Thành tựu nghiên cứu về văn hóa tộc người từ đổi mới đến nay

Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số luôn là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các khía cạnh trong đời sống văn hóa

tộc người, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu về văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, lễ hội, nghi

lễ chu kỳ đời người, Tuy nhiên, nhìn lại thành tựu nghiên cứu về văn hóa tộc người từ 1986 đến nay

cho thấy, các công trình nghiên cứu có sự thiên lệch giữa cơ quan trung ương và địa phương, giữa

các vùng miền và đặc biệt là giữa các tộc người. Có những khoảng trống trong nghiên cứu văn hóa

tộc người còn chưa được khỏa lấp, rất cần có những nghiên cứu tiếp theo trong thời gian tới.

pdf 7 trang phuongnguyen 3780
Bạn đang xem tài liệu "Thành tựu nghiên cứu về văn hóa tộc người từ đổi mới đến nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thành tựu nghiên cứu về văn hóa tộc người từ đổi mới đến nay

Thành tựu nghiên cứu về văn hóa tộc người từ đổi mới đến nay
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
Ngày nhận bài: 22/8/2018; Ngày phản biện: 25/8/2018; Ngày duyệt đăng: 31/8/2018
(1) Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới; e-mail: danghoadth@gmail.com
Số 23 - Tháng 9 năm 2018
THÀNH TỰU NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HÓA
TỘC NGƯỜI TỪ ĐỔI MỚI ĐẾN NAY*
Đặng Thị Hoa(1)
Nghiên cứu về văn hóa các dân tộc thiểu số luôn là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các khía cạnh trong đời sống văn hóa 
tộc người, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu về văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, lễ hội, nghi 
lễ chu kỳ đời người, Tuy nhiên, nhìn lại thành tựu nghiên cứu về văn hóa tộc người từ 1986 đến nay 
cho thấy, các công trình nghiên cứu có sự thiên lệch giữa cơ quan trung ương và địa phương, giữa 
các vùng miền và đặc biệt là giữa các tộc người. Có những khoảng trống trong nghiên cứu văn hóa 
tộc người còn chưa được khỏa lấp, rất cần có những nghiên cứu tiếp theo trong thời gian tới.
Từ khóa: Văn hóa tộc người; Văn hóa dân tộc thiểu số; Thành tựu nghiên cứu từ đổi mới đến nay; 
Thành tựu nghiên cứu; Đời sống văn hóa tộc người.
I. Khái quát thành tựu nghiên cứu về văn hóa 
tộc người từ 1986 đến nay
Khái niệm văn hóa và văn hóa tộc người luôn là 
một trong những khái niệm gây ra nhiều tranh cãi 
và có nội hàm rộng. Do vậy, trong phần hệ thống 
hóa này, chúng tôi chỉ giới hạn những thành tố văn 
hóa cơ bản của văn hóa tộc người theo như phân 
loại đã có hiện nay như: Văn hóa vật chất (bao gồm 
nhà ở, trang phục, ẩm thực) và văn hóa tinh thần 
(phong tục tập quán, cưới xin, tang ma, nghệ thuật 
dân gian, lễ hội...)
Nghiên cứu về văn hóa là một chủ đề luôn được 
các nhà nghiên cứu quan tâm, đặc biệt là đối với các 
dân tộc thiểu số. Khó có thể thống kê hết tất cả các 
công trình nghiên cứu về văn hóa tộc người kể từ 
năm 1986 đến nay. Tuy nhiên, trong quá trình tìm 
đọc tài liệu, chúng tôi có thể hệ thống lại như sau:
1.Nhóm các công trình nghiên cứu lý luận về 
văn hóa tộc người
Một số công trình đã tập trung giới thiệu, phân 
tích những vấn đề lý luận trong nghiên cứu văn hóa. 
Đáng chú ý là một số công trình đã đi sâu đề cập 
đến cơ sở lý luận trong nghiên cứu về văn hóa, vai 
trò của văn hóa trong phát triển như: “Triết lý phát 
triển ở Việt Nam, mấy vấn đề cốt yếu” của Phạm 
Xuân Nam, 2005. Trong các công trình nghiên cứu, 
nhiều nhà nghiên cứu khẳng định, bản sắc văn hóa 
thường là bất biến trong quá trình phát triển của 
lịch sử. Nhưng cái bất biến ấy lại có những thay đổi 
trong các môi trường sống, tiếp xúc văn hóa hay do 
tác động của các yếu tố bên ngoài. Do vậy, bảo vệ 
văn hóa nhằm mục đích phát triển đất nước luôn đặt 
ra những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước (Phan 
Ngọc, 2006). Vấn đề quản lý văn hóa và phát triển 
văn hóa cũng được phân tích, đề cập qua các văn 
kiện của Đảng, các chính sách quản lý nhà nước về 
văn hóa, đặc biệt là các quan điểm quản lý lễ hội, 
quản lý các di tích văn hóa và các quan điểm về di 
sản văn hóa của các tộc người thiểu số.
