Vai trò của ung bướu nội khoa trong điều trị ung thư buồng trứng không biểu mô

Ung thư buồng trứng không biểu mô (UTBTKBM) chiếm tỉ lệ khoảng 10 % trong tất cả các loại ung thư

buồng trứng. Hai nhóm UTBTKBM thường gặp nhất là bướu tế bào mầm (BTBM) và bướu đệm dây sinh dục

(BĐDSD). Bên cạnh đó còn có các nhóm ít gặp hơn như carcinôm tế bào nhỏ buồng trứng và sarcôm buồng

trứng với mức độ ác tính cao, diễn tiến lâm sàng rầm rộ và tiên lượng rất xấu. Trong khi BTBM có tiên lượng tốt

với tỉ lệ chữa khỏi hoàn toàn xấp xỉ 90 -100% ở giai đoạn sớm, thì BĐDSD lại có tiên lượng xấu tỉ lệ tái phát lại

khá cao. Trong bài tổng quan y văn này, chúng tôi sẽ đi sâu vào vai trò của ung bướu nội khoa trên nhóm bệnh

nhân này.

pdf 4 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của ung bướu nội khoa trong điều trị ung thư buồng trứng không biểu mô", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của ung bướu nội khoa trong điều trị ung thư buồng trứng không biểu mô

Vai trò của ung bướu nội khoa trong điều trị ung thư buồng trứng không biểu mô
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
60 
VAI TRÒ CỦA UNG BƯỚU NỘI KHOA TRONG ĐIỀU TRỊ 
UNG THƯ BUỒNG TRỨNG KHÔNG BIỂU MÔ. 
VÕ THỊ NGỌC ĐIỆP1, NGUYỄN HOÀNG QUÝ2 
TÓM TẮT 
Ung thư buồng trứng không biểu mô (UTBTKBM) chiếm tỉ lệ khoảng 10 % trong tất cả các loại ung thư 
buồng trứng. Hai nhóm UTBTKBM thường gặp nhất là bướu tế bào mầm (BTBM) và bướu đệm dây sinh dục 
(BĐDSD). Bên cạnh đó còn có các nhóm ít gặp hơn như carcinôm tế bào nhỏ buồng trứng và sarcôm buồng 
trứng với mức độ ác tính cao, diễn tiến lâm sàng rầm rộ và tiên lượng rất xấu. Trong khi BTBM có tiên lượng tốt 
với tỉ lệ chữa khỏi hoàn toàn xấp xỉ 90 -100% ở giai đoạn sớm, thì BĐDSD lại có tiên lượng xấu tỉ lệ tái phát lại 
khá cao. Trong bài tổng quan y vĕn này, chúng tôi sẽ đi sâu vào vai trò của ung bướu nội khoa trên nhóm bệnh 
nhân này. 
ABSTRACT 
Role of medical oncology in non-epithelial ovarian cancer treatment 
Non-epithelial ovarian cancer (NEOC) accounts for approximately 10% in ovarian cancer. Ovarian germ 
cell tumors (GCT) and ovarian sex-cord stromal tumors (SCST) are highly prevalent in NEOC. Apart from 
those, small cell carcinomas of the ovary and ovarian sarcomas are rare and high malignancy grade, clinical 
aggressive and very poor prognostic. While GCT has a good prognostic with 90%-100% of curative prevalent, 
SCST has a poor prognostic with high recurrence. In this review, we aim at focusing on the role of medical 
oncology in NEOC 
1
 BSCKII. Khoa Nội 1-Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM 
2
 ThS.BS. Bộ môn Ung thư - Đại học Y Dược TP. HCM 
GIỚI THIỆU 
Dịch tễ - lâm sàng 
Ung thư buồng trứng không biểu mô 
(UTBTKBM) chiếm khoảng 10-15% trong các 
trường hợp ung thư buồng trứng[1,2]. Trong khi bướu 
tế bào mầm (BTBM) ác tính thường gặp ở phụ nữ 
trẻ chiếm khoảng 5%, thì bướu đệm dây sinh dục 
(BĐDSD) thường gặp ở lứa tuổi trung niên và sau 
mãn kinh chiếm khoảng 3-5% trong các loại giải 
phẫu bệnh ung thư buồng trứng. Các dạng khác 
hiếm gặp hơn như cacrcinôm tế bào nhỏ và sarcôm 
buồng trứng chiếm khoảng 1%. Tỉ lệ phát hiện hàng 
nĕm đối với BTBM là 3.7/1000 000 và 2.1/1000 000 
phụ nữ đối với BMĐDSD[2]. 
