Xác định promotor biểu hiện gen dhs-21 mã hoá Dicarbonyl/L-xylulose reductase trong Caenorhabditis elegans
TÓM TẮT
Dicarbonyl/L-xylulose reductase (DCXR) là một enzyme thuộc nhóm dehydrogenase và thực hiện chuyển
hoá L-xylulose thành xylitol với sự tham gia của cofactor NADH hoặc NADPH in vitro. Enzyme này có mặt ở
nhiều loài sinh vật thuộc vi khuẩn, nấm và động thực vật. Những nghiên cứu liên quan trước đã công bố nhiều
kết quả về cấu trúc, tính chất và hoá sinh của enzyme nhưng chức năng sinh học của nó vẫn còn là bí ẩn và khó
thực hiện trên động vật mô hình chuột hay tế bào người vì có nhiều gen đồng dạng DCXR. Rất may mắn, trong
nghiên cứu trước chúng tôi đã khẳng định rằng trong hệ gen tuyến trùng (giun tròn) mô hình Caenorhabditis
elegans tự nhiên chỉ có một gen mã hóa DCXR đó là dehydrogenase-21 (dhs-21). Vì vậy, Ce.dhs-21 và C.
elegans là mô hình thuận lợi cho nghiên cứu biểu hiện và chức năng sinh lý của nhóm enzym DCXR. Nghiên
cứu này xác nhận sự biểu hiện của gen dhs-21 ở mức in vivo. Chúng tôi đã xác định và thực hiện chuyển ba
trình tự promoter và gen dhs-21 vào vector tái tổ hợp gắn Green Fluorescent Protein (GFP). Những vector tái
tổ hợp đó được chuyển vào trong giun lưỡng tính dhs-21(jh129) và C. elegans N2 bằng kỹ thuật chuyển gen vi
tiêm (microinjection). Kết quả cho thấy promoter p2 điều hoà biểu hiện của gen dhs-21 ổn định và giống với
tiêu bản immunogold Electric Microscopy (EM). dhs-21 biểu hiện trong giun lưỡng tính và giun đực từ giai
đoạn phôi thai cho tới khi giun chết. DHS-21 xuất hiện ở trong tế bào chất của tế bào ruột, tế bào biểu mô ống
sinh dục (gonad sheath cells), tế bào utse (uterin seam cell).
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xác định promotor biểu hiện gen dhs-21 mã hoá Dicarbonyl/L-xylulose reductase trong Caenorhabditis elegans
Tạp chí Công nghệ Sinh học 15(2): 359-365, 2017 359 XÁC ĐỊNH PROMOTOR BIỂU HIỆN GEN dhs-21 MÃ HOÁ DICARBONYL/L-XYLULOSE REDUCTASE TRONG CAENORHABDITIS ELEGANS Lê Thọ Sơn1, 2, * , Joohong Ahnn2, Jeong Hoon Cho3, Nguyễn Huy Hoàng4 1Viện Công nghệ sinh học lâm nghiệp, Trường Đại học Lâm nghiệp, Việt Nam 2Trường Khoa học tự nhiên, Đai học Hanyang, Seoul 133-791, Hàn Quốc 3Trường Sư phạm, Đại học Chosun, Gwangju 500-712, Hàn Quốc 4Viện Nghiên cứu hệ gen, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam * Người chịu trách nhiệm liên lạc. E-mail: sonacademiasinica@gmail.com Ngày nhận bài: 12.9.2014 Ngày nhận đăng: 20.4.2017 TÓM TẮT Dicarbonyl/L-xylulose reductase (DCXR) là một enzyme thuộc nhóm dehydrogenase và thực hiện chuyển hoá L-xylulose thành xylitol với sự tham gia của cofactor NADH hoặc NADPH in vitro. Enzyme này có mặt ở nhiều loài sinh vật thuộc vi khuẩn, nấm và động thực vật. Những nghiên cứu liên quan trước đã công bố nhiều kết quả về cấu trúc, tính chất và hoá sinh của enzyme nhưng chức năng sinh học của nó vẫn còn là bí ẩn và khó thực hiện trên động vật mô hình chuột hay tế bào người vì có nhiều gen đồng dạng DCXR. Rất may mắn, trong nghiên cứu trước chúng tôi