Một số nhà nghiên cứu cũng đặt ra câu hỏi, quản 
lý nhà nước về văn hóa truyền thống thì quản lý cái 
gì và quản lý như thế nào? Quản lý văn hóa phải đặt 
trong sự phát triển xã hội, văn hóa phải là động lực 
phát triển xã hội, do vậy quản lý văn hóa là quản 
lý phát triển (Hoàng Sơn Cường, 1995). Mục đích 
của quản lý văn hóa truyền thống là phải làm cho 
nó phát triển theo định hướng lý tưởng chính trị 
và thẩm mỹ của xã hội, phải phát huy được tiềm 
năng sáng tạo những giá trị văn hóa mới theo những 
chuẩn mực đúng đắn (Đình Quang, 1996). Một số 
công trình mang tính định hướng của văn hóa truyền 
thống trong quá trình phát triển như “Văn hóa bản 
địa Việt Nam- khuynh hướng phát triển hiện đại” 
(Nguyễn Thanh Tuấn, 2012); “Nền văn hóa mới của 
Việt Nam” (Phan Ngọc, 2013) nêu lên những vấn 
đề nhận thức và quan điểm của Hồ Chí Minh trong 
công cuộc xây dựng nền văn hóa mới; “Văn hóa 
Việt Nam trên con đường giải phóng, đổi mới, hội 
nhập và phát triển” (Đỗ Huy, 2013),
Mạc Đường (2005), “Vấn đề dân tộc thiểu số ở 
nước ta trong tầm nhìn đến năm 2020”, Tạp chí Dân 
tộc học, số 2, đã đưa ra những nhận định, đánh giá 
về vấn đề dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay với 
những đặc điểm, thực trạng, tồn tại, đồng thời dự 
báo xu hướng phát triển đến năm 2020, khi nước ta 
cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đặc biệt, 
tác giả cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải giữ vững 
quyền bình đẳng của các dân tộc thiểu số trong xu 
thế phát triển chung của cả nước. Phan Đăng Nhật 
(2009), “Văn hoá các dân tộc thiểu số - Những giá 
trị đặc sắc”, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, đã 
giới thiệu diện mạo văn học dân gian các dân tộc 
thiểu số Việt Nam, sự chuyển biến từ văn học truyền 
miệng đến văn học thành văn; Một số thành tố văn 
hoá dân gian qua lễ hội; luật tục, ngữ nghĩa, ứng xử 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
107Số 23 - Tháng 9 năm 2018
văn hoá, đời sống sinh hoạt của các dân tộc thiểu 
số Việt Nam. Năm 2011, tác giả Hoàng Nam xuất 
bản cuốn sách “Tổng quan văn hóa truyền thống các 
dân tộc Việt Nam”. Cuốn sách đã đề cập đến các 
vấn đề dân số, lịch sử cư trú, kinh tế truyền thống, 
văn hóa truyền thống của 53 dân tộc ở Việt Nam. 
Năm 2012, Hoàng Nam đã xuất bản cuốn sách “Đại 
cương nhân học văn hóa Việt Nam”, trong đó tác 
giả nghiên cứu văn hóa truyền thống các dân tộc các 
nhóm ngôn ngữ ở nước ta.
2. Nhóm các công trình nghiên cứu chung, bản 
sắc văn hóa tộc người Việt Nam.
Có thể điểm qua một số công trình như: “Văn 
hóa các dân tộc Tây Bắc – thực trạng và những vấn 
đề đặt ra” của Trần Văn Bính; “Bảo tồn và phát 
huy văn hóa văn hóa truyền thống của các dân tộc 
thiểu số” của Nguyễn Khoa Điềm; “Đặc trưng văn 
hóa cổ truyền các dân tộc Việt Nam” của Hoàng 
Nam; “Văn hóa Việt Nam đa tộc người, Các dân 
tộc ít người ở Việt Nam” của Đặng Nghiêm Vạn;.... 
Trong đó, một số công trình nghiên cứu mang tính 
bản lề về văn hóa như “Văn hóa Việt Nam đa tộc 
người” của Đặng Nghiêm Vạn, giới thiệu những nét 
văn hóa kinh tế, văn hóa vật chất, văn hóa tổ chức 
xã hội, văn hóa tinh thần của các cư dân sinh sống 
trên đất nước theo phương pháp dân tộc học; gồm 
các phần: Văn hóa và văn hóa dân tộc, tộc người; 
Văn hóa kinh tế; Văn hóa vật chất; Tổ chức xã hội; 
Văn hóa tinh thần. Cuốn “Các dân tộc ít người ở 
Việt Nam” của GS Đặng Nghiêm Vạn đã giới thiệu 
những nét khái quát nhất về những lịch sử tộc người 
dân tộc ở Việt Nam. Tìm hiểu một cách toàn diện về 
văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, kinh tế, xã hội, 
tôn giáo tín ngưỡng, hôn nhân gia đình.... của các 
dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Thái, Chăm, 
Khmer. “Các tộc người ở Việt Nam” của Bùi Xuân 
Đính, sau khi khái quát lại những vấn đề chung về 
dân tộc học; từ đối tượng, nhiệm vụ, lịch sử ra đời đến 
khái quát các tộc người ở Việt Nam. Cuốn sách dành 
ra từng phần lớn đề cập đến một số tộc người như tộc 
người Việt, các tộc người vùng Đông Bắc, các tộc 
người vùng Tây Bắc và miền núi Thanh – Nghệ, các 
tộc người vùng duyên hải Trung và Nam trung Bộ, 
các tộc người vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, các 
tộc người vùng Nam Bộ. Trong mỗi phần đều dành ra 
một dung lượng nhất định trình bày văn hóa đặc trưng 
nhất của một số tộc người, trong đó có người Thái, 
Chăm, Khmer... từ văn hóa vật chất, mối quan hệ xã 
hội, văn hóa tâm linh, biến đổi văn hóa tín ngưỡng. 
