thụ. 
Đến mức giới hạn nhất định, CO2 tiếp tục được bổ 
sung thêm vào buồng thông qua hệ thống van xả 
nhằm duy trì quá trình cacbonat hóa cưỡng bức. 
Nhiệt độ bên trong hệ thống được duy trì ổn định ở 
mức nhiệt độ phòng. Các mẫu trong buồng 
cacbonat được chia thành hai nhóm. Một nhóm 
trong điều kiện độ ẩm không khí bình thường và 
nhóm còn lại trong điều kiện độ ẩm cao, được kiểm 
soát trong khoảng 70%-90% bằng dung dịch muối 
bão hòa. Cường độ chịu nén của các mẫu bê-tông 
cốt thực vật cũng được đánh giá bằng máy nén bê-
tông MATEST C071, tốc độ gia tải 0,5kN/giây. Mức 
độ cacbonat hóa được đánh giá qua phân tích trực 
quan bằng chất chỉ màu; phân tích thành phần 
khoáng XRD và phổ hồng ngoại FTIR. 
4. Kết quả thực nghiệm 
4.1 Tính chất nhiệt lý 
Để đánh giá mẫu bê-tông cốt thực vật, các tính 
chất nhiệt lý được xác định thông qua đánh giá khối 
lượng thể tích và độ dẫn nhiệt. Khối lượng thể tích 
khô các mẫu bê-tông cốt thực vật trung bình đạt 
970kg/cm3. Cấp phối sử dụng kết hợp meta cao-
lanh trong nghiên cứu này cho kết quả mẫu đặc 
chắc hơn so với chỉ sử dụng vôi [8] (trung bình 
880kg/cm3), thể hiện ở khối lượng thể tích cao. Hệ 
số dẫn nhiệt của các mẫu bê-tông cốt thực vật sử 
dụng vỏ trấu đạt xấp xỉ 0,53±0,3W/m.K. Mức độ dẫn 
nhiệt phụ thuộc nhiều vào hàm lượng cũng như loại 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
52 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2017 
cốt liệu thực vật trong cấp phối. Hàm lượng cốt liệu 
thực vật càng cao, khối lượng thể tích của bê-tông 
càng giảm, độ dẫn nhiệt cũng giảm tương ứng. Khi 
tăng hàm lượng vỏ trấu từ 15 lên 20%, hệ số dẫn 
nhiệt giảm xuống 0,41±0,4W/m.K. 
4.2 Cường độ chịu nén
Hình 4. Phát triển cường độ chịu nén mẫu bê-tông cốt thực vật theo thời gian 
Cường độ chịu nén của mẫu bê-tông cốt thực 
vật bảo dưỡng trong buồng cacbonat hoá cưỡng 
bức tăng cao hơn mẫu bê-tông bảo dưỡng ở điều 
kiện trong môi trường không khí. Điều này cho thấy 
tác động của quá trình cacbonat hoá diễn ra làm 
tăng cường cường độ chịu nén của mẫu. Bên cạnh 
đó, trong điều kiện độ ẩm cao (85%), cường độ chịu 
nén các mẫu đạt giá trị cao hơn so với trường hợp 
bảo dưỡng trong môi trường độ ẩm không khí thông 
thường. Ở giai đoạn sớm ngày, các mẫu còn mềm, 
mức độ kháng lực chưa cao, cường độ chịu nén 
của các mẫu ít chênh lệch. Tuy nhiên, khi thời gian 
bảo dưỡng càng dài, sự chênh lệch cường độ giữa 
nhóm mẫu bảo dưỡng trong điều kiện tự nhiên với 
nhóm mẫu trong buồng cacbonat hóa cưỡng bức 
càng thể hiện rõ rệt. 