đã khẳng định rằng trong hệ gen tuyến trùng (giun tròn) mô hình Caenorhabditis elegans tự nhiên chỉ có một gen mã hóa DCXR đó là dehydrogenase-21 (dhs-21). Vì vậy, Ce.dhs-21 và C. elegans là mô hình thuận lợi cho nghiên cứu biểu hiện và chức năng sinh lý của nhóm enzym DCXR. Nghiên cứu này xác nhận sự biểu hiện của gen dhs-21 ở mức in vivo. Chúng tôi đã xác định và thực hiện chuyển ba trình tự promoter và gen dhs-21 vào vector tái tổ hợp gắn Green Fluorescent Protein (GFP). Những vector tái tổ hợp đó được chuyển vào trong giun lưỡng tính dhs-21(jh129) và C. elegans N2 bằng kỹ thuật chuyển gen vi tiêm (microinjection). Kết quả cho thấy promoter p2 điều hoà biểu hiện của gen dhs-21 ổn định và giống với tiêu bản immunogold Electric Microscopy (EM). dhs-21 biểu hiện trong giun lưỡng tính và giun đực từ giai đoạn phôi thai cho tới khi giun chết. DHS-21 xuất hiện ở trong tế bào chất của tế bào ruột, tế bào biểu mô ống sinh dục (gonad sheath cells), tế bào utse (uterin seam cell). Từ khoá: Biểu hiện của gen dhs-21, Caenorhabditis elegans, chuyển gen bằng kỹ thuật vi tiêm (microinjection), dicarbonyl/L-xylulose reductase (DCXR), green fluorescent protein (GFP), promoter, tuyến trùng mô hình. MỞ ĐẦU Dicarbonyl/ L-xylulose reductase (DCXR) thuộc nhóm aldo-keto reductase và xuất hiện ở rất nhiều sinh vật bậc thấp cho tới sinh vật bậc cao. Trong nấm men, nó thực hiện chuyển hoá L-xylulose thành xylitol theo cả hai chiều ngược và xuôi. Trong nhóm sinh vật tiến hóa hơn bao gồm động vật, DXCR xúc tác chuyển hoá L-arabinose trong con đường trao đổi chất (oxy hóa khử) oxy-reductive L-arabinose (Fonseca et al., 2007).Trong sinh vật bậc cao, DCXR thực hiện xúc tác phản ứng chuyển hoá đường trong trao đổi đường ví dụ như glucose (Kaneko et al., 1997). Sự thiếu hụt DCXR gây ra hội chứng Pentosoria (nồng độ L-xylulose và/hoặc xylitol cao) và gây ra chẩn đoán nhầm bệnh tiểu đường ở người (Lane, Jenkins, 1985). Các chất carbonyl thường được tạo ra trong quá trình trao đổi chất và oxi hoá nội bào (Busch et al., 2010). Trong số đó, các phân tử mang nhóm α- dicarbonyl có độ hoạt động cao và có khả năng kết hợp với các thành phần quan trọng trong tế bào để tạo ra những phức hợp bị đường hóa AGE (Advanced glycation end-products). Hàm lượng AGE thường gắn liền với bệnh ở thận và lão hoá sớm. DCXR khử phức chất mang α-dicarbonyl nhất định, các aldehyde và ketone xuất hiện nội tại hoặc xâm nhập vào cơ thể (Nakagawa et al., 2002). Ngoài ra, DCXR biểu hiện mạnh trong ung thư Lê Thọ Sơn et al. 360 tinh hoàn vì vậy nó được sử dụng như là một chỉ thị trong chẩn đoán ung thư tinh hoàn ở người (Cho- Vega et al., 2007a). DCXR được xác định biểu hiện trên màng tinh tử do vậy nó được cho là có thể giúp cho tinh trùng dung hợp với trứng (Cho-Vega et al., 2007b). Mặc dù các nghiên cứu đã xác định DCXR vai trò hoá sinh in vitro và dự báo vai trò sinh lý của chúng nhưng chưa có thực nghiệm chứng minh vai trò sinh lý của enzyme này. Chúng tôi tìm thấy gen dhs-21 đồng dạng duy nhất của DCXR trong hệ gen của sinh vật mô hình Caenorhabditis elegans (C. elegans) (Brenner, 1973). Có lẽ kết quả nghiên cứu dhs-21 trong C. elegans sẽ là cơ sở tham khảo cho các nghiên cứu DCXR ở các đối tượng khác. Trong nghiên cứu này chúng tôi trình bày phương pháp và kết quả xác định promoter điều hòa sự biểu hiện của gen dhs-21 trong giun C. elegans N2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Vật liệu Các chủng giun được sử dụng bao gồm: C. elegans N2 (nhập từ trung tâm giun Caenorhabditis Genetics Center (CGC), Hoa Kỳ) (Sơn, 2015) và dhs-21 (jh129) (Son le et al., 2011). Các chủng vi khuẩn bao gồm E. coli OP50 (nhập từ CGC) (May et al., 2009) và DH5α. Tất cả các hoá chất dùng trong thí nghiệm là Aldrich-Sigma và những enzyme giới hạn của hãng Roche và New England Biolabs (mua từ một số chi nhánh phân phối tại Hàn Quốc). Các vector được sử dụng pPD95_75 và pPD95_77 (tham khảo tại Xác định loại protein Để dự đoán được dhs-21 mã hoá protein nào, trình tự amino acid suy luận từ thư viện cDNA được so sánh với ngân hàng trình tự protein (theo dữ liệu trên NCBI và wormbase). Tiếp đến, trình tự amino acid DHS-21 được so sánh với DXCR của người và họ chuột bằng chương trình Clustal X. Tạo vector biểu hiện Ex1, Ex2 và Ex3 Ba trình tự promoter tại đầu 5’ của gen dhs-21 trong genome được phân lập bằng kỹ thuật PCR. Để có DNA tổng số của hệ gen , ba cá thể giun được nhặt vào ống PCR có 20 µl dung dich phân giải (30 mM Tris pH8, 8 mM EDTA, 100 mM NaCl, 0.7% NP40, 0.7% Tween 20, 100 µg/ml proteinase K). Ống được ủ lạnh 60 phút ở -860C trong tủ lạnh hoặc vài phút ở -1960C bằng nitrogen lỏng . Nhiệt độ lạnh làm rạn nứt lớp cutin bên ngoài bao bọc cơ thể giun và phá vỡ các tế bào. Tiếp đến ống mẫu được ủ nhiệt 60oC trong 30 phút; 95oC trong 15 phút; 04oC trong 10 phút bằng máy PCR (Applied Biosystems GeneAmp PCR system 9700). Kết quả DNA được giải phóng khỏi tế bào giun (Ahringer, 2006). Các primer được thiết kế cho mỗi trình tự promoter với các đầu 5’ gắn thêm trình tự cắt Hind III và đầu 3’ gắn trình tự cắt XbaI (Bảng 1). Chu trình nhiệt để khuếch đại mỗi promoter bằng PCR như sau : biến tính DNA ở 95oC trong 03 phút; 20 chu kỳ PCR (biến tính ở 94oC trong 02 phút; gắn mồi ở 70oC trong 30 giây; phản ứng kéo dài sản phẩm ở 72oC từ trong 03 phút); kéo dài sản phẩm ở 72oC trong vòng 04 phút; hạ nhiệt phản ứng ở 04oC trong 10 phút. Bảng 1. Các cặp mồi (primers) được sử dụng. Các mồi được gắn thêm những trình tự nucleotide cắt bởi enzyme giới hạn HindIII, XbaI, PstI và SmaI tương ứng. Trình tự nucleotide được bôi đậm và gạch chân là vị trí cắt của enzyme giới hạn. Tên mồi Trình tự (5'>3') Chiều Phản ứng PCR HindIII F1 CCCAAGCTTAGTTGAAGAACATCAG Xuôi p1 HindIII F2 CCCAAGCTTGATGAAACGGTTAG Xuôi p2 HindIII F3 CCCAAGCTTACTTGAGAGAGCCAT Xuôi p3 XbaI R3 CTAGTCTAGACATTGTTTCGTCAGATGATA Ngược p1, p2, p3 PstI IF AAACTGCAGGAG ATTAAGAAATG Xuôi gen dhs-21 SmaI IR TTCCCCGGGGTTATTCGAAAATC Ngược gen dhs-21 Tạp chí Công nghệ Sinh học 15(2): 359-365, 2017 361 Sản phẩm PCR được chuyển vào vector