Phạm Quang Hoan (chủ biên, 2012), “Văn hóa các 
tộc người vùng lòng hồ và vùng tái định cư thủy 
điện Sơn La”, đã phác họa khá chi tiết và cụ thể các 
đặc điểm văn hóa của các tộc người sinh sống ở khu 
vực Tây Bắc, đặc biệt là ở khu vực tái định cư của 
người Thái, Lự, Kinh, Hoa, Kháng, La Ha, Khơ mú, 
Mảng, Dao, Mông trên các chiều cạnh như: sinh kế, 
văn hóa vật chất, văn hóa xã hội, văn hóa tâm linh 
và tôn giáo, tín ngưỡng, tri thức địa phương, ngôn 
ngữ, chữ viết và giáo dục. 
Nghiên cứu về các lễ hội, phải kể đến một số 
công trình mang tính cơ bản về các lễ hội tiêu biểu 
của các tộc người thiểu số ở Việt Nam của Lê Trung 
Vũ (2005); “Lễ hội dân gian Ê Đê” (1996), Tác 
giả Lê Hồng Lý đã có khá nhiều công trình nghiên 
cứu về lễ hội của một số tộc người: ‘‘Lễ hội ở một 
vùng biên giới” đã làm nổi bật một số lễ hội tiêu biểu 
của các tộc người Tày, Nùng ở Lạng Sơn (1993), 
“Lễ hội của người Dao Họ ở Lào Cai” (1997), “Hội 
Lồng Tồng ở Lào Cai” (1998), “Văn hóa dân gian 
ở người Mạ, Bảo Lộc, Lâm Đồng” (2002), “Tìm 
hiểu lễ hội dân gian của người Mường ở Hòa Bình” 
(2004); Năm 2012, Đặng Thị Oanh, cùng với nhiều 
tác giả xuất bản cuốn sách “Lễ hội dân gian các dân 
tộc thiểu số tỉnh Điện Biên” đã giới thiệu một số 
lễ hội và nghi lễ dân gian tiêu biểu của các dân tộc 
thiểu số tỉnh Điện Biên, trong đó có lễ hội của tộc 
người Thái Đen (Xên bản, cúng bản, Hạn khuống, 
Cúng cơm mới).
Về quản lý lễ hội, Lê Hữu Tầng (1993), cho rẳng 
vai trò của hội lễ truyền thống trong đời sống xã hội 
hiện đại hết sức quan trọng và cần có những phương 
thức quản lý phù hợp. Trong cuốn “Lễ hội truyền 
thống trong đời sống xã hội hiện đại”; Nguyễn Văn 
Mạnh (2002), “Giá trị của lễ hội truyền thống trong 
xã hội hiện đại”, Phạm Quang Nghị (2002), “Lễ hội 
và ứng xử của người làm công tác quản lý lễ hội 
hiện nay”; Tác giả Lê Hồng Lý cũng đã có một số 
công trình đi sâu về lĩnh vực quản lý lễ hội như: 
“Thử nhìn nhận những hoạt động lễ hội trong thời 
gian qua” (2005); “Khai thác các giá trị văn hóa và 
lễ hội truyền thống ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu 
Long phục vụ phát triển du lịch” (2006); “Sự tác 
động của kinh tế thị trường vào lễ hội, tín ngưỡng” 
(2008); cũng đã nêu rõ tầm quan trọng của công 
tác quản lý lễ hội trong việc bảo tồn và phát huy các 
giá trị truyền thống của các tộc người. 
Trong giai đoạn này cũng đã có một số công 
trình chuyên khảo mô tả toàn diện về tộc người, 
trong đó ít nhiều có đề cập đến đặc điểm gia đình 
như: “Người Dao ở Việt Nam” của nhóm tác giả Bế 
Viết Đẳng và cộng sự, 1971; “Những nhóm dân tộc 
thuộc ngữ hệ Nam - Á ở Tây Bắc Việt Nam” của 
nhóm tác giả Đặng Nghiêm Vạn và cộng sự, 1972; 
“Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam” của Cầm Trọng, 
1978. Đáng chú ý là các công trình nghiên cứu của 
Viện Dân tộc học: “Các dân tộc ít người ở Việt Nam 
(các tỉnh phía Bắc)” xuất bản năm 1978 và “Các 
dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam)” 
xuất bản năm 1984. Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu 
về gia đình được đề cập trong các cuốn sách này 
rất sơ lược, bước đầu nhận diện một số đặc điểm 
cơ bản của gia đình trong văn hoá tộc người. Các 
tác giả bước đầu tìm hiểu về hình thái và các mối 
quan hệ trong gia đình đặt trong bối cảnh chung là 
một đơn vị xã hội tộc người. Một số nghi lễ gia đình 
cũng được đề cập, chủ yếu là các nghi lễ hôn nhân, 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
108 Số 23 - Tháng 9 năm 2018
tang ma và tín ngưỡng thờ cúng trong gia đình.