Phần lớn bệnh nhân thường không có triệu 
chứng đau, bướu lớn chậm nhưng diễn tiến trên lâm 
sàng khi phát hiện bệnh thường rầm rộ. Không giống 
như BTBM thường xuất hiện ở cả 2 buồng trứng, 
BĐDSD và bướu tế bào steroid thường xuất hiện chỉ 
ở 1 bên. Đặc biệt trong nhóm BĐDSD thì bướu tế 
bào hạt thiếu niên, bướu tế bào Sertoli và bướu tế 
bào Sertoli-Leydig thường xuất hiện trong độ tuổi từ 
10 đến 19 tuổi và nữ trẻ. Chính vì vậy việc phát hiện 
chẩn đoán sớm, có ý nghĩa quan trọng trong chiến 
lược điều trị bảo tồn chức nĕng sinh sản của phụ nữ 
trong độ tuổi sinh đẻ[2]. 
BĐDSD và bướu tế bào steroid có khả nĕng tiết 
ra một lượng lớn hóc môn nội tiết steroid. Trong 
nhóm này, bướu tế bào hạt thường có đặc điểm tiết 
nhiều estrogen, ngược lại bướu tế bào Steroli-
Leydid sẽ thường tiết nhiều androgens có thể biểu 
hiệu trên lâm sàng với các triệu chứng liên quan đến 
hệ nội tiết. Bên cạnh đó, nhóm carcinôm tế bào nhỏ 
buồng trứng thường liên quan đến tình trạng đến 
biểu hiện lâm sàng của tình trạng tĕng canci máu[2]. 
Chẩn đoán 
Bên cạnh việc khám lâm sàng, thì các công cụ 
chẩn đoán hình ảnh học như siêu âm, CT-scan sẽ là 
công cụ hữu ích cho hỗ trợ chẩn đoán. Trên bệnh 
nhân nữ trẻ, xét nghiệm các dấu ấn sinh học bướu 
như beta-hCG, AFP và LDH cũng luôn được đặt ra. 
Inhibin B được tiết ra từ các bướu tế bào hạt cũng là 
một dấu ấn đặc hiệu hỗ trợ chẩn đoán. CA 125 cần 
được khảo sát trước mổ. Tuy nhiên, các dấu ấn này 
chỉ có giá trị gợi ý chẩn đoán, việc chẩn đoán xác 
định cần dựa vào giải phẫu mô bệnh học, hay hóa 
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
61 
mô miễn dịch kèm theo trong những trường hợp khó 
khĕn trong chẩn đoán xác định nguồn gốc của tế 
bào bướu[3]. 
Mô bệnh học – sinh học phân tử UTBTKBM 
Bướu buồng trứng không biểu mô thường có 
nguồn gốc từ các tế bào chuyên biệt khác nhau của 
buồng trứng như tế bào mầm, tế bào hạt, tế bào vỏ, 
các nguyên bào sợi đệm và tế bào steroid, một số 
loại khác ít gặp hơn là các tế bào trung mô. 
Phân lớp theo WHO 2014 cho thấy sự đa dạng về 
mặt hình thái giải phẫu bệnh của nhóm UTBTKBM. 
Việc chẩn đoán chính xác giải phẫu bệnh học có giá 
trị tiên lượng và góp phần hướng dẫn điều trị vì một 
số UTBTKBM có tiên lượng rất tốt, nhạy với hóa trị, 
và có thể bảo tồn được chức nĕng sinh sản cho 
bệnh nhân. 
Tuy nhiên, có những đặc điểm mô bệnh học 
không điển hình để chẩn đoán, việc sử dụng hóa mô 
miễn dịch hay lai tại chỗ có huỳnh quang sẽ hỗ trợ 
chẩn đoán xác định. Sall4, OCT 3/4 và SOX2 là 
những phân tử giúp xác định nguồn gốc của các 
bướu nghịch mầm, bướu túi noãn hoàng và 
carcinôm phôi trong nhóm bướu tế bào mầm. Inhibin 
alpha, calretinin và FOXL2 sẽ giúp chẩn đoán trong 
các bướu tế bào hạt[2]. 
