Chẩn đoán và điều trị cơn nhịp nhanh trên thất ở thai nhi: nhân một trường hợp lâm sàng
TÓM TẮT
Nhịp nhanh trên thất (NNTT) là một trong
những rối loạn nhịp tim (RLNT) nhanh gặp phổ
biến ở thai nhi, bệnh thường gây phù thai và thai lưu
với tỷ lệ cao. Tuy nhiên, nếu được chẩn đoán sớm
và điều trị đúng, kịp thời thì nhịp tim thai có thể
trở về bình thường và tình trạng suy tim thai sẽ sớm
hồi phục. Trong bài báo này chúng tôi báo cáo một
trường hợp thai nhi 26 tuần bị NNTT được điều trị
thành công bằng Flecainide qua đường uống của
mẹ. Chúng tôi cũng sẽ đưa ra các bàn luận trong
chẩn đoán, lựa chọn thời điểm, đường dùng các loại
thuốc chống loạn nhịp cũng như theo dõi mẹ để
tránh các biến cố có thể xảy ra với mẹ và thai
Bạn đang xem tài liệu "Chẩn đoán và điều trị cơn nhịp nhanh trên thất ở thai nhi: nhân một trường hợp lâm sàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chẩn đoán và điều trị cơn nhịp nhanh trên thất ở thai nhi: nhân một trường hợp lâm sàng
CA LÂM SÀNG 83TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 TÓM TẮT Nhịp nhanh trên thất (NNTT) là một trong những rối loạn nhịp tim (RLNT) nhanh gặp phổ biến ở thai nhi, bệnh thường gây phù thai và thai lưu với tỷ lệ cao. Tuy nhiên, nếu được chẩn đoán sớm và điều trị đúng, kịp thời thì nhịp tim thai có thể trở về bình thường và tình trạng suy tim thai sẽ sớm hồi phục. Trong bài báo này chúng tôi báo cáo một trường hợp thai nhi 26 tuần bị NNTT được điều trị thành công bằng Flecainide qua đường uống của mẹ. Chúng tôi cũng sẽ đưa ra các bàn luận trong chẩn đoán, lựa chọn thời điểm, đường dùng các loại thuốc chống loạn nhịp cũng như theo dõi mẹ để tránh các biến cố có thể xảy ra với mẹ và thai. Từ khoá: Nhịp nhanh trên thất, suy thai, Digoxin, Flecainide. ĐẶT VẤN ĐỀ RLNT thai nhi là một căn bệnh hiếm gặp với tỉ lệ 0.1% nhưng có thể gây ra các biến chứng rất nghiêm trọng. Trong đó, NNTT là loại RLNT nhanh thường gặp nhất với tỉ lệ 65% và chiếm 15% trong tổng số các loai RLNT thai. Với NNTT có nguy cơ cao có thể gây phù thai - nhau và chết thai với tỉ lệ 30-40% và 8 -27%. Đối với thai nhi trên 37 tuần bị RLNT nhanh có biến chứng phù thai người ta thường lựa chọn biện pháp can thiệp bắt thai sớm để cứu thai, tuy nhiên theo các nghiên cứu đã báo cáo tỷ lệ tử vong chu sinh tới 35% [1,2]. Với sự Chẩn đoán và điều trị cơn nhịp nhanh trên thất ở thai nhi: nhân một trường hợp lâm sàng Nguyễn Thị Duyên*, Phan Đình Phong*, Phạm Mạnh Hùng*, Lê Kim Tuyến** Viện Tim mạch Việt Nam, Bệnh Viện Bạch Mai* Viện Tim TP. Hồ Chí Minh** tiến bộ nhanh chóng của phương pháp siêu âm tim thai, NNTT có thể được chẩn đoán chính xác trong bào thai bằng các kỹ thuật siêu âm tim M-mode và siêu âm Doppler [3]. Việc kiểm soát RLNT thai bằng thuốc được ghi nhận khả năng khôi phục nhịp xoang ≥ 80% với thai nhi chưa bị phù thai, còn ở trường hợp đã có phù thai – nhau thì tỉ lệ này thấp hơn hẳn [4]. Cho đến nay, ở nước ta, vấn đề chẩn đoán và điều trị RLNT thai vẫn còn nhiều khó khăn và chưa thật sự được quan tâm nên rất nhiều trường hợp RLNT thai không được điều trị sớm, dẫn tới hậu quả rất đáng tiếc. Do đó, trong bài báo này chúng tôi báo cáo một trường hợp thai nhi 26 tuần bị NNTT được điều trị thành công bằng Flecainide qua đường uống của mẹ. Để qua đó, chúng tôi cũng muốn bàn luận về đặc điểm NNTT ở thai nhi có điều gì khác so với người lớn, chẩn đoán bệnh ra sao, cần tiến hành đánh giá gì cho cả mẹ và thai trước, trong và sau khi điều trị, nhất là chúng ta lựa chọn thuốc chống loạn nhịp nào vừa đạt hiệu quả cao nhất và vẫn tránh được các tác dụng phụ cho mẹ và thai. Và cuối cùng, chúng tôi hy vọng