Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp số đối với vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân khách hàng trong kỷ nguyên 4.0: nhìn từ khía cạnh pháp lý và thực thi

Tóm tắt

Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển công nghệ số ở Việt Nam, một thế hệ các doanh nghiệp

hoạt động trên nền tảng công nghệ này đã xuất hiện vừa đem lại nhiều tiện ích nhưng cũng tiềm ẩn

những rủi ro cho khách hàng trong quá trình thực hiện các giao dịch. Đặc biệt, khi gần đây, nhiều

khách hàng đã phát hiện thông tin cá nhân của mình bị phát tán, trao đổi, mua bán một cách công khai

từ các nhà cung cấp dịch vụ và đã gây ra nhiều hậu quả, phiền toái và tiềm ẩn nhiều rủi ro cho khách

hàng. Vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân đã được quy định tại một số văn bản quy phạm pháp luật của Nhà

nước cùng với cơ chế xử phạt khi vi phạm. Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, hiệu quả chỉ có thể đạt được

khi các doanh nghiệp số và các chủ thể tham gia phải có ý thức cao. Đặc biệt doanh nghiệp cần coi đây

là trách nhiệm xã hội (Corporate Social Responsibility - CSR) của mình khi khách hàng đã tin cậy và

cung cấp những thông tin cá nhân (những điều bí mật đời tư) cho mình. Bài viết nhằm hệ thống hóa

một số quan điểm bảo vệ dữ liệu cá nhân gắn với CSR của doanh nghiệp số, quy định pháp luật về bảo

vệ dữ liệu cá nhân ở Việt Nam, tình hình bảo vệ dữ liệu cá nhân trên mạng, những thông tin cá nhân ở

các cấp độ và khuyến nghị đối với Nhà nước, doanh nghiệp trong vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân.

pdf 13 trang phuongnguyen 6760
Bạn đang xem tài liệu "Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp số đối với vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân khách hàng trong kỷ nguyên 4.0: nhìn từ khía cạnh pháp lý và thực thi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp số đối với vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân khách hàng trong kỷ nguyên 4.0: nhìn từ khía cạnh pháp lý và thực thi

Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp số đối với vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân khách hàng trong kỷ nguyên 4.0: nhìn từ khía cạnh pháp lý và thực thi
Mã số: 468 
Ngày nhận: 14/12/2017 
Ngày gửi phản biện lần 1: 24 /1 /2018 
Ngày gửi phản biện lần 2: 
Ngày hoàn thành biên tập: 29/1/2017 
Ngày duyệt đăng: 30/1/2017 
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP SỐ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ BẢO VỆ DỮ 
LIỆU CÁ NHÂN KHÁCH HÀNG TRONG KỶ NGUYÊN 4.0: NHÌN TỪ KHÍA CẠNH PHÁP LÝ 
VÀ THỰC THI 
Nguyễn Hồng Quân1 
Tóm tắt 
Trải qua 20 năm xây dựng và phát triển công nghệ số ở Việt Nam, một thế hệ các doanh nghiệp 
hoạt động trên nền tảng công nghệ này đã xuất hiện vừa đem lại nhiều tiện ích nhưng cũng tiềm ẩn 
những rủi ro cho khách hàng trong quá trình thực hiện các giao dịch. Đặc biệt, khi gần đây, nhiều 
khách hàng đã phát hiện thông tin cá nhân của mình bị phát tán, trao đổi, mua bán một cách công khai 
từ các nhà cung cấp dịch vụ và đã gây ra nhiều hậu quả, phiền toái và tiềm ẩn nhiều rủi ro cho khách 
hàng. Vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân đã được quy định tại một số văn bản quy phạm pháp luật của Nhà 
nước cùng với cơ chế xử phạt khi vi phạm. Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, hiệu quả chỉ có thể đạt được 
khi các doanh nghiệp số và các chủ thể tham gia phải có ý thức cao. Đặc biệt doanh nghiệp cần coi đây 
là trách nhiệm xã hội (Corporate Social Responsibility - CSR) của mình khi khách hàng đã tin cậy và 
cung cấp những thông tin cá nhân (những điều bí mật đời tư) cho mình. Bài viết nhằm hệ thống hóa 
một số quan điểm bảo vệ dữ liệu cá nhân gắn với CSR của doanh nghiệp số, quy định pháp luật về bảo 
vệ dữ liệu cá nhân ở Việt Nam, tình hình bảo vệ dữ liệu cá nhân trên mạng, những thông tin cá nhân ở 
các cấp độ và khuyến nghị đối với Nhà nước, doanh nghiệp trong vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân. 
Abstract 
Over 20 years of building and developing digital technology in Vietnam, a new generation of 
enterprises operating on the technology platform has grown up and brought many benefits but are also 
involved in numerous risks to the customers in transaction. In particular, personal data of customers has 
been dispersed, exchanged, purchased publicly from service providers and has caused numerous 
consequences, nuisances and potential risks for customers. The protection of personal data of 
customers has been stipulated in some legal documents and the mechanism of punishment. However, 
efficiency can only be achieved when digital enterprises and stakeholders are highly aware of the 
importance of privacy. These points to the need of businesses taking it as their social responsibility 
1 Trường Đại học Ngoại thương, Email: quannh@ftu.edu.vn 
when customers trust and provide personal information (privacy) for them. This paper aims to 
systematize some views on personal data protection associated with CSR (Corporate Social 
Responsibility), the law on personal data protection in Vietnam, the protection of privacy on the 
internet, personal information at various levels and recommendations to the government and digital 
enterprises on the protection of personal information. 
Keywords: Trách nhiệm xã hội, Doanh nghiệp số, Bảo vệ dữ liệu cá nhân, Privacy, CSR 
Đặt vấn đề 
Chúng ta đang sống ở trong kỷ nguyên số với nền tảng công nghệ thông tin và các ứng dụng kết 
nối, kinh doanh tiên tiến, hiện đại dựa trên sự tích hợp và hội tụ công nghệ số đã tạo nên sự thay đổi 
lớn về mọi mặt cho xã hội. Cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 (hay còn gọi là Cuộc cách mạng Công 
nghiệp lần thứ tư) đã được toàn Thế giới quan tâm và đón nhận một cách nhanh chóng. Đối với các 
nước đang phát triển như Việt Nam thì đây là một cơ hội mới để có thể tiếp cận và đón đầu nhằm tạo 