Hình 3. Đường cong thực nghiệm tải trọng – thời gian của các mẫu bê-tông cốt thực vật 
trong điều kiện bảo dưỡng tự nhiên và cacbonat hóa cưỡng bức 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2017 53 
Có thể thấy trên biểu đồ hình 3, các mẫu bê-
tông cốt thực vật trải qua các giai đoạn ứng xử cơ 
học chính như sau: chịu tải định hình ban đầu - chịu 
tải cao hơn - sắp xếp lại trạng thái mới - vỏ trấu bị 
ép, tải trọng tác dụng tăng lên đến cực đại - tiếp tục 
chịu tải sau khi mẫu bị biến dạng. Trong cả hai 
trường hợp bảo dưỡng, các mẫu đều không thể 
hiện tính giòn như bê-tông thường mà biểu hiện 
kiểu ứng xử compozit kết dính - vỏ trấu có tính dai, 
sau khi bị nén ép, cấu trúc lớp trấu được bên trong 
xếp chặt. Do đó, lực tác dụng tăng lên cho đến khi 
mẫu bị biến dạng. Sau khi biến dạng, mẫu lại sắp 
xếp trạng thái mới tiếp tục chịu lực đến khi bị phá 
huỷ. Với trường hợp bảo dưỡng trong điều kiện của 
buồng cacbonat cưỡng bức, giá trị chịu tải của mẫu 
cao hơn so với bảo dưỡng tự nhiên. Khoảng biến 
dạng (hình 3) thể hiện tính dẻo dai của mẫu bị thu 
hẹp lại, tuy nhiên ở mức không đáng kể. Quá trình 
cacbonat hóa cưỡng bức làm tính chất các mẫu bê-
tông cốt thực vật phát triển theo chiều hướng tăng 
độ cứng và biểu hiện tính giòn. Điều này được thể 
hiện qua sự khác biệt ở đường cong tải - thời gian 
của hai mẫu trong giai đoạn cuối quá trình gia tải, 
trước khi mẫu bị phá hủy. 
4.3 Theo dõi bề dày lớp cacbonat hóa
Hình 6. Phát triển lớp bề dày cacbonat hóa và thành phần cacbonat 
so với bảo dưỡng dự nhiên 
Hình 6 cho thấy khác biệt về màu sắc khá rõ nét 
của mẫu bê-tông thực vật sau khi phủ chất chỉ thị 
màu phenolphthalein: mặt ngoài mẫu gần như 
không đổi màu, mặt trong của mẫu có sự thay đổi 
sang màu hồng, đậm dần từ ngoài vào trong. Mặt 
trong của mẫu ở lớp ngoài cùng không đổi màu với 
chiều dày không đều, càng vào sâu bên trong, màu 
sắc chỉ thị trên mẫu càng đậm hơn. Thông qua 
chiều dày lớp cacbonat hoá, có thể nhận thấy tốc độ 
cacbonat hoá của mẫu bê-tông cốt thực vật được 
bảo dưỡng trong điều kiện nồng độ CO2 cao đã gia 
tăng đáng kể cacbonat hóa mẫu bê-tông cốt thực 
vật diễn ra mạnh.Trong kết quả phân tích thành 
phần pha (XRD), ngoài các peak đặc trưng của 
porlandite (Ca(OH)2), còn xuất hiện các píc của can-
xit (CaCO3) với cường độ cao và sắc nét. Kết quả 
phân tích hồng ngoại (FTIR) trong môi cacbonat hóa 
cưỡng bức thể hiện rõ các peak liên kết đặc trưng 
của CaCO3 có cường độ cao hơn hẳn khi so sánh 
với mẫu bảo dưỡng tự nhiên. 