3. Nhóm các công trình nghiên cứu về hôn nhân, 
gia đình
Từ năm 1985, chủ đề nghiên cứu về gia đình các 
dân tộc thiểu số được nhiều nhà nghiên cứu khoa 
học xã hội Việt Nam quan tâm. Trong các thập niên 
80, 90 của thế kỷ XX, khá nhiều nhà nghiên cứu 
Dân tộc học, xã hội học quan tâm nghiên cứu gia 
đình các dân tộc thiểu số ở nhiều nội dung của gia 
đình như: cấu trúc, chức năng và đặc trưng văn hoá, 
nghi lễ trong gia đình, có thể khái quát lại như sau: 
- Các nghiên cứu phân loại hình thái gia đình: 
một số tác giả đã trình bày quan điểm của mình 
trong nhận định về các hình thái gia đình của các 
tộc người thiểu số ở Việt Nam. Trong đó, quan điểm 
về các loại hình gia đình với các hình thái gia đình 
lớn phụ hệ, gia đình lớn mẫu hệ, gia đình song hệ 
hay quá trình tan rã của các gia đình lớn được phân 
tích, đánh giá một cách khá sâu sắc1..
- Một số công trình nghiên cứu đã đi sâu tìm 
hiểu về đặc điểm gia đình một số dân tộc thiểu số ở 
Việt Nam. Đặc trưng cấu trúc gia đình các tộc người 
được phản ánh qua các chỉ số về số cặp vợ chồng, 
số thế hệ, số nhân khẩu, số con cái và các mối quan 
hệ trong gia đình là thân tộc hay thích tộc. Mô hình 
sống chung nhiều thế hệ (3 đến 4 thế hệ; nhiều cặp 
vợ chồng cùng chung sống trong một mái nhà của 
gia đình các dân tộc thiếu số đang dần thay đổi sang 
gia đình mở rộng chỉ còn từ 2 đến 3 thế hệ. Phân 
tích các yếu tố tác động tới những đặc điểm cấu 
trúc của gia đình, một số nghiên cứu cho rằng số 
con trong gia đình các dân tộc thiểu số nhiều hơn 
gia đình người Việt là do chế độ hôn nhân của các 
dân tộc thiểu số còn chịu ảnh hưởng nặng nề của 
nhận thức, quan niệm, đặc trưng văn hóa tộc người, 
phong tục tập quán,...2.
Từ năm 2000 trở lại đây, vấn đề gia đình được 
các nhà nghiên cứu khoa học xã hội quan tâm và 
được triển khai với nhiều đề tài, chương trình với 
quy mô lớn cấp quốc gia. Tuy nhiên, chủ đề nghiên 
cứu về gia đình các dân tộc thiểu số thì lại được 
nghiên cứu khá khiêm tốn trong các bài viết nhỏ lẻ 
của các đề tài luận văn, luận án hay các bài viết tạp 
chí chuyên ngành.
Nội dung nghiên cứu về gia đình dân tộc thiểu 
số trong giai đoạn này chủ yếu vẫn là những phần 
viết mô tả về đặc điểm gia đình của các cuốn sách 
chuyên khảo về các tộc người như dân tộc Lô lô, 
dân tộc Sán Chay, dân tộc Pà Thẻn,. Tuy nhiên, 
một số bài viết, công trình nghiên cứu cũng được 
mở rộng và đi sâu vào những nội dung cụ thể. Một 
số vấn đề nổi lên về gia đình được các nhà nghiên 
cứu đặc biệt quan tâm như: Đặc điểm gia đình các 
1. Phạm Quang Hoan, 1985; 1988; 1990; Đặng Nghiêm Vạn, 1991, Vũ Đình 
Lợi, 1994
2. Phạm Quang Hoan, 1990, 1992; Nguyễn Thị Hoà, 1990; Đỗ Thúy Bình, 
1991, 1992; Sần Cháng, 1998; Đào Trang Thái, 1997.... 
dân tộc thiểu số, mối quan hệ trong gia đình, phân 
công lao động, địa vị của phụ nữ, nam giới trong 
gia đình, chăm sóc trẻ em và người cao tuổi, chăm 
sóc sức khoẻ, phong tục tập quán, kinh tế hộ gia 
đình 3,
Đặc biệt, khá nhiều công trình nghiên cứu trong 
những năm gần đây tập trung về lĩnh vực hôn nhân 
và gia đình các dân tộc thiểu số, trong đó nổi lên các 
vấn đề liên quan đến tập quán trong hôn nhân và gia 
đình như: tảo hôn, nghi lễ hôn nhân, nghi lễ tang 
ma, sinh đẻ, chăm sóc và nuôi dạy con cái, quan hệ 
thân tộc, thích tộc,...4 
Đáng chú ý là, trong những năm gần đây, chủ 
đề nghiên cứu về gia đình các dân tộc thiểu số cũng 
được các học viên cao học và nghiên cứu sinh ở các 
ngành Dân tộc học, Xã hội học, Văn hoá học đặc 
biệt quan tâm. Đã có khá nhiều luận văn, luận án lựa 
chọn chủ đề nghiên cứu về gia đình của các dân tộc 
thiểu số ở nhiều cơ sở đào tạo tại các viện nghiên 
cứu, học viện, trường đại học trong cả nước. Theo 
số liệu thống kê, có tới hàng chục luận án tiến sĩ và 
luận văn thạc sĩ liên quan đến chủ đề về gia đình 
dân tộc thiểu số như biến đổi về quy mô gia đình, 
các nghi lễ trong gia đình, chăm sóc sức khoẻ, sinh 
kế của hộ gia đình,...
Điểm lại các nghiên cứu về gia đình các dân 
tộc thiểu số cho thấy, các công trình nghiên cứu đã 
được thực hiện trong thời gian khá  ... ỏ; nghệ thuật trang 
trí trên trang phục.
7. Nhóm nghiên cứu về văn hóa tinh thần
Trước hết, chúng tôi cũng phải nói rằng, khó có 
thể đánh giá được một cách đầy đủ về các nghiên 
cứu văn hóa tinh thần của các tộc người thiểu số, 
bởi lẽ các nghiên cứu này khá đa dạng, ở nhiều lĩnh 
vực trong đời sống tinh thần của 53 dân tộc thiểu số. 
Tuy nhiên, cũng có thể thấy rõ rằng, đời sống tinh 
thần của các tộc người thiểu số được thể hiện trong 
các công trình nghiên cứu thực sự là phong phú và 
đa dạng. Hầu hết, các nghiên cứu đã mô tả, miêu 
thuật lại đời sống tinh thần của từng tộc người thiểu 
số từ các thói quen trong sinh hoạt hàng ngày đến 
nghi lễ trong chu kỳ đời người, tang ma, cưới xin 
của phong tục tập quán, đến lễ hội, luật tục mang 
những nét đặc sắc của văn hóa tộc người. Có thể 
nói, đây là kho báu về văn hóa của các tộc người 
thiểu số cần bảo lưu, gìn giữ thông qua các công 
trình nghiên cứu để có thể lưu lại cho đời sau.
II. Những vấn đề cơ bản, cấp bách về văn hóa 
tộc người qua tổng quan nghiên cứu
Một trong những quan điểm được nhiều nhà 
nghiên cứu đề cập đến vấn đề cơ bản, cấp bách về 
văn hóa tộc người, đó là cần phải bảo tồn sự đa dạng 
văn hóa tộc người trong bối cảnh phát triển, đô thị 
hóa và toàn cầu hóa hiện nay. 
Với đặc thù của một quốc gia có đa dạng thành 
phần tộc người, đa dạng về văn hóa thì việc bảo tồn 
văn hóa đang trở thành một điều kiện để phát triển, 
là động lực cho phát triển. Văn hóa Việt Nam có sự 
thống nhất trong đa dạng, đó là bản sắc văn hóa của 
một dân tộc đa văn hóa, đa sắc màu. Nếu coi thống 
nhất văn hóa từ đa dạng, thì muốn củng cố sự thống 
nhất ấy, phải trên cơ sở bảo tồn và phát triển tính đa 
dạng của văn hóa, mà ở đây thể hiện rõ nhất là đa 
dạng văn hóa tộc người và văn hóa địa phương 9. 
 Trên thực tế, bảo tồn được văn hóa của các tộc 
người thiểu số, nhất là các tộc người có dân số ít 
thì mới có cơ hội duy trì và phát triển tộc người đó 
trong quá trình phát triển hướng tới sự bền vững. 
Quá trình đồng hóa văn hóa, thích ứng văn hóa 
trong phát triển là những khái niệm được nhiều nhà 
nghiên cứu đưa ra và khẳng định, cần có sự đa dạng 
văn hóa, chống lại quá trình đồng hóa văn hóa để 
bảo tồn được những khác biệt văn hóa của các dân 
tộc thiểu số ở nước ta hiện nay. Điều này có ý nghĩa 
ngày càng quan trọng trong một thế giới đang bị 
chia rẽ bởi những xung đột sắc tộc, xung đột tín 
ngưỡng, tôn giáo mang đậm màu sắc văn hóa10.
Biến đổi văn hóa hay thích nghi văn hóa là quá 
trình tất yếu khách quan của các cộng đồng tộc 
người. Sự biến đổi văn hóa cùng với những biến đổi 
về kinh tế - xã hội ở các tộc người thiểu số đang đặt 
ra những vấn đề cấp bách hiện nay, đó là trong quá 
trình biến đổi và thích nghi văn hóa, văn hóa của 
tộc người thiểu số có dân số ít thường tiếp nhận từ 
văn hóa của một số tộc người khác có dân số đông 
hơn trong vùng như Mông, Dao, Tày, Nùng, Việt,... 