sẽ có nhiều trường hợp thai nhi bị RLNT được phát hiện và điều trị đúng để có thể trào đời một cách an toàn và có một trái tim khoẻ mạnh. TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG Bệnh nhân Đ.T.K.V 31 tuổi, mang thai lần 2 (PARA: 1011) được giới thiệu đến Viện Tim mạch CA LÂM SÀNG 84 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 Việt Nam – Bệnh viện Bạch Mai ở tuần thai 26. Đây là thai được làm IVF, các xét nghiệm sàng lọc trước sinh như Double test và Triple test đều có nguy cơ thấp. Trước khi đến với chúng tôi, trong một đợt siêu âm thường quy ở 25 tuần, thai nhi xuất hiện nhịp tim nhanh (240 ck/p), đầu tiên từng lúc, sau đó xuất hiện liên tục, kích thước buồng bim bắt đầu giãn và có dịch ít màng ngoài tim. Siêu âm tim thai nhi cho thấy cấu trúc tim thai bình thường và khả năng co bóp tim còn bù với FS: 35 % nhưng buồng tim bắt đầu giãn (hình 1) và có ít dịch màng tim (hình 2). Hình 1. Chỉ số tim/ngực (0.35) Hình 3. Siêu âm TM Hình 4. Siêu âm Doppler Hình 2. Dịch màng ngoài tim Trên siêu âm TM (hình 3) và Doppler xung (hình 4) cho thấy nhịp tim nhanh, đều với tần số 230ck/p, tỷ lệ co tâm nhĩ/tâm thất là 1:1. Tỷ lệ VA/ AV < 1 (với VA: 30ms) (hình 5-6). Thai nhi được chẩn đoán là NNTT vòng vào lại có dẫn truyền thất – nhĩ ngắn và có biểu hiện suy thai, tuy nhiên chưa có dấu hiệu phù thai – nhau. Thai phụ được chỉ định nhập viện và kiểm tra sức khoẻ trước khi quyết định điều trị. Các thăm khám lâm sàng cho thấy nhịp tim và huyết áp của thai phụ ổn định, xét nghiệm công thức máu, chức năng gan, thận, điện giải đồ, nội tiết, miễn dịch, phản ứng viêm của mẹ bình thường. Điện tâm đồ (ĐTĐ) và siêu âm tim (SAT) của thai phụ cũng được kiểm tra nhanh chóng và cho kết quả bình thường. CA LÂM SÀNG 85TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 Hình 5. Thời gian dẫn truyền nhĩ– thất (AV=44ms) Hình 6. Thời gian dẫn truyền thất – nhĩ (VA=30ms) Sau khi giải thích kỹ cho thai phụ và gia đình về bệnh lý RLNT của thai, nguy cơ có thể xảy ra khi không và có điều trị, gia đình hoàn toàn thống nhất với phác đồ điều trị của hội đồng chuyên môn gồm các chuyên khoa tim mạch, sản khoa và hồi sức. Thai phụ được bắt đầu bằng Digoxin liều nạp đường uống: 500mcg mỗi 12h trong 2 ngày đầu, sau đó giảm liều và dùng liều duy trì 250mcg mỗi 12h trong 3 ngày, tuy nhiên thai phụ cảm thấy mệt và buồn nôn sau khi uống thuốc mặc dù nhịp tim, ĐTĐ và điện giải đồ của thai phụ vẫn trong giới hạn bình thường. Thai nhi được kiểm tra tim hàng ngày nhưng vẫn không kiểm soát được nhịp tim, tuy nhiên chức năng tim thai không giảm hơn và lượng dịch màng ngoài tim không tăng lên. Đến ngày thứ 6, thai phụ được dừng Digoxin và được bắt đầu uống flecainide liều 100 mg mỗi 12h trong ngày đầu và 100mg mỗi 8h trong ngày tiếp theo. Đến ngày thứ 8 (ngày thứ 2 sau khi dùng Flecainide), nhịp tim thai giảm xuống còn 200ck/ phút và xuất hiện những đoạn nhịp xoang bình thường ngắn với tần số 140ck/p. Đến ngày thứ 9, nhịp tim về cơ bản là nhịp xoang đều, 140ck/p, chỉ còn ít đoạn NNTT ngắn, thai phụ được giảm liều Flecainide xuống còn 100mg mỗi 12h. Đến ngày thứ 10, nhịp tim thai khôi phục nhịp xoang hoàn, 136ck/p. Thai phụ tiếp tục duy trì Flecainide liều 50mg mối 12h sau 7 ngày không tái phát NNTT ở thai nhi và được quyết định dừng thuốc. Sau 2 tuần tái lập nhịp xoang (hình 7), kích thước tim thai trở về bình thường, hầu như không còn dịch màng ngoài tim (hình 8). Hình 7. Nhịp tim sau điều trị (nhịp xoang 136ck/p) Hình 8. Chỉ số tim/ngực sau điều trị (0.31) CA LÂM SÀNG 86 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 Người mẹ được theo dõi lâm sàng, điện