Tiên lượng 
Ngoài việc tiên lượng bệnh theo phân độ TNM 
và FIGO[4], các yếu tố tiên lượng khác trên lâm sàng 
cũng giúp gợi ý trong chiến lược điều trị và theo dõi 
lâu dài cho bệnh nhân. Tuổi lúc chẩn đoán là một 
yếu tố tiên lượng. Đối với bướu tế bào mầm, nếu 
chẩn đoán ở độ tuổi chưa dậy thì hay sau 45 tuổi thì 
tiên lượng kém hơn nhóm tuổi khác. Đối với 
BMĐDSD, tuổi trên 50 thường có tiên lượng bệnh 
kém. Đối với carcinôm tế bào nhỏ, tuổi trên 30, canci 
bình thường trước phẫu thuật, bướu dưới 10cm, 
không có sự hiện diện của tế bào lớn thì tiên lượng 
sẽ thuận lợi hơn so với nhóm không có những đặc 
điểm kể trên[2,5]. 
Chính vì sự đa dạng về hình thái giải phẫu 
bệnh, cũng như tiên lượng bệnh khác nhau tùy 
thuộc vào các yếu tố trên lâm sàng cận lâm sàng 
trước mổ, tình trạng bướu trong quá trình phẫu 
thuật, nên việc điều trị hỗ trợ sau mổ bằng ung bướu 
nội khoa giữ một vai trò ý nghĩa trong việc điều trị 
khỏi, bảo tồn chức nĕng sinh sản, hay kéo dài thời 
gian sống còn không bệnh tiến triển và sống còn 
toàn bộ đối với UTBTKBM. Trong phần kế tiếp của 
tổng quan, chúng tôi sẽ trình bày về vai trò của ung 
bướu nội khoa trong điều trị hỗ trợ hay trong điều trị 
bệnh tái phát, tiến triển sau phẫu thuật, hoặc đã tiến 
xa ngay lúc đầu chẩn đoán. 
UNG BƯỚU NỘI KHOA TRONG UTBTKBM 
Bên cạnh tầm quan trọng của phẫu thuật ung 
bướu phụ khoa, vai trò của hình ảnh học và giải 
phẫu bệnh học trong chẩn đoán xác định, thì vai trò 
của ung bướu nội khoa cũng có ý nghĩa trong việc 
điều trị UTBTKBM ở cả giai đoạn sớm trong điều trị 
hỗ trợ, lẫn cả giai đoạn tiến xa di cĕn trong điều trị 
triệu chứng hay cứu vớt. Chiến lược điều trị phối 
hợp đa chuyên khoa nhằm mang lại lợi ích lâu dài 
cho bệnh nhân, đặc biệt đối với phụ nữ trẻ đang còn 
trong độ tuổi sinh sản, điều trị bảo tồn cơ quan sinh 
sản luôn được đặt ra trong những tình huống lâm 
sàng cụ thể trên cơ sở cân nhắc những lợi ích cũng 
như biến cố có thể xảy ra trong quá trình điều trị. 
Chúng tôi sẽ tổng hợp vai trò của ung bướu nội khoa 
trong giai đoạn sớm và giai đoạn muộn của nhóm 
bệnh lý này. 
Giai đoạn sớm 
Bướu tế bào mầm 
Khoảng từ 60 – 70% bướu tế bào mầm được 
chẩn đoán ở giai đoạn sớm, tiên lượng tốt, sống còn 
không bệnh chiếm tới 90%. Hóa trị hỗ trợ từ giai 
đoạn IB/C, tuy nhiên ngoại trừ bướu nghịch mầm 
giai đoạn IA không hóa trị, thì bướu quái không 
trưởng thành giai đoạn IA kèm theo Grade 3 có chỉ 
định hóa trị, các bướu tế bào mầm khác ở giai đoạn 
IA như bướu túi noãn hoàng hiện vẫn còn nhiều 
quan điểm trái chiều trong việc ủng hộ hóa trị hay 
hạn chế hóa trị. Cá thể hóa từng trường hợp lâm 
sàng cụ thể nhằm mang lại hiệu quả lợi ích lâu dài 
cho bệnh nhân cần được đặt ra trong những trường 
hợp này. (ESMO và Bussio). 