Điểm đáng chú ý là, mức độ và tốc độ biến đổi diễn 
ra không tương đồng giữa các thành tố văn hóa và 
giữa các nhóm tộc người có dân số ít. Xu hướng 
tiếp nhận, ảnh hưởng văn hóa giữa người có dân 
số ít với các tộc người láng giềng biểu hiện khá rõ 
trong hoạt động kinh tế, văn hóa vật chất; Còn ở 
lĩnh vực văn hóa tinh thần, văn hóa xã hội thì sự 
biến đổi diễn ra chậm hơn nhiều. Dù biến đổi ở các 
dạng thức, khác nhau, xu hướng cố kết và khẳng 
định bản lĩnh, bản sắc văn hóa tộc người vẫn là chủ 
đạo. Đây chính là động lực thúc đẩy sự phát triển 
của dân tộc có dân số ít trong điều kiện mới. Tuy 
nhiên, xu hướng đồng hóa văn hóa của một số tộc 
người có dân số đông trong vùng cũng thể hiện rất 
rõ nét và rất cần có các nghiên cứu cụ thể để đánh 
giá một cách khoa học và khách quan11.
Biến đổi văn hóa còn chịu ảnh hưởng của quá 
trình biến đổi kinh tế - xã hội trong địa bàn vùng dân 
tộc thiểu số. Đối với các giá trị văn hóa truyền thống 
của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, Tây Trung 
Bộ đang phải chịu tác động mạnh mẽ từ những biến 
đổi của môi trường sống (rừng, nguồn nước, động 
thực vật...) mà cụ thể ở đây là quá trình định cư của 
vùng ngập lòng hồ của các công trình thủy điện như 
công trình thủy điện Sơn La, Lai Châu,12 
Một vấn đề được cho là hết sức quan trọng và cấp 
9. Ngô Đức Thịnh, 2013; Phan Ngọc, 2014
10. Vương Xuân Tình, 2009, 2012;Nguyễn Thị Đức, 2015
11. Phạm Quang Hoan, 2003; Vương Xuân Tình, 2014; Hoàng Sơn, 2008; 
Đặng Thị Hoa, 2014, 2017
12. Hoàng Sơn, 2006, Phạm Quang Hoan, 2014, Đặng Thị Hoa, 2012
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
111Số 23 - Tháng 9 năm 2018
bách hiện nay là, làm thế nào để quản lý được văn 
hóa và biến đổi văn hóa. Nhiều công trình nghiên 
cứu về quản lý văn hóa và biến đổi văn hóa đã chỉ 
ra rằng, thật khó có thể cấm được các hoạt động văn 
hóa và quản lý văn hóa không thể chỉ dùng theo 
cách quản lý hành chính thông thường.
Giao lưu văn hóa và sự hội nhập giữa các cộng 
đồng vốn là quy luật chung của sự phát triển văn hóa 
nhân loại. Tuy nhiên, để giao lưu và hội nhập thực 
sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển văn hóa 
và xã hội của một cộng đồng, thì bản thân văn hóa 
của mỗi cộng đồng ấy phải bảo tồn và phát huy bản 
sắc, sắc thái văn hóa của mình13. Việc giao lưu văn 
hóa diễn ra rất nhanh và mạnh. Cùng với sự bùng nổ 
thông tin nhờ công nghệ hiện đại, sản phẩm văn hóa 
từ khắp nơi cũng tràn đến núi rừng. Trong lúc việc 
bảo tồn chưa kịp thời, chưa đáp ứng yêu cầu thì việc 
tiếp thu văn hóa mới lại thiếu chọn lọc, chính vì vậy 
đã gây ảnh hưởng xấu tới văn hóa truyền thống các 
dân tộc thiểu số (DTTS). Đồng bào các dân tộc ít 
mặc trang phục truyền thống, không còn say mê bài 
hát, điệu nhảy âm nhạc của dân tộc mình. Quá trình 
đô thị hóa cũng làm mất dần nhà sàn, nhà rông, nhà 
dài... Do vậy, quản lý văn hóa cần nhìn nhận từ chủ 
trương, chính sách đến việc triển khai thực hiện trên 
thực tế, cả trong khâu chỉ đạo điều hành đến việc 
triển khai thực hiện các dự án can thiệp hỗ trợ.
Việc bảo tồn và phát huy các giá trị truyền thống 
của lễ hội các dân tộc là cần thiết, tuy nhiên, trước 
tình trạng lễ hội đang bị mai một như hiện nay, cũng 
không nhất thiết phải tìm cách phục hồi lại các lễ 
hội nếu không cần thiết mà nên tìm biện pháp củng 
cố, xây dựng trung tâm văn hóa nhiều hoạt động 
thích hợp vừa mang tính dân tộc vừa hiện đại. Tại 
các trung tâm văn hóa cộng đồng đó, có thể lựa 
chọn các lễ hội truyền thống phù hợp với xu thế 
hiện nay14. Trong việc tổ chức phục hồi các giá trị 
truyền thống của văn hóa các tộc người thiểu số, 
cần rút ngắn khoảng cách chênh lệch khá lớn về đời 
sống văn hóa và mức hưởng thụ văn hóa giữa các 
vùng, miền...
III. Những khoảng còn trống trong nghiên 
cứu văn hóa tộc người
1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa tộc 
người khá đồ sộ và đề cập đến nhiều lĩnh vực khác 
nhau trong đời sống văn hóa của các tộc người thiểu 
số. Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm bảo tồn các 
giá trị văn hóa truyền thống và phát triển bền vững 
thì vấn đề nghiên cứu, tìm hiểu, phát hiện tính đặc 
thù và bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi địa 
phương lại chưa được thực hiện một cách hệ thống 
và có tính khái quát mang tầm cỡ quốc gia. Hầu hết, 
các nghiên cứu vẫn mang tính nhỏ lẻ, chuyên sâu 
vào từng vấn đề, từng tộc người mà chưa có tính 
13. Ngô Đức Thịnh, (2003), Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Việt Nam, NXB. 
Khoa học Xã hội
14. Hoàng Lương, (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền 
Bắc Việt Nam, NXB. Văn hoá Dân tộc.
khái quát cao cho từng vùng, từng nhóm tộc người 
hay tổng quát chung cho cả nước. Đặc biệt, vẫn còn 
thiếu vắng các công trình nghiên cứu gắn bảo tồn 
văn hóa của các tộc người thiểu số vào việc hoạch 
định các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở 
các tộc người, các địa phương, nhất là với các tộc 
người, địa phương còn ở trình độ phát triển chậm, 
mang nhiều nét đặc thù.
2. Các nghiên cứu về quản lý nhà nước trong 
phạm vi hoạt động văn hóa, chẳng hạn như quản 
lý lễ hội, quản lý di tích hay bảo tồn các giá trị văn 
hóa truyền thống của các tộc người gắn với các hoạt 
động văn hóa hiện nay ở cấp cộng đồng và văn hóa 
cơ sở còn hạn chế. Một số công trình nghiên cứu có 
đề cập đến vấn đề quản lý lễ hội, quản lý di tích hay 
việc biên soạn, quản lý các kịch bản nghệ thuật dân 
gian tại các địa phương (trừ các di tích - lễ hội lớn, 
cấp quốc gia hoặc cấp đặc biệt) chưa nhiều. Thực tế 
cho thấy, các hoạt động lễ hội đang bùng nổ trong 
những năm gần đây đặt ra khá nhiều vấn đề trong 
quản lý và nghiên cứu các phương án bảo tồn văn 
hóa truyền thống của các tộc người. Do thiếu vắng 
các công trình nghiên cứu mang tính khoa học, cơ 
bản dẫn tới tình trạng trước khi lễ hội diễn ra, các 
cấp quản lý cơ sở (thường là cấp huyện, cấp xã) là 
nơi xây dựng “kịch bản lễ hội” hoặc trực tiếp duyệt 
kịch bản từ các làng/xã gửi tới. Cũng bởi vậy, ở khá 
nhiều trường hợp, kịch bản của một lễ hội tại làng/
xã lại chính là sản phẩm của nhà quản lý văn hóa 
các huyện hoặc của các trung tâm quản lý di tích, 
chính quyền sở tại mà thiếu cái nhìn khoa học. Từ 
đó, có nguy cơ dẫn đến sự áp đặt cho cộng đồng 
những “kịch bản” mang tính phi truyền thống và 
thiếu tính khoa học, phải có ý thức tôn trọng lịch sử, 
tôn trọng sáng tạo văn hóa trong cộng đồng.
3. Lĩnh vực nghiên cứu về văn hóa tộc người và 
biến đổi văn hóa tộc người đã có khá nhiều. Khối 
các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này khá đồ 
sộ. Nhiều nghiên cứu đã có tính bao quát về một 
tộc người hay một nhóm tộc người, làm rõ những 
nét đặc trưng trong bản sắc văn hóa của một số tộc 
người. Tuy nhiên, các nghiên cứu mang tính lý luận 
về biến đổi văn hóa và quản lý Nhà nước về văn hóa 
các tộc người thiểu số thì chưa nhiều. Đây là một 
khoảng trống trong nghiên cứu về văn hóa, biến đổi 
văn hóa các tộc người thiểu số ở nước ta hiện nay. 
Các nghiên cứu về quản lý nhà nước về văn hóa, vai 
trò quản lý của nhà nước trong bảo tồn, phát huy các 
giá trị văn hóa truyền thống của các tộc người thiểu 
số chủ yếu tập trung ở lễ hội, còn ở các thành tố văn 
hóa khác còn khá khiêm tốn. Đặc biệt, các nghiên 
cứu đánh giá hiệu quả, tác động của chính sách bảo 
tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống từ 
1986 đến nay làm cơ sở khoa học phục vụ cho việc 
hoàn thiện chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị 
văn hóa truyền thống của các tộc người thiểu số còn 
nhiều hạn chế. Việc nhận diện những vấn đề biến 
đổi văn hóa truyền thống của các tộc người và xác 
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
112 Số 23 - Tháng 9 năm 2018
định những vấn đề đặt ra trong quản lý Nhà nước 
về văn hóa nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn 
hóa truyền thống của các tộc người là rất cần thiết 
và cấp bách.
* Bài viết là sản phẩm nghiên cứu của đề tài 
khoa học cấp Quốc gia “Hệ thống hóa, đánh giá 
các công trình nghiên cứu về dân tộc và công tác 
dân tộc từ năm 1986 đến nay”. Mã số: CTDT 
02.16/16-20.
Tài liệu tham khảo
[1] Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, 
(1991), Văn hoá Chăm, NXB. Khoa học Xã hội;
[2] Đỗ Thuý Bình, (1994), Hôn nhân và gia đình 
các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam, NXB. 