giải đồ, chức năng gan thận, ĐTĐ hàng ngày, biểu hiện dung nạp thuốc tốt mà không có bất kỳ biến chứng. Thai nhi được tiếp tục theo dõi đến khi sinh và không có tái phát NNTT nào nữa. Thai phụ đẻ mổ lúc thai 39 tuần được 1 bé trái 3.9kg với số điểm Apgar là 9 và 9 ở 1 và 5 phút tương ứng. Siêu âm tim sau sinh là bình thường và nhịp xoang đều tần số 140ck/p và không có dấu hiệu tiền kích thích trên ĐTĐ. THẢO LUẬN Điểm khác biệt của NNTT ở thai nhi là gì? RLNT nhanh ở thai nhi là một trong những nguyên nhân chính gây phù thai-nhau mà không do rối loạn miễn dịch với tỉ lệ 80%, trong đó hay gặp nhất là NNTT với tỉ lệ 65% [5]. NNTT biểu hiện bằng tần số tim đều, dao động từ 200 - 300ck/p, dẫn truyền nhĩ - thất 1:1, có thể kịch phát hoặc bền bỉ. Cơ chế chính chiếm 60-80% gây NNTT ở thai nhi được biết đến là do vòng vào lại nhĩ thất thuận chiều, ngoài ra có 1 phần nhỏ là do tăng tính tự động. Thông qua đường dẫn truyền phụ, xung động từ tâm thất truyền ngược lên tâm nhĩ rồi vòng từ tâm nhĩ xuống tâm thất qua nút nhĩ thất tạo thành 1 vòng dẫn truyền vào lại. Bằng chứng gián tiếp của cơ chế này là sự tồn tại của đường dẫn truyền phụ ở các nghiên cứu điện sinh lý thực quản sau sinh [6,7]. Điều này có thể được ghi nhận trên ĐTĐ hay siêu âm tim thai với mô hình NNTT có khoảng dẫn truyền thất – nhĩ ngắn với tỉ lệ thất- nhĩ/ nhĩ - thất <1 (tỉ lệ VA/AV <1) [8] hay gặp ở cơn NNTT vòng vào lại nhĩ thất (AVRT) hay vòng vào lại nút nhĩ thất (AVNRT) (hình 9), còn NNTT với khoảng dẫn truyền thất – nhĩ dài biểu hiện bằng tỉ lệ thất- nhĩ/ nhĩ - thất >1 (tỉ lệ VA/AV >1)hay gặp ở nhịp nhanh nhĩ hay nhịp nhanh vòng vào lại nhĩ thất thể không điển hình [9] (hình 10). Tương tự như ở trẻ sơ sinh, NNTT loại vòng vào lại nhĩ thất (AVRT) chiếm tỉ lệ 80% với sự xuất hiện của đường dẫn truyền phụ đã được chứng minh [10]. Trong khi đó, loại cơn NNTT hay gặp nhất ở người lớn là cơn NNTT vòng vào lại nút nhĩ thất (AVNRT), tỉ lệ cơn NNTT vòng vào lại nhĩ thất (AVRT) có xu hướng giảm dần khi tuổi càng tăng, từ 60% trong 10 năm đầu còn 9% sau 70 tuổi [11]. Hình 9: Cơn NNTT vòng vào lại nhĩ thất (AVRT) Hình 10. Cơn NNTT vòng vào lại nút nhĩ thất (AVNRT) Kỹ thuật nào được sử dụng trên lâm sàng để chẩn đoán NNTT ở thai nhi? Việc xác định chính xác loại RLNT nhanh là rất quan trọng để quyết định lựa chọn loại thuốc đầu tay một cách hiệu quả nhất với liều thấp nhất có thể và tránh các tác dụng phụ của thuốc lên cả mẹ và thai. CA LÂM SÀNG 87TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 Hình 11. Siêu âm TM xác định đồng thời co tâm nhĩ và co tâm thất Hình 12. Siêu âm Doppler xác định đồng thời dòng chảy qua van tim Siêu âm Doppler xung giúp khắc phục các nhược điểm trên của siêu âm TM bằng việc xác định dòng chảy qua các van tim thông quan việc đặt con trỏ tại vị trí giữa van động mạch chủ (ĐMC) và van hai lá (HL) ở mặt cắt 5 buồng từ mỏm giúp ghi đồng thời dòng chảy qua van HL và van ĐMC. Sự bắt đầu của sóng A đánh dấu sự khởi đầu của cơn co tâm nhĩ và sự bắt đầu của sóng V đánh dấu sự khởi đầu sự co của tâm thất. Kỹ thuật này đôi khi không dễ dàng nhưng khả thi 90% cơ hội đạt được [4] (hình 12). Tuy nhiên, hạn chế của kỹ thuật này là không có khả năng chẩn đoán các RLNT có phân ly nhĩ thất vì bất kỳ sự co bóp tâm nhĩ nào xảy ra trong thời kỳ thất thu sẽ không được phát hiện khi van nhĩ thất đóng lại. Để khắc phục nhược điểm này, việc đặt của sổ siêu âm Doppler xung tại vị trí cạnh tĩnh mạch chủ (TMC) trên và ĐMC lên sẽ cho phép đánh giá đồng thời dòng chảy trong hai mạch máu lớn. Sự khởi đầu của dòng chảy của ĐMC đánh dấu sự khởi đầu của tâm thu thất trong khi