pPD95_75 giữa vị trí HindIII và XbaI. Khi vector tái tổ hợp hoạt động GFP được tổng hợp. GFP phát ra màu ánh sáng bước sóng xanh 509 nm với đỉnh 540 nm khi hấp thụ sóng huỳnh quang 395 nm với đỉnh 470 nm (Chalfie et al., 1994). Để không làm đột biến và thu được số lượng lớn vector, mỗi vector tái tổ hợp được chuyển vào trong tế bào khả biến DH5α và nuôi cấy trên môi trường LA (LB broth + agar) có bổ sung 50 ng/ml ampicillin. Tạo vector Ex4 [p2::dhs-21::GFP] Toàn bộ gen dhs-21 trong cosmid WRM062cA12 được nhân lên bằng PCR; sản phẩm này có mang trình tự cắt của enzyme PstI tại đầu 5’ và SmaI tại đầu 3’. Gen dhs-21 được kiểm tra trình tự để đảm bảo không có bất kỳ đột biến trình tự nucleotide nào sau khi gắn vào vector pPD95_77 giữa PstI và SmaI. Kỹ thuật chuyển gen vi tiêm Kỹ thuật vi tiêm được sử dụng để đưa các vector tái tổ hợp vào trong tế bào trứng dung hợp chưa thụ tinh trong buồng trứng giun lưỡng tính C. elegans N2 ở giai đoạn ấu trùng L4. Để biết giun có tiếp nhận vector sau khi vi tiêm, vector pRF4 mang rol-6 đột biến trội gây ra kiểu hình roller được vi tiêm đồng thời. Xuất hiện F1 với kiểu hình roller thì chứng tỏ thí nghiệm chuyển gen vi tiêm thành công (Evans, 2005). Biểu hiện của gen dhs-21 Các dòng giun được nuôi trong đĩa NGM (nematode growth medium) bao gồm: 3 g NaCl, 17 g agar, 2,5 g peptone, 975 ml H2O, 01 ml 1M CaCl2, 01 ml 5 mg/ml cholesterol trong ethanol, 01 ml MgSO4 và 25 ml KPO4) có nuôi trải E. coli OP50. Giun được đưa lên tiêu bản và chụp ảnh bằng kính hiển vi huỳnh quang (kính soi nổi Zeiss có gắn nguồn tia cực tím (UV). KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN dhs-21 mã hoá decarbonyl/L-xylulose reductase Dựa vào phân tích trình tự cDNA, DHS-21 có 251 amino acid , thuộc dạng dehydrogenase tiêu biểu vì có nhiều đặc điểm tương đồng với dehydrogenase ví dụ hai trình tự tương ứng với G8-XXX-G12-X- G14 đầu N là vị trí liên kết với cofactor (Grimm et al., 2000) và Y155-XXX-K159 và S134 trình tự trong trung tâm phản ứng (Nakagawa et al., 2002). DHS-21 có trình tự amino acidtương đồng với DCXR của chuột (Nakagawa et al., 2002) (chuột nhà: 48% giống tuyệt đối và 67% giống tương đối; chuột Norway (Ishikura et al., 2003) 49%-68%) và DCXR của người ( (Ishikura et al., 2003) (47%- 68%) (Hình 1). MoDCXR : RaDCXR : HuDCXR : CeDHS-21 : * 40 * ..MDLGLAGRRALVTGAGKGIGRSTVLALKAAGAQVVAVSRTREDLDDLVRECPGVEPVCVDLA.DWE ..MDLGLAGRRALVTGAGKGIGRSTVLALQAAGAQVVAVSRTREDLDSLVRECPGVEPVCVDLA.DWE ..MELFLAGRRVLVTGAGKGIGRGTVQALHATGARVVAVSRTQADLDSLVRECPGIEPVCVDLG.DWE MPANYDFTDKRILVTGASQGIGKEICLSLAKAGAQVIAFARNEANLLSLVKETTSLRYTIIPIVGDVS G G G R : 65 : 65 : 65 : 68 MoDCXR : RaDCXR : HuDCXR : CeDHS-21 : 80 * 120 ATEQALSNVG....PVDLLVNNAAVALLQPFLEVTKEACDTSFNVNLRAVIQVSQIVAKGMIARGVPG ATEQALSNVG....PVDLLVNNAAVATLQPFLEVTKEACDTSFNVNFRAVVQVSQIVARGMIARGVPG ATERALGSVG....PVDLLVNNAAVALLQPFLEVTKEAFDRSFEVNLRAVIQVSQIVARGLIARGVPG ANEEVLFKLIVPHFPIHGLVNNAGIATNHAIGQITQQSIDRTFAVNVRGPILIAQLVARNFVDRQIKG : 129 : 129 : 129 : 136 MoDCXR : RaDCXR : HuDCXR : CeDHS-21 : * 160 * 200 