Khoa học Xã hội;
[3] Phan Hữu Dật, Ngô Đức Thịnh, Lê Ngọc 
Thắng, Nguyễn Xuân Độ (Ban chủ nhiệm đề tài) 
(1998), Sắc thái văn hóa địa phương và tộc người 
trong chiến lược phát triển đất nước, Chương trình 
nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-
06: “Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ 
xã hội”, NXB. Khoa học Xã hội;
[4] Trần Bình, (2002), Về văn hoá Xinh mun, 
NXB. Khoa học Xã hội;
[5] Diệp Trung Bình, (chủ biên, 2002), Lễ hội cổ 
truyền các dân tộc Hoa, Sán Dìu ở Việt Nam, NXB. 
Văn hoá Dân tộc;
[6] Nịnh Văn Độ, (chủ biên, 2003), Văn hoá 
truyền thống các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên 
Quang, NXB. Văn hoá Dân tộc;
[7] Trần Văn Bính, (chủ biên, 2004), Văn hoá 
các dân tộc Tây Nam Bộ - thực trạng và những vấn 
đề đặt ra, NXB. Chính trị Quốc gia;
[8] Trần Văn Bính, (chủ biên, 2006), Đời sống 
văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB. Lý luận Chính trị;
[9] Trương Bi, (chủ biên, 2007), Văn hóa mẫu 
hệ Mnông, NXB. Văn hóa Dân tộc;
[10] Trần Trí Dõi, (2004), Thực trạng giáo dục 
ngôn ngữ ở vùng dân tộc miền núi ba tỉnh phía Bắc 
Việt Nam - Những kiến nghị và giải pháp, NXB. Đại 
học Quốc gia;
[11] Ma Ngọc Dung, (2004), Nhà sàn truyền 
thống của người Tày ở Đông Bắc Việt Nam, NXB. 
Khoa học Xã hội;
[12] Phan Văn Dốp, Nguyễn Thị Nhung, (2006), 
Cộng đồng người Chăm Hồi giáo ở Nam Bộ trong 
quan hệ giới và phát triển, NXB. Nông nghiệp;
[13] Ma Ngọc Dung, (2007), Văn hóa ẩm thực 
của người Tày ở Việt Nam, NXB. Khoa học Xã hội;
[14] Bùi Xuân Đính, (2010), Một số vấn đề cơ 
bản của các dân tộc vùng Đông Bắc, Báo cáo đề tài 
cấp Bộ;
[15] Đỗ Thị Hoà, (2003), Trang phục các tộc 
người thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt - Mường và Tày 
- Thái, NXB. Văn hoá Dân tộc;
[16] Đặng Thị Hoa, (2009), Tác động của yếu 
tố truyền thống tới quản lý xã hội ở cơ sở vùng dân 
tộc miền Tây Thanh Hóa - Nghệ An, đề tài cấp Bộ 
2008- 2009;
[17] Đặng Thị Hoa, (2014), Một số đặc điểm gia 
đình các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong bối cảnh 
hội nhập và phát triển, Trong cuốn: “Gia đình Việt 
Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 
và hội nhập từ cách tiếp cận so sánh”, NXB. Khoa 
học Xã hội;
[18] Đặng Thị Hoa, (2016), Hôn nhân xuyên biên 
giới với phát triển xã hội, NXB. Khoa học Xã hội;
[19] Phạm Quang Hoan, (2009), Những vấn đề 
dân tộc- tôn giáo nhằm phát triển bền vững vùng 
Tây Bắc đến năm 2015, Báo cáo tổng hợp kết quả 
nghiên cứu đề tài cấp bộ năm 2007- 2009, do PGS.
TS. Phạm Quang Hoan làm chủ nhiệm, lưu tại Thư 
viện Viện Dân tộc học);
[20] Phạm Quang Hoan, Đoàn Đình Thi, (2009), 
Một số vấn đề cấp bách trong nghiên cứu dân tộc 
học hiện nay, Thông báo dân tộc học năm 2008;
[21] Phạm Quang Hoan, (2010), Nghiên cứu 
người Hmông ở vùng biên giới Lào - Việt (Báo 
cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp bộ năm 
2008- 2010, do PGS.TS. Phạm Quang Hoan làm chủ 
nhiệm, Tài liệu lưu tại Thư viện Viện Dân tộc học).
THE ACHIEVEMENTS OF RESEARCH ON ETHNIC CULTURE
SINCE INNOVATION UP TO NOW
Dang Thi Hoa
Abstract: Research on ethnic minority cultures has always been a concerned topic for many researchers. 
There are quite many researchs on the aspects of ethnic cultural life, notably the researchs of material 
culture, spiritual culture, festivals, rituals of life cycle now... However, looking back at the research 
achievements on ethnic culture from 1986 to present showed that the researchs has a bias between central 
and local agencies, between regions and especially among ethnic minoririty groups. There are gaps in the 
ethnic culture researchs that have not yet been filled, and further research is needed in the near future. 
Keywords: Research achievement; Ethnic cultural life; Ethnic culture; Ethnic minority culture; The 
research achievement since innovation up to now.

File đính kèm:

  • pdfthanh_tuu_nghien_cuu_ve_van_hoa_toc_nguoi_tu_doi_moi_den_nay.pdf