sự khởi đầu của dòng chảy ngược trong TMC trên cho thấy sự khởi đầu của tâm nhĩ thu. Bằng cách này có thể tính toán khoảng dẫn truyền nhĩ - thất (AV) tương ứng với khoảng RP trên ĐTĐ, giúp dễ dàng phân biệt NNTT có dẫn truyền thất - nhĩ dài với NNTT có dẫn truyền thất - nhĩ ngắn. Tuy nhiên, kỹ thuật này rất khó làm ở thai phụ có thành bụng dày, ối nhiều [14]. (hình 12) Với những tiến bộ trong kỹ thuật siêu âm TM, Doppler xung hiện nay, có thể chẩn đoán chính xác loại RLNT dựa trên nguyên tắc so sánh mối quan hệ giữa co tâm nhĩ (sóng A) và co tâm thất (sóng V), khoảng dẫn truyền nhĩ - thất (AV) và thất - nhĩ (VA) [3] bên cạnh khả năng xác định hoặc loại trừ bất thường cấu trúc liên quan như: thông liên thất, bệnh Ebstein, thiểu sản van ba lá, kênh nhĩ thất chung có thể xuất hiện trong 5-10% các trường hợp [12]. Các nghiên cứu sớm nhất về RLNT thai nhi trong những năm 1980 dựa trên siêu âm tim M-mode cho phép phân tích nhịp tim thai hiệu quả bằng cách đặt thanh cursor cắt chéo qua đồng thời cả tâm nhĩ và tâm thất. Tính tần số tâm nhĩ bóp và tâm thất bóp đồng thời đánh giá sự trình tự co bóp giữa nhĩ và thất (hình 11). Tuy nhiên kỹ thuật này gặp khó khăn ở thai bé, vị trí của thai khó cắt và không có khả năng đo chính xác khoảng thời gian nhĩ – thất vì không phải luôn thấy rõ điểm khởi đầu của tâm nhĩ và tâm thất co. Trong trường hợp tâm nhĩ co bóp kém, có thể đặt cửa sổ tại vị trí van lỗ bầu dục và tĩnh mạch gan để đánh giá tần số nhĩ [3,12]. CA LÂM SÀNG 88 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 Ngoài ra, còn có thể xác định thời điểm co tâm nhĩ (sóng A) và co tâm thất (sóng V) bằng các đặt cửa sổ Doppler xung tại vị trí gần tĩnh mạch phổi và động mạch phổi cũng cho kết quả tương tự, tuy nhiên kỹ thuật này tương đối khó, cần có hỗ trợ của máy siêu âm có độ phân giải cao và tư thế thai cực kỳ thuận lợi [15]. Đánh giá tình trạng thai nhi và thai phụ trước khi dùng thuốc chống loạn nhịp? Đứng trước 1 thai phụ có thai nhi bị RLNT nói chung và NNTT nói riêng chúng ta phải xác định xem thai nhi đã cần được điều trị chưa? Muốn trả lời câu hỏi này, theo Cuneo và Strasbrger (2000), chúng ta cần dựa vào bảng phân loại nguy cơ cho thai nhi: Bảng 1. Phân loại nguy cơ cho thai nhi Thông số đánh giá Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Thời gian RLNT Không liên tục Liên tục Liên tục Chức năng thất Bình thường Giảm nhẹ - vừa Giảm nặng Hở van nhĩ thất Không /rất nhẹ Nhẹ - vừa Vừa – nhiều Phù thai Không Ít, chỉ có ở 1 chỗ > 1 cm Trắc đồ sinh vật lý (Biophysical profile) Bình thường Bình thường Bình thường hoặc bất thường RLNT thai liên tục được xác định khi thời gian xuất hiện NNTT ≥ 50% thời gian 40 phút theo dõi trên monitor hoặc trong 30 phút siêu âm tim thai. Nhiều nghiên cứu cho thấy với thai nhi bị NNTT thuộc nhóm 2 và nhóm 3 mà chưa có khẳ năng sống nếu bắt thai sớm (thường dưới 34 tuần) thì việc dùng thuốc chống loạn nhịp giúp giảm tỷ lệ tử vong chu sinh từ 56% xuống 9% [12]. Còn với thai nhi thuộc nhóm 1 chỉ cần theo dõi thường xuyên mà chưa cần điều trị ngay. Tuy nhiên, việc dự đoán chính xác diễn biến nặng lên của thai nhi là rất khó khăn và việc điều trị có thể kém hiệu quả hơn nếu thai nhi chuyển sang nhóm nguy cơ 3. Do đó, thai nhi nên được theo dõi chặt chẽ để phát hiện các dấu hiệu của suy thai sớm (nhóm nguy cơ 2), để khởi động điều trị thuốc chống loạn nhịp ngay hoặc chỉ định bắt thai sớm. Sau khi đánh giá phân nhóm nguy cơ cho thai, trước khi bắt đầu điều trị NNTT cho thai theo đường uống của mẹ, cần tiến hành các thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng kỹ càng cho thai phụ như: đo mạch, nghe tiếng tim, đo huyết áp, làm ĐTĐ (phát hiện PR, QT kéo dài, bloc nhĩ – thất), siêu âm tim, xét nghiệm chức năng gan, thận, hormone tuyến giáp, đái tháo đường thai kỳ cũng như loại trừ các vấn đề tự miễn đồng thời được khám sản khoa đánh giá cơn co tử cung, phát hiện sớm các dấu hiệu sinh non sớm. Và đặc biệt cần giải thích thấu đáo cho thai phụ và gia đình hiểu về những nguy cơ biến chứng có thể xảy ra cho mẹ và thai. Lựa chọn thuốc chống loạn nhịp tim dựa trên cơ sở nào? Việc lựa chọn thuốc chống loạn nhịp trong điều trị cơn NNTT cho thai nhi cũng còn nhiều tranh cãi do chưa có các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên nào đánh giá đúng và so sánh hiệu quả tương đối của các loại thuốc hiện đang được sử dụng. Bên cạnh đó, nồng độ thuốc đạt được trong máu mẹ phụ thuộc vào sự hấp thu, phân phối và chuyển hoá của mẹ, bao nhiêu thuốc đến được với thai nhi không chỉ phụ thuộc vào nồng độ thuốc trong máu mẹ mà còn phụ thuộc vào hàng rào bánh nhau. Trong thực tế, nhau thai cũng sản xuất các protein có thể CA LÂM SÀNG 89TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 thay đổi việc chuyển thuốc từ máu mẹ sang thai nhi [16]. Mặc dù vậy, các tiêu chí đánh giá sau khi dùng thuốc thì tương đối rõ ràng như: thai nhi nhanh chóng được khôi phục nhịp xoang ngay từ liều nạp, thai phụ dung nạp tốt hoặc chỉ có tác dụng phụ nhẹ thoáng qua[12] Có nhiều loại thuốc đang được lựa chọn điều trị cơn NNTT ở thai nhi như: Digoxin, Flecainide, Soltalol, Amiodaron theo các cơ chế tác dụng khác nhau (hình 13). Hình 13. Cơ chế tác dụng chống loạn nhịp của các thuốc điều trị cơn NNTT Ở nhiều trung tâm lớn, Digoxin thường được lựa chọn đầu tiên trong phác đồ điều trị cơn NNTT ở thai nhi nhờ khả năng chuyển nhịp xoang là 71 - 90% với thai nhi thuộc nhóm 2 và 20% với thai nhi nhóm 3[17]. Bên cạnh đó, Digoxin được sử dụng rất phổ biến ở người lớn nên bác sĩ có cảm giác yên tâm khi dùng thuốc do tính an toàn khá cao cho mẹ cũng như thai nhi. Tuy nhiên, cần xét nghiệm điện giải đồ và ĐTĐ trước khi dùng thuốc để lựa chọn liều thuốc. Cơ chế của Digoxin làm kéo dài thời gian tái cực của nút nhĩ thất từ đó làm trì hoãn dẫn truyền nhĩ – thất nên thuốc ưu tiên dùng trong trường hợp cơn NNTT có dạng dẫn truyền thất-nhĩ ngắn (được hiểu là cơ chế của cơn NNTT là vòng vào lại theo đường dẫn truyền nhanh). Liều dùng phổ biến của Digoxin là: liều nạp: 1.5mg (TMC)/ trong ngày đầu. Sau đó duy trì đường uống sau 24 giờ khôi phục nhịp xoang.: 0.25- 0.5 mg/ngày, tối đa 0.75mg/ngày, nồng độ thuốc trong máu mẹ cần đạt được là: 1-2ng/mL. Ngoài ra, trong trường hợp đã có phù thai – nhau và điều trị bằng đường bánh nhau thất bại, Digoxin còn được dùng theo đường tiêm trực tiếp vào cơ thai nhi hoặc tiêm vào tĩnh mạch rốn hay tiêm vào buồng ối để khắc phục vấn đề thấm qua hàng rào và trao đổi chất của bánh nhau với liều: 88mcg/kg (ước tính trọng lượng khô của thai) mỗi 8 giờ. Sau đó tiếp tục liều duy trì theo đường uống. Cách tiếp cận này giảm thiểu tác dụng phụ của mẹ, nhưng đòi hỏi các thủ thuật xâm lấn, mang nhiều rủi ro rỉ ối, vỡ ối sớm, nhiễm trùng ối, thai lưu hay sinh non. Trong nghiên cứu của Hansman và cộng sự [18], 2 trong số 13 thai nhi bị ngừng tim khi điều trị bằng phương pháp trực tiếp, còn các nghiên cứu khác cho thấy tỉ lệ biến chứng (kể cả tử vong) của phương pháp này là 1-2%. Do vậy, cân bằng những rủi ro tiềm tàng, chúng tôi cho rằng việc điều trị gián tiếp theo đường uống của mẹ có lẽ an toàn hơn so với điều trị trực tiếp. Tuy nhiên, cần theo dõi chặt thai phụ về cả lâm sàng, ĐTĐ và điện giải đồ hàng ngày để phát hiện sớm các tác dụng