Hóa trị với phác đồ sử dụng kết hợp Bleomycin/ 
Etoposide/ Cisplatin (BEP) là lựa chọn được ưu tiên 
đặc biệt với nhóm bệnh nhân dưới 40 tuổi. Tuy 
nhiên, đối vối bệnh nhân trên 40 tuổi, có vấn đề về 
bệnh lý hô hấp mãn tính, việc lựa chọn phác đồ có 
Bleomycine sẽ làm nặng thêm tình trạng tổn thương 
của phổi do độc tính gây xơ hóa phổi Bleomycine. 
Phác đồ được lựa chọn trong trường hợp này chỉ có 
EP mà không có Bleomycine[2,3]. 
Bướu đệm dây sinh dục (BĐDSD) 
Có khoảng từ 60%–95% BĐDSD được chẩn 
đoán ở giai đoạn sớm. Ngoại trừ bướu tế bào hạt 
giai đoạn IA có tiên lượng rất tốt va không cần điều 
trị hỗ trợ sau phẫu thuật, thì các bướu đệm dây sinh 
dục khác vẫn còn nhiều ý kiến chưa cùng quan điểm 
về việc nên hay không hóa trị hỗ trợ. Tuy nhiên, tính 
đến thời điểm hiện tại, việc hóa trị hỗ trợ vẫn được 
ưu tiên lựa chọn hơn. Phác đồ hóa trị có platin vẫn 
là lựa chọn nền tảng trong các phác đồ. Bên cạnh 
phác đồ BEP, hóa trị thay thế bằng Paclitaxel kết 
hợp Carboplatin hay Etoposide kết hợp Cisplatin, 
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
62 
Cyclophosphamide/ Doxorubicin/ Cisplatin (CAP), 
hoặc chỉ là đơn chất platin. Bleomycin không được 
khuyến cáo cho bệnh nhân trên 40 tuổi trong chọn 
lựa điều trị bướu đệm dây sinh dục[1,2]. 
Carcinôm tế bào nhỏ buồng trứng nhóm có tĕng 
canci máu 
Hiện tại chưa có thống nhất điều trị đối với 
carcinôm tế bào nhỏ kèm tĕng canci máu. Phối hợp 
trị liệu đa mô thức với phẫu thuật, hóa trị, đồng thời 
có thể xạ trị. Nghiên cứu 47 trường hợp lâm sàng tế 
bào nhỏ buồng trứng, nhóm bệnh nhân có hóa xạ trị 
có tiên lượng tốt hơn so với các nhóm điều trị khác 
không có xạ. Mặc dù carcinôm tế bào nhỏ buồng 
trứng nhạy với hóa trị nhưng lại có mức độ tái phát 
rất cao. Lựa chọn phác đồ chủ yếu dựa vào những 
phác đồ trong ung thư phổi tế bào nhỏ. Phác đồ kết 
hợp Cisplatin và Etoposide được xem như lựa chọn 
hợp lý nhất. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, sử 
dụng hóa trị liều cao cho nhóm bệnh nhân đáp ứng 
hoàn toàn, kết hợp với ghép tế bào gốc tự thân cho 
thấy cũng mang lại sống còn tốt hơn[2,6]. 
Giai đoạn tiến xa lúc chẩn đoán, hoặc tiến triển 
tái phát trong và sau điều trị. 
Bướu tế bào mầm 
Bên cạnh vai trò của phẫu thuật giảm tổng khối 
bướu, hóa trị bằng BEP x 4 chu kỳ. Ngoài ra các 
phác đồ hóa trị khác thay thế như EP nếu bệnh nhân 
trên 40 tuổi. Ở nhóm bệnh nhân đề kháng với platin 
(tiến triển bệnh trên 4-6 tuần sau khi dứt hóa trị), 
phác đồ có chứa Vincristin/ Actinomycin D/ 
Cyclophosphomide hay Paclitaxel/ Gemcitabine, 
hoặc Gemcitabine/ Oxaliplatin cũng được khuyến 
cáo lựa chọn. Hóa trị liều cao kết hợp với ghép 
tế bào gốc tự thân cũng được nghiên cứu trên 
bướu tế bào mầm tái phát cho thấy có hiện quả trên 
sống còn toàn bộ trong nghiên cứu của Reddy và 
cộng sự[7]. 