AIVNVSSQASQRALTNHTVYCSTKGALDMLTKMMALELGPHKIRVNAVNPTVVMTPMGRTNWSDPHKA AIVNVSSQASQRALTNHTVYCSTKGALDMLTKVMALELGPHKIRVNAVNPTVVMTPMGRANWSDPHKA AIVNVSSQCSQRAVTNHSVYCSTKGALDMLTKVMALELGPHKIRVNAVNPTVVMTSMGQATWSDPHKA SIVNISSQAAIRPLDNHTVYCASKAALDMVTRCLANELGSQNIRVNSVNPTVVMTDMGRDNWSDPDKK S Y K : 197 : 197 : 197 : 204 MoDCXR : RaDCXR : HuDCXR : CeDHS-21 : * 240 KAMLDRIPLGKFAEVENVVDTILFLLSNRSGMTTGSTLPVDGGFLAT KVMLDRIPLGKFAEVENVVDTILFLLSNRSSMTTGSALPVDGGFLAT KTMLNRIPLGKFAEVEHVVNAILFLLSDRSGMTTGSTLPVEGGFWAC KKMLDRMPIKRFAEVDEVVNAVLFLLSDNASMTTGSTLPVDGGFSNN : 244 : 244 : 244 : 251 Hình 1. So sánh trình tự amino acid của DHS-21 với DCXRs. Mo-mouse (chuột nhà), Ra-rat (chuột Norway), Hu-human (người) và Ce-C. elegans và mã DCXR lần lượt là Q91X52, Q920P0, Q7Z4W1 và Q21929. Trình tự GxxxGxGx18R gắn kế NADH hoặc NADPH. Trình tự Sx12YxxxK gắn L-xylulose. Lê Thọ Sơn et al. 362 Tạo vector tái tổ hợp pdhs-21::GFP Hình 2. Xác định promoter. Độ lớn của các promoter từ sản phẩm PCR (A). Các dòng vi khuẩn có mang promoter được cắt bằng enzyme giới hạn Hind III và XbaI (B). C1, C3 và C4; C5, C6, C7, C8 và C9; C12 là những vector Ex1; Ex2; và Ex3 mang promoter p1, p2 và p3 tương ứng; mk-thang tiêu chuẩn độ lớn vạch DNA; ct-đối chứng. Thông thường các promoter điều hòa hoạt động phiên mã các gen mã hoá protein mang từ 12 đến 21 trình tự TATA trong khoảng 2-3 kb và nằm giữa gen quan tâm và gen đứng trước nó hoặc một phần của gen đứng trước nó. Thêm vào đó, phần mềm PROMO được dùng để tham khảo thêm vị trí bám của một số yếu tố phiên mã. Vì vậy, bằng cách phán đoán từ hệ gen, ba trình tự promoter 1 (1052 bp), 2 (2027 bp) và 3 (2988 bp) (gọi tắt là theo thứ tự p1, p2 và p3) nằm ngay trước nucleotide A của mã khởi đầu trong gen dhs-21 được chọn. Ba promoter được khuếch đại từ hệ gen bằng kỹ thuật PCR (Hình 2A), sau đó được cắt bằng enzyme giới han và gắn vào vector pPD95_75 có GFP bằng DNA ligase. Từng vector được biến nạp vào tế bào E. coli DH5α để tạo dòng khác nhau và do vậy có thể tăng lượng lớn vector giống hệt nhau. Kết quả, ba vector tái tổ hợp tương ứng Ex1, Ex2 và Ex3 đã được thiết kế (Hình 2B). Vì p1, p2 và p3 được phân lập ban đầu bằng kỹ thuật PCR nên có thể mang một đến vài đột biến điểm rải rác trong trình tự nucleotide. Các đột biến nhỏ rải rác được cho rằng ảnh hưởng không đáng kể tới khả năng điều hoà biểu hiện của gen. Thêm nữa, việc tìm một promoter với từ hai đến ba ngàn nucleotide không có bất kỳ đột biến điểm nào sẽ mất nhiều thời gian. Vì vậy những biểu hiện của gen dưới sự điều khiển của promoter có tính tương đối. Tuy nhiên, để biết hơn sự chính xác của biểu hiện của dhs-21 dưới sự điều khiển promoter (Hình 3), kết quả immunogold EM (electron microscope) cũng được so sánh (Hình 4). Biểu hiện của gen dhs-21 Tổng số 210 cá thể đột biến dhs-21 (jh129) được vi tiêm, 60 cá thể được vi tiêm với Ex1, 62 con với vector Ex2 và 108 con với Ex3. Sau vi tiêm, một số cá thể bị chết hoặc không thể sinh con do tổn thương và/hoặc độc tính vì lượng hoặc cấu trúc vector tái tổ hợp. Từ các dòng tái tổ hợp, chúng tôi đã chọn được 02 cá thể F1 có kiểu hình roller mang Ex1, 10 con kiểu hình di chuyển cuộn tròn (roller) mang Ex2 và Hình 3. Biểu hiện tương đồng của gen dhs-21 trong N2 và dhs-21(jh129). dhs-21 (màu xanh) biểu hiển trong tế bào biểu mô ngoài của ấu trùng L1 (A), utse (mũi tên ngắn) và cơ quan sinh sản (mũi tên dài) (B), cơ quan sinh sản đực (mũi tên) (C), ruột con lưỡng tính (D) và con đực (E). Biểu hiện của dhs-21 trong ruột ấu trùng L1 (F), ruột (mui tên ngắn), và cơ quan sinh sản đực (mũi tên dài) ở tuổi trưởng thành (G), cơ quan sinh sản cái (mũi tên ngắn) và utse (mũi tên dài) (H). Thước đo 50 hoặc 100 µm. Tạp chí Công nghệ Sinh học 15(2): 359-365, 2017 363 03 cá thể kiểu hình roller mang Ex3 từ thế hệ mẹ P0 được chuyển gen bằng vi tiêm. Tiếp tục theo dõi các thế hệ tiếp theo F2 và F3 bằng chỉ thị GFP dưới kính hiển vi huỳnh quang cho thấy các dòng được chuyển Ex3 biểu hiện GFP rất yếu và mất hoàn toàn ở thế hệ F2, F3 và F4; dòng được chuyển Ex1 không biểu hiện GFP; ngược lại, 05 dòng mang Ex2 biểu hiện GFP bền vững. Từ rất nhiều thế hệ, biểu hiện của dhs-21 được xác định ở trong phần tế bào chất của tế bào ở ruột và cơ quan sinh sản của cá thể lưỡng tính và đực liên tục trong toàn bộ vòng đời. dhs-21 còn biểu hiện ở tế bào cơ quan sinh sản đực và utse (uterous seam cell) của con lưỡng tính ở giai đoạn trưởng thành (Hình 3A-E). dhs-21 được biểu hiện ở các tế bào biểu bì ở giai đoạn ấu trùng L1 và L2. Biểu hiện ổn định này xuất hiện ở cả hai nhóm dòng chuyển gen có nguồn gốc từ dhs-21 (jh129) và dòng tự nhiên N2. Hình 4. Ảnh immunogold EM được nhuộm bởi kháng thể kháng DHS-21. Ruột của giun lưỡng tính N2 (a) và của dòng đột biến dhs-21 (jh129) (b). Cơ quan sinh sản của N2 (c) và dhs-21 (jh129) (d). Thước đo: 02 µm. Để biết mô hình biểu hiện của gen, vector Ex4 [p2::dhs-21::GFP] được tạo ra bằng cách gắn gen p2 và gen dhs-21 vào vector pPD95_77 (có mang gen GFP). Kết quả là mô hình biểu hiện của gen dhs-21 không khác nhau giữa Ex4 và Ex2 khi được chuyển vào giun dhs-21(jh129) và N2 (Hình 3F-H). Vì Ex4 và Ex2 là các vector ngoại lai nên cần kiểm tra độ tin cậy của biểu hiện dhs-21, trong một nghiên cứu khác (không mô tả chi tiết trong nghiên cứu này), chúng tôi đã so sánh với immunogold EM (Son le et al., 2011) và kết quả cho thấy hoàn toàn tương đồng (Hình 4). Vì p2 có thể điều khiển biểu hiện gen ở tế bào ruột, cơ quan sinh sản và utse, nên p2 có thể được dùng để biểu hiện gen khác với dhs-21 c trong tế bào của ruột, cơ quan sinh sản và utse. Điều đặc biệt là chưa có công trình công bố nghiên cứu vai trò của utse, một cấu trúc chỉ được tạo từ một tế bào duy nhất trong số 953 tế bào của cơ thể giun lưỡng tính (Sulston, Horvitz, 1977), vì vậy p2 mở ra một công cụ để nghiên cứu biểu hiện và chức năng của gen chỉ biểu hiện trong tế bào dung hợp utse. KẾT LUẬN Có những phương pháp khác nhau xác định biểu hiện của một gen. Phương pháp biểu hiện protein phát huỳnh quang (GFP, RFP và YFP) do promoter nhất định điều khiển cho phép nhìn được vị trí, và thời điểm phát triển mà gen được biểu hiện ở mức độ bào quan. Đây là một trong những tính chất quan trọng và thuận lợi khi sử dụng C. elegans làm mô hình khi nghiên cứu di truyền phân tử. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã dự đoán promoter của dhs-21, sử dụng enzyme giới hạn để tạo ra vector tái tổ hợp Lê Thọ Sơn et al. 364 mang gen gfp và promoter đó. Khi promoter hoạt động, GFP được biểu hiện, đó cũng chính là biểu hiện của gen chủ định dhs-21. Lời cảm ơn: Chúng tôi cảm ơn sự trợ giúp của Giáo sư Jae-Ran Yu tại trường đại học Koonkuk và Tiến sỹ Gunasekaran Singaravelu tại Viện Nghiên cứu Waksman, Hoa Kỳ vì những đóng góp khác trong nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ahringer J (2006) Reverse genetics., in The C. elegans Research Community, eds. WormBook. doi/10.1895/wormbook.1.47.1, Brenner S (1973) The genetics of Caenorhabditis elegans. Genetics 77: 71-94 Busch M, Franke S, Ruster C, Wolf G (2010) Advanced glycation end-products and the kidney. ESCI 40: 742-755 Chalfie M, Tu Y, Euskirchen G, Ward WW, Prasher DC (1994) Green fluorescent protein as a marker for gene expression. Science 263: 802-805 Cho-Vega JH, Tsavachidis S, Do KA, Nakagawa J, Medeiros LJ, McDonnell TJ (2007a) Dicarbonyl/L- xylulose reductase: a potential biomarker identified by laser-capture microdissection-micro serial analysis of gene expression of human prostate adenocarcinoma. Cancer Epidemiol Biomarkers Prev. 16: 2615-2622 Cho-Vega JH, Vega F, Schwartz MR, Prieto VG (2007b) Expression of dicarbonyl/L-xylulose reductase (DCXR) in human skin and melanocytic lesions: morphological studies supporting cell adhesion function of DCXR. J Cutan Pathol 34: 535-542. Evans TC (2005) Transformation and microinjection. In The C. elegans Research Community, eds. WormBook. doi/10.1895/wormbook.1.108.1, Fonseca C, Romao R, Rodrigues de Sousa H, Hahn- Hagerdal B, Spencer-Martins I (2007) L-Arabinose transport and catabolism in yeast. FEBS J 274: 3589-3600 Grimm C, Maser E, Mobus E, Klebe G, Reuter K, Ficner R (2000) The crystal structure of 3alpha -hydroxysteroid dehydrogenase/carbonyl reductase from Comamonas testosteroni shows a novel oligomerization pattern within the short chain dehydrogenase/reductase family. J Biol Chem 275: 41333-41339 Ishikura S, Isaji T, Usami N, Nakagawa J, El-Kabbani O, Hara A (2003) Identification of amino acid residues involved in substrate recognition of L-xylulose reductase by site-directed mutagenesis. Chem Bi Interact 143-144: 543-550 Kaneko JJ, Harvey JW, Bruss M (1997) Clinical Biochemistry of Domestic Animals, 5th ed. Academic Press, San Diego, CA Lane AB, Jenkins T (1985) Human L-xylulose reductase variation: family and population studies. Ann Hum Genet 49: 227-235 May RC, Loman NJ, Haines AS, Pallen MJ, Boehnisch C, Penn CW, Lee CH, Kim J (2009) The genome sequence of E. coli OP50. The WBG 18: 1 Nakagawa J, Ishikura S, Asami J, Isaji T, Usami N, Hara A, Sakurai T, Tsuritani K, Oda K, Takahashi