phụ như: buồn nôn, nôn, bloc nhĩ thất hay giảm Kali máu mẹ. Có nhiều nghiên cứu đã chứng minh Digoxin không hấp thu hoàn toàn qua nhau thai nhất là khi có phù nhau. Tuy nhiên, khi thất bại với điều trị ban đầu bằng Digoxin, việc bổ sung hoặc thay thế bằng thuốc điều trị RLNT khác còn thiếu sự đồng thuận. Nhiều nghiên cứu đa trung tâm cho thấy Flecainide có thể thấm hoàn toàn qua hàng rào bánh nhau nên kiểm soát được cơn NNTT tới 90 – 100% với thai nhi thuộc nhóm 2 và 50 – 80% thai nhi thuộc nhóm 3, vì vậy, Flecainide là lựa chọn đầu tay trong trường hợp có phù thai – nhau [18,19]. Cơ chế tác dụng của Flecainide trong kiểm soát cơn NNTT là làm chậm dẫn truyền trong cơ tim, kéo dài thời gian trơ của nút CA LÂM SÀNG 90 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 nhĩ thất, tâm nhĩ và tâm thất nên cũng có mối lo ngại về tác dụng làm giảm co bóp cơ tim của Flecainide trên thai nhi, nhưng trong nghiên cứu của MC Yam và cộng sự [20] không thấy có sự giảm chức năng co bóp trên siêu âm tim của thai nhi trong thời gian điều trị. Tuy nhiên trong một số nghiên cứu trước đây cho thấy tỉ lệ tử vong cơ thai nhi là 18%. Liều dùng của Flecainide là: 100-300 (uống) mỗi 8 giờ, tăng lên tối đa 600mg/ngày. Duy trì nồng độ Flecainide trong máu mẹ 0.2 - 1mcg/mL và tỉ lệ nồng độ thuốc trong máu của thai nhi/mẹ là 0.5 -0.97. Cần theo dõi triệu chứng lâm sàng, điện giải đồ và ĐTĐ của mẹ hàng ngày giúp phát hiện sớm các tác dụng phụ như giảm Kali máu, giãn rộng phức hợp QRS gây nguy cơ rối loạn nhịp tim. Trong trường hợp cơn NNTT dạng dẫn truyền thất – nhĩ dài (thường là cơn tim nhanh nhĩ hoặc do vòng vào lại nút nhĩ thất không điển hình) thì Sotalol lại có hiệu quả hơn hẳn Digoxin. Sotalol là một thuốc chẹn beta không chọn lọc, làm kéo dài dẫn truyền nhĩ – thất. Khả năng khôi phục nhịp xoang của Sotalol là 60-70%, thấm qua hàng rào bánh nhau hoàn toàn nên ưu tiên dùng trong trường hợp có phù thai - nhau. Tuy nhiên một số nghiên cứu đầu tiên ghi nhận tỉ lệ tử vong thai là 20-25%. Sotalol được hấp thụ gần hoàn toàn theo đường uống, liều dùng ban đầu: 80 – 120mg (uống) mỗi 8-12 tiếng, tăng tối đa đến 160mg (uống) mỗi 8 tiếng. Cần duy trì nồng độ thuốc trong nước ối/ máu mẹ là 3:1. Thường dừng thuốc sau 1 tuần chuyển nhịp xoang thành công hoặc khi tình trạng phù thai được giải quyết [21]. Khi dùng thuốc có thể theo dõi ngoại trú nhưng tối thiểu nên nằm viện theo dõi 2 ngày đầu dùng thuốc và thời gian tăng liều thuốc. Cần theo dõi nồng độ Calci và magnesium máu của thai phụ cũng như các nguy cơ gây RLNT ở mẹ nhất là liên quan đến hội chứng QTc kéo dài. Ngoài các thuốc chống loạn nhịp trên thì Amiodarone cũng là một lựa chọn trong điều trị cơn NNTT với khả năng chuyển nhịp thành công là 10 -15% với thai nhi thuộc nhóm 2 và 1-5% với thai nhi thuộc nhóm 3. Nhất là trường hợp NNTT dạng nhịp nhanh bộ nối Amiodarone là lựa chọn thay thế tốt nhất nếu thuốc đầu thất bại [22]. Tuy nhiên, Amiodarone không phải là thuốc điều trị đầu tay do có thời gian bán thải kéo dài và nhiều độc tính trên mẹ và thai nhi như gây tăng nguy cơ ngộ độc Digoxin (nếu dùng kết hợp), suy giáp sơ sinh và hội chứng QT kéo dài. Liều nạp ban đầu khá cao với: Uống 800 - 2400 mg/ngày chia 3 - 4 lần/ngày trong 1 tuần đầu, sau đó duy trì 400mg/ngày cho tới sau 1 tuần chuyển được nhịp xoang thai nhi hoặc khi tình trạng phù thai được giải quyết. Nếu cơn NNTT của thai nhi được kiểm soát thành công, tiên lượng nói chung là rất tốt với tỷ lệ tái phát sau sinh khoảng 30% [23], những trường hợp đã có phù thai-nhau, sau khi khôi phục nhịp xoang, chức năng tim được cải thiện nhanh chóng, giảm dần cổ trướng, dịch màng phổi, dịch màng tim và cuối cùng là phù da cũng bến mất, thông thường hết hoàn toàn trong vòng 4 – 6 tuần [24]. Trong trường hợp của chúng tôi, em bé đã được điều trị thành công bằng Flecainide sau khi thất bại với Digoxin sau liệu trình 6 tuần điều trị. Đánh giá tình trạng không đáp ứng của thai nhi và các tác dụng phụ trên thai phụ ? Thai nhi được định nghĩa là không đáp ứng với liệu pháp thai nhi nếu NNTT không biến mất hoặc cải thiện, nguy cơ tử vong thai nhi tình trạng phù thai xuất hiện kéo dài hơn 2 tuần. Khi đó, cần sớm cân nhắc bắt thai sớm nếu thai đủ tuần (thường > 34 tuần) để tiếp tục điều trị RLNT sau sinh cho trẻ. Đối với thai phụ cần theo dõi chặt các triệu chứng lâm sàng như buồn nôn, nôn, tụt huyết áp, nhịp tim chậm cũng như điện tâm đồ, xét nghiệm điện giải đồ, canxi, magne hàng ngày. Việc theo dõi CA LÂM SÀNG 91TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 thêm nồng độ thuốc chống loạn nhịp trong máu là cần thiết để đảm bảo nồng độ thuốc đạt tác dụng trên thai và tránh liều độc cho thai phụ [25]. TÓM LẠI Cơn NNTT ở thai nhi là một nguyên nhân hiếm gặp nhưng có nguy cơ cao gây suy thai, phù thai cũng như chết thai. Cân bằng giữa rủi ro tiềm tàng và lợi ích cho thai thì việc điều trị cơn NNTT ở thai theo đường gián tiếp nên được lựa chọn hơn là con đường trực tiếp. Mặc dù Digoxin là lựa chọn đầu tay trong điều trị cơn NNTT song khi thất bại thì việc thay thế bằng Flecainide lại là một sự lựa chọn tuyệt vời giúp nhanh chóng khôi phục nhịp xoang ở thai nhi. Tuy nhiên, việc điều trị RLNT thai là một công việc hết sức khó khăn và nhạy cảm nên việc tư vấn thấu đáo cho thai phụ và người nhà hiểu rõ những lợi ích và nguy cơ có thế xảy ra và cần theo dõi chặt mẹ - thai nhi tại một cơ sở chuyên khoa có kinh nghiệm xử trí các loại RLNT phức tạp cũng như việc phối hợp đồng bộ giữa các đơn vị tim mạch, sản khoa, nhi khoa và hồi sức trong xử lý kịp thời các biến cố cho mẹ và thai là cực kỳ quan trọng. ABSTRACT Supraventricular tachycardia (SVT) is one of the most common tachycardia in the fetus and usually results in high rates of fetal hydops and demise. However, if properly diagnosed and treated promptly, the fetal heart rate may return to normal and fetal heart failure is restored. In this article, we reported a 26-week- gestational fetus with SVT successfully treated with transplacental Flecainide. We also discussed on diagnostic options, timing options, antiarrhythmic drugs as well as maternal monitoring to avoid potential events. Keywords: Supraventricular tachycardia, Hydrop fetalis, Digoxin, Flecainide. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Gembruch U, Yagel S, Fetal Cardiology: Embryology, Genetics, Physiology, Echocardiographic Evaluation, Diagnosis and Perinatal Management of Cardiac Diseases. London, UK: Taylor and Francis, 2005. 2. Vergani P, Mariani E, Ciriello E, et al. Fetal arrhythmias: natural history and management. Ultrasound Med Biol 2005;31:1–6. 3. Allan LD, Anderson RH, Sullivan ID, Campbell S, Holt DW, Tynan M. Evaluation of fetal arrhythmia by echocardiography. Br Heart J 1983;50:240-5. 4. Kleinman CS, Copel JA. Direct fetal therapy for cardiac arrhythmias: who, what, when, where, why and how? Ultrasound Obstet Gynecol 1991;1:158-60. 5. Smythe JF, Copel JA, Kleinman CS. Outcome of prenatally detected cardiac malformations. Am J Cardiol 1992;69:1471-4. 6. Naheed ZJ, Strasburger JF, Deal BJ, Benson Jr DW, Gidding SS. Fetal tachycardia: mechanisms and predictors of hydrops fetalis. J Am Coll Cardiol 1996; 27: 1736-40. 7. Wren C. Mechanisms of fetal tachycardia. Heart 1998; 79: 536-7. 