Các liệu pháp nhắm trúng đích khác như sử 
dụng ức chế tyrosin kinase, ức chế tĕng sinh mạch 
máu hay gần đây nhất là liệu pháp ức chế điểm kiểm 
soát miễn dịch đang được nghiên cứu với hứa hẹn 
trong tương lai sẽ mở ra nhiều cơ hội mới cho nhóm 
bệnh nhân này. 
Bướu đệm dây sinh dục 
Hóa trị với phác đồ BEP x 3 chu kỳ hay 
Carboplatin/ Paclitaxel x 6 chu kỳ được khuyến cáo 
cho nhóm bệnh nhân bướu đệm dây sinh dục tái 
phát. Nhóm bệnh nhân bướu tế bào steroid, tái phát 
sau phẫu thuật, ngoài sử dụng BEP, thì phác đồ có 
nhóm taxan kết hợp với platin cũng được khuyến 
cáo sử dụng. 
Đối với bệnh nhân bướu tế bào hạt thường có 
tĕng biểu hiện các thụ thể hormone steroide, việc sử 
dụng đồng vận GnRH, tamoxiphen, progestin và ức 
chế aromatase cũng được nghiên cứu và cho thấy 
có hiệu quả. Trong nghiên cứu của Van Meurs, sử 
dụng liệu pháp hóc môn cho thấy có đáp ứng toàn 
phần là 25.8% và đáp ứng một phần là 45.2%. 
Nghiên cứu pha II PARAGON đang tiếp tục về vai 
trò của ức chế aromatase trên nhóm bệnh nhân 
bướu tế bào hạt tái phát[8]. 
Bên cạnh hóa trị và liệu pháp nội tiết, sử dụng 
ức chế tĕng sinh mạch cũng đang được nghiên cứu 
trên nhóm bệnh nhân này, nghiên cứu thử nghiệm 
lâm sàng pha II ALIENORENGOT-ov7/ GINECO 
đang được tiến hành nhằm đánh giá lợi ích lâm sàng 
khi thêm Bevacizumab vào trong phác đồ điều trị 
hàng tuần với Paclitaxel, theo sau là điều trị duy trì 
bằng Bevacizumab[9]. 
Carcinôm tế bào nhỏ buồng trứng kèm tĕng 
canci máu 
Tái phát sau điều trị carcinôm tế bào nhỏ đặt ra 
nhiều thách thức cho các nhà lâm sàng vì tiên lượng 
thường rất xấu và ảm đạm. Hóa trị triệu chứng bằng 
phác đồ kết hợp yclophosphamide/ Doxorubicin/ 
Vincristin. Có những báo cáo ca lâm sàng về sử 
dụng phác đồ trong ung thư phổi tế bào nhỏ cho ung 
thư buồng trứng tế bào nhỏ như EP hay Topotecan 
trong những trường hợp cứu vớt. Tính đến hiện tại, 
chưa có liệu pháp nhắm trúng đích nào được thử 
nghiệm trên nhóm này[2]. 
KẾT LUẬN 
Ung thư buồng trứng không biểu mô tuy không 
thường gặp nhiều trên lâm sàng như ung thư buồng 
trứng biểu mô nhưng việc chẩn đoán sớm, điều trị 
phối hợp liên chuyên khoa, đa mô thức sẽ mang lại 
lợi ích sống còn cho bệnh nhân. Nếu nhóm bướu tế 
bào mầm có tiên lượng tốt ở giai đoạn sớm với sống 
còn toàn bộ gần xấp xỉ 90% - 100% thì bướu dây 
sinh dục có tiên lượng xấu hơn. Vai trò của phẫu 
thuật bảo tồn chức nĕng sinh sản và hóa trị hỗ trợ 
trong những giai đoạn sớm mang lại lợi ích cho bệnh 
nhân, đặc biệt là nhóm phụ nữ trẻ trong độ tuổi sinh 
sản. Vai trò của xạ trị trong carcinôm tế bào nhỏ 
buồng trứng cho thấy mang lại lợi ích trên bệnh 
nhân. Trong giai đoạn tái phát di cĕn, hóa trị triệu 
chứng và cứu vớt cũng như phẫu thuật giảm tổng 
khối bướu cho thấy mang lại sống còn cho bệnh 
nhân, đặc biệt với sự phát triển của sinh học phân tử 
cùng với các đích nhắm phân tử đang được nghiên 
cứu hứa hẹn sẽ mang lại lợi ích lâu dài cho bệnh 
nhân. Các nghiên cứu tại Việt Nam trong thời gian 
sắp tới sẽ giúp cho có một cái nhìn tổng quan về 
nhóm bệnh lý ít gặp này. 
NHI - PHỤ KHOA - NIỆU 
TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 
63 
Điều trị ung thư nói chung, và đặc biệt là ung 
thư bưồng trứng nói riêng và các phân nhóm ung 
thư buồng trứng hiếm đã và đang cho thấy vai trò 
của phối hợp đa chuyên khoa của trị liệu đa mô thức 
kết hợp. Bên cạnh phẫu thuật ung bướu phụ khoa, 
nội khoa ung thư, hình ảnh học giải phẫu bệnh, thì 
vai trò của sản khoa trong chiến lược bảo tồn chức 
nĕng sinh sản (phẫu thuật, bảo quản phôi) cũng có ý 
nghĩa hết sức quan trọng. Cá thể hóa điều trị dựa 
vào từng tình huống, hoàn cảnh kinh tế xã hội cụ thể 
của từng bệnh nhân nhằm tối ưu hóa điều trị cho 
bệnh nhân trong kỷ nguyên của chẩn đoán và điều 
trị y khoa chính xác. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. S. Boussios, M. Moschetta, G. Zarkavelis, A. 
Papadaki, A. Kefas, and K. Tatsi, “Ovarian sex-
cord stromal tumours and small cell tumours: 
Pathological, genetic and management aspects,” 
Crit. Rev. Oncol. Hematol, vol. 120, pp. 43–51, 
Dec. 2017. 
2. I. Ray-Coquard et al., “Non-epithelial ovarian 
cancer: ESMO Clinical Practice Guidelines for 
diagnosis, treatment and follow-up,” Ann. Oncol. 
Off. J. Eur. Soc. Med. Oncol., Apr. 2018. 
3. S. Boussios, G. Zarkavelis, E. Seraj, I. Zerdes, 
K. Tatsi, and G. Pentheroudakis, “Non-epithelial 
Ovarian Cancer: Elucidating Uncommon 
Gynaecological Malignancies,” Anticancer Res., 
vol. 36, no. 10, pp. 5031–5042, 2016. 
4. J. Prat and FIGO Committee on Gynecologic 
Oncology, “FIGO’s staging classification for 
cancer of the ovary, fallopian tube, and 
peritoneum: abridged republication,” J. Gynecol. 
Oncol., vol. 26, no. 2, pp. 87–89, Apr. 2015. 
5. N. S. Reed et al., “Gynecologic Cancer 
InterGroup (GCIG) consensus review for ovarian 
small cell cancers,” Int. J. Gynecol. Cancer Off. 
J. Int. Gynecol. Cancer Soc., vol. 24, no. 9 Suppl 
3, pp. S30-34, Nov. 2014. 
6. D. Callegaro-Filho et al., “Small cell carcinoma of 
the ovary-hypercalcemic type (SCCOHT): A 
review of 47 cases,” Gynecol. Oncol., vol. 140, 
no. 1, pp. 53–57, Jan. 2016. 
7. N. Reddy Ammakkanavar, D. Matei, R. Abonour, 
and L. H. Einhorn, “High-dose chemotherapy for 
recurrent ovarian germ cell tumors,” J. Clin. 
Oncol. Off. J. Am. Soc. Clin. Oncol, vol. 33, no. 
2, pp. 226–227, Jan. 2015. 
8. H. S. van Meurs, L. R. C. W. van Lonkhuijzen, J. 
Limpens, J. van der Velden, and M. R. Buist, 
“Hormone therapy in ovarian granulosa cell 
tumors: a systematic review,” Gynecol. Oncol., 
vol. 134, no. 1, pp. 196–205, Jul. 2014. 
9. “Efficacy and Safety of Bevacizumab (Avastin®) 
Combined to Weekly Paclitaxel Followed by 
Bevacizumab (Avastin®) Alone in Patients With 
Relapsed Ovarian Sex-cord Stromal Tumours 
(ALIENOR) - Full Text View - ClinicalTrials.gov.” 
[Online]. Available: 
https://clinicaltrials.gov/ct2/show/NCT01770301. 
[Accessed: 29-Sep-2018]. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_ung_buou_noi_khoa_trong_dieu_tri_ung_thu_buong_t.pdf