M, Yoshimoto M, Otsuka N, Kitamura K (2002) Molecular characterization of mammalian dicarbonyl/L-xylulose reductase and its localization in kidney. J Biol Chem 277: 17883-17891 Son le T, Ko KM, Cho JH, Singaravelu G, Chatterjee I, Choi TW, Song HO, Yu JR, Park BJ, Lee SK, Ahnn J (2011) DHS-21, a dicarbonyl/L-xylulose reductase (DCXR) ortholog, regulates longevity and reproduction in Caenorhabditis elegans. FEBS Lett 585: 1310-1316 Sơn LT (2015) Caenorhabditis elegans - động vật mô hình trong nghiên cứu sinh học phân tử. VJS. Sulston JE, Horvitz HR (1977) Post-embryonic cell lineages of the nematode, Caenorhabditis elegans. Dev Biol 56: 110-156 PROMOTERS OF THE dhs-21 GENE ENCODING DICARBONYL/L-XYLULOSE REDUCTASE IN CAENORHABDITIS ELEGANS Le Tho Son 1, 2, Joohong Ahnn2, Jeong Hoon Cho3, Nguyen Huy Hoang4 1College of Forestry Biotechnology, Vietnam National University of Forestry, Vietnam 2College of Natural Sciences, Hanyang University, Seoul 133-791, Republic of Korea 3College of Education, Chosun University, Gwangju 501-759, Republic of Korea 4Institute of Genome Research, Vietnam Academy of Science and Technology SUMMARY Dicarbonyl/L-xylulose (DCXR) was identified as a dehydrogenase. This type of enzyme was presented in Tạp chí Công nghệ Sinh học 15(2): 359-365, 2017 365 various forms of lives including bacteria, fungi, plants and animals. Generally, it converts L-xylulose to xylitol in the presence of either cofactor NADH or NADPH in vitro. Previous studies reported the biochemistry properties and crystal structure but largely uncovered biological roles of DCXRs. It was impossible to dissect the functions in mice or human cells that had many DCXR homologs in their genomes. Interestingly, the wild- type Caenorhabditis elegans, a well-known model organism in biological research, has only nuclear genomic dhs-21 that encodes a unique homologous DCXR. Thus Ce.dhs-21 and the host C. elegans were relevant for investigation of the physiologically-vital functions of the DCXR. This research aimed to the expression of dhs-21 in vivo. We defined three promoters , manipulated three relative reporter-constructs that conjugated the dhs-21 gene and Green Flouresent Protein (known as GFP) one. The construct vectors were transferred into wild-type C. elegans N2 and as well as the hermaphroditic loss of function dhs-21(jh129) by microinjection. In the results, we found that the expression pattern of dhs-21 under the only p2-promoter construct was stable and similar to immunogold Electric Microscopy (EM) images. The dhs-21 gene was expressed in both sexes of at all larval stages till the deaths of worms. DHS-21 was expressed in the cytosol of the intestinal, gonad sheath and uterous seam cell (utse). Keywords: Caenorhabditis elegans as a model organism, dicarbonyl/L-xylulose reductase (DCXR), expression of dhs-21 gene, microinjection of genes, Green Fluorescent Protein (GFP), Nematode, Promotor
File đính kèm:
- xac_dinh_promotor_bieu_hien_gen_dhs_21_ma_hoa_dicarbonyll_xy.pdf