8. Jaeggi E, Fouron JC, Fournier A, van Doesburg N, Drblik SP. Ventriculo-atrial time interval measured on M mode echocardiography: a determining element in diagnosis, treatment, and prognosis of fetal supraventricular tachycardia. Heart 1998; 79: 582-7. CA LÂM SÀNG 92 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 82.2018 9. Oudijk MA, Stoutenbeek P, Sreeram N, Visser GH, Meijboom EJ. Persistent junctional reciprocating tachycardia in the fetus. J Ma- tern Fetal Neonatal Med 2003; 13: 191-6. 10. Ko J, Deal BJ, Strasburger JF, Benson DW Jr. Supraventricular tachycardia mechanisms and their age distribution in pediatric patients. Am J Cardiol 1992;69:1028–32. 11. Porter MJ, Morton JB, Denman R, et al. In uence of age and gender on the mechanism of supraventricular tachycardia. Heart Rhythm. 2004; 1(4):393-396. 12. Simpson JM, Sharland GK. Fetal tachycardias: management and outcome of 127 consecutive cases. Heart 1998;79:576-81. 13. Kleinman CS, Hobbins JC, Jaffe CC, Lynch DC, Talner NS. Echocardiographic studies of the human fetus: prenatal diagnosis of congenital heart disease and cardiac dysrhythmias. Pediatrics 1980; 65: 1059-67. 14. Fouron JC, Proulx F, Miro J, Gosselin J. Doppler and M-mode ultrasonography to time fetal atrial and ventricular contractions. Obstet Gynecol 2000; 96: 732-6. 15. Carvalho JS, Prefumo F, Ciardelli V, Sairam S, Bhide A, Shine- bourne EA. Evaluation of fetal arrhythmias from simultaneous pulsed wave Doppler in pulmonary artery and vein. Heart. 2007; 93: 1448-53. 16. Ward R M. Pharmacological treatment of the fetus. Clin Pharmaki- net 1995; 28: 343-50. 17. Van Engelen AD, Weijtens O, Brenner JI, et al. Management, outcome and follow-up of fetal tachycardia. J Am Coll Cardol 1994;24:1371-5 18. Hansmann M, Gembruch U, Bald R, et al. Fetal tachyarrhythmias: transplacental and direct treatment of the fetus – a report of 60 cases. Ultrasound Obstet Gynecol 1991; 1:162-70. 19. Frohn-Mulder IM, Stewart PA, Witsenburg M, Den Hollander NS, Wladimiroff JW, Hess J. The efficacy of flecainide versus digoxin in the management of fetal supraventricular tachycardia. Prenat Diagn 1995;15:1297-302. 20. MC Yam, TY Leung, TK Lau, RYT Sung. A Fetus with Hydropic Change Secondary to Fetal Supraventricular Tachycardia. HK J Paediatr (new series) 2003;8:130-132. 21. Oudijk MA, Ruskamp JM, Ververs FF, Ambachtsheer EB, Stoutenbeek P, Visser GH, Meijboom EJ. Treatment of fetal tachycardia with sotalol: transplacental pharmacokinetics and pharmacodynamics. J Am Coll Cardiol 2003; 42: 765 – 770. 22. Mangione R, Guyon F, Vergnaud A, Jimenez M, Saura R, Horovitz J. Successful treatment of refractory supraventricular tachycardia by repeat intravascular injection of amiodarone in a fetus with hydrops. Eur J Obstet Gynecol Reprod Biol. 1999; 86: 105-7. 23. TortorielloTA,SnyderCS,SmithEO,FenrichAL,Jr.,FriedmanRA,KerteszNJ. Frequency of recurrence among infants with supraventricular tachycardia and comparison of recurrence rates among those with and without preexcitation and among those with and without response to digoxin and/or propranolol therapy. Am J Cardiol. 2003;92:1045-1049. 24. Maurizio Mongiovì* and Salvatore Pipitone. Supraventricular Tachycardia in Fetus: How Can We Treat ?, Current Pharmaceutical Design, 2008, 14, 736-742. 25. Miyoshi T, et al, Antenatal antiarrhythmic treatment for fetal tachyarrhythmias: a study protocol for a prospective multicentre trial BMJ Open 2017;7:e016597. doi:10.1136/bmjopen-2017-016597.
File đính kèm:
- chan_doan_va_dieu_tri_con_nhip_nhanh_tren_that_o_thai_nhi_nh.pdf