5. Kết luận 
Như vậy mục tiêu nghiên cứu về vật liệu bê-
tông thực vật trên cơ sở meta cao-lanh-vỏ trấu đã 
được chúng tôi trình bày, khảo sát và đánh giá tính 
chất. Việc sử dụng kết hợpvôi kết hợp meta cao-
lanhtỷ lệ 70:30 cùng với cốt liệu vỏ trấu theo tỷ lệ 
cốt liệu so với chất kết dính là 15% đã tạo ra sản 
phẩm có khối lượng thể tích xấp xỉ 970kg/cm3, độ 
bền nén khá tốt (khoảng 7MPa) cho thấy tiềm năng 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
54 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2017 
sử dụng như một loại bê-tông nhẹ. Tuy nhiên, trong 
nhiều trường hợp, tính đồng đều về độ bền cơ của 
mẫu chưa ổn định. Mặt khác, để tăng tính nhẹ cho 
bê-tông, khối lượng thể tích có thể điều chỉnh khi 
tăng hàm lượng cốt liệu thực vật cao hơn. Trong 
điều kiện cacbonat hóa cưỡng bức, cường độ chịu 
nén và ứng xử cơ học của các mẫu bê-tông cốt 
thực vật thể hiện kết quả tốt, cao hơn nhiều so với 
bảo dưỡng trong điều kiện tự nhiên. Kết quả khảo 
sát bước đầu cho thấy phương án dùng meta cao-
lanh trong sản xuất bê-tông thực vật là rất đáng 
quan tâm và là tiền đề hứa hẹn, có thể phát triển 
mở rộng, hướng đến ứng dụng chế tạo các kết cấu 
bê-tông nhẹ, có khả năng cách âm, cách nhiệt cho 
các công trình xây dựng. Các nghiên cứu tiếp theo 
sẽ tập trung vào khảo sát các điều kiện bảo dưỡng 
nhằm đưa vào các ứng dụng thực tiễn trong sản 
xuất. 
Lời cảm ơn: Nghiên cứu được tài trợ bởi Trường 
Đại học Bách Khoa – Đại học Quóc Gia – Hồ Chí Minh 
trong khuôn khổ Đề tài mã số T-CNVL-2017-12. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] M. Karus and D. Vogt, “European hemp industry: 
Cultivation, processing and product lines,” Euphytica, 
vol. 140, no. 1, pp. 7–12, 2004. 
[2] K. H. Mo, U. J. Alengaram, and M. Z. Jumaat, “A 
review on the use of agriculture waste material as 
lightweight aggregate for reinforced concrete 
structural members,” Adv. Mater. Sci. Eng., vol. 
2014, 2014. 
[3] E. P. Aigbomian and M. Fan, “Development of Wood-
Crete building materials from sawdust and waste 
paper,” Constr. Build. Mater., vol. 40, pp. 361–366, 
2013. 
[4] E. P. Aigbomian and M. Fan, “Development of wood-
crete from treated sawdust,” Constr. Build. Mater., 
vol. 52, pp. 353–360, 2014. 
[5] K. Ip and A. Miller, “Life cycle greenhouse gas 
emissions of hemp–lime wall constructions in the 
UK,” Resour. Conserv. Recycl., vol. 69, pp. 1–9, 
2012. 
[6] S. Benfratello, C. Capitano, G. Peri, G. Rizzo, G. 
Scaccianoce, and G. Sorrentino, “Thermal and 
structural properties of a hemp–lime biocomposite,” 
Constr. Build. Mater., vol. 48, pp. 745–754, 2013. 
[7] C. Nguyen Van and M. Tran Van, “Basalte Fiber 
Reinforced High Strength Concrete,” presented at the 
28th Conference on Our World in Concrete & 
Structure, 2003, vol. Volume XXII. 
[8] N. K. Son, N. P. A. Toan, T. T. T. Dung, and N. N. T. 
Huynh, “Investigation of Agro-concrete using by-
products of Rice Husk in Mekong Delta of Vietnam,” 
Procedia Eng., vol. 171, pp. 725–733, 2017. 
Ngày nhận bài: 21/12/2017. 
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 05/02/2018. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_nghiem_va_danh_gia_qua_trinh_cacbonat_hoa_cuong_buc_vat.pdf