một vị thế mới trong khi các nền tảng của các cuộc cách mạng trước vẫn có thể tiếp tục được duy trì. 
Sự phát triển của Công nghệ thông tin (CNTT) và Thương mại điện tử (TMĐT) đã cho ra đời các mô 
hình doanh nghiệp mới, những doanh nghiệp được xây dựng, vận hành và phát triển dựa trên nền tảng 
CNTT hay còn gọi là các “doanh nghiệp số” với cách tiếp cận, giao tiếp và tương tác trực tuyến thông 
qua các phương tiện điện tử hiện đại kết nối với mạng Internet và các mạng mở. 
Trong kỷ nguyên 4.0, dữ liệu và thông tin của cá nhân khách hàng không chỉ đơn thuần là thông 
tin để giao tiếp và thực hiện các hoạt động kinh doanh mà còn là “tài sản” của mỗi doanh nghiệp. 
Chính vì sự quan trọng của dữ liệu cá nhân khách hàng và quyền riêng tư đã đặt các doanh nghiệp số 
hóa phải thực hiện trách nhiệm xã hội của mình trong việc bảo vệ các dữ liệu – những thông tin khách 
hàng đã cung cấp khi họ thực hiện các giao dịch với doanh nghiệp một cách nghiêm túc và chủ động 
thông qua các cơ chế và hạ tầng bảo mật phù hợp nhằm tránh sự truy cập, tấn công, thu thập, trao đổi 
bất hợp pháp các dữ liệu cá nhân khách hàng. 
1. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp số trong kỷ nguyên 4.0 
 Trong thời gian gần đây, các quan điểm mới về phát triển kinh tế và quản trị doanh nghiệp đang 
được nghiên cứu và đưa vào áp dụng ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, CSR (Corporate Social 
Responsibility - Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp) cũng được giới học thuật và doanh nghiệp đặc 
biệt quan tâm và trở thành một hướng nghiên cứu, ứng dụng mới nhằm duy trì sự phát triển lâu dài, 
đem lại lợi ích tối đa cho cộng đồng xã hội và các bên liên quan. Vấn đề CSR cũng đã được xem xét 
một cách cụ thể với các khía cạnh có liên quan và tác động trực tiếp với doanh nghiệp chứ không còn là 
cách hiểu một cách chung nhất như trước đây. Hiện nay, đã có nhiều tổ chức quốc tế đưa ra các tiêu chí 
CSR điển hình như: Hướng dẫn của OECD về tập đoàn đa quốc gia, Thỏa ước toàn cầu của Liên hợp 
quốc (UNGC), Tiêu chuẩn ISO 26000, Tiêu chuẩn GRI G4, Tiêu chuẩn EU về CSR, Tiêu chuẩn CSR 
của Nhật Bản. Theo tiêu chuẩn CSR của Nhật Bản, khi thực hiện CSR doanh nghiệp cần phải thực hiện 
các nội dung cụ thể sau đây: 
- Tuân thủ pháp luật và đạo đức kinh doanh: Tuân thủ các chuẩn mực đạo đức kinh doanh; 
Tuân thủ pháp luật. 
- Minh bạch thông tin: Cung cấp thông tin kịp thời, phù hợp và hữu ích cho các bên liên quan 
và duy trì các kênh thông tin hai chiều; Quản lý thông tin dữ liệu một cách phù hợp. 
- Chất lượng và an toàn: Đảm bảo yêu cầu an toàn và chất lượng đối với sản phẩm cũng như 
phương pháp để sản xuất ra sản phẩm đó. 
- Lao động và quyền con người: Tôn trọng quyền con người của các đối tượng chịu ảnh 
hưởng từ hoạt động của doanh nghiệp; Tôn trọng nhân viên, người lao động. 
- Môi trường: Quan tâm đến vấn đề môi trường trong các hoạt động kinh doanh; Cung cấp 
thông tin về môi trường trong hoạt động của doanh nghiệp. 
- Hoạt động từ thiện: Tham gia tích cực vào các hoạt động từ thiện làm cho cộng đồng phát 
triển bền vững và lành mạnh. 
Hình 1. Các khía cạnh CSR theo quan điểm của Nhật Bản 
Nguồn: Tác giả tổng hợp, năm 2017 
Có sự khác biệt nào giữa doanh nghiệp thực hiện CSR và tuân thủ pháp luật? Đây là vấn 
đề quan trọng quyết định đến việc triển khai các hoạt động CSR trong mỗi doanh nghiệp. Nếu 
các doanh nghiệp quan niệm rằng việc thực hiện CSR chẳng qua là tuân thủ các quy định của 
pháp luật về kinh doanh, bảo vệ môi trường và pháp luật có liên quan đến các vấn đề xã hội thì 
đây mới chỉ thực hiện CSR ở dưới góc độ tuân thủ tối thiểu, ví dụ như việc đảm bảo các tiêu 
chuẩn xả thải của các nhà máy tại các khu công nghiệp theo đúng quy định của pháp luật về 
Nội dung 
thực hiện 
CSR 
Tuân thủ 
pháp luật 
và đạo 
đức kinh 
doanh Minh 
bạch 
thông tin 
Chất 
lượng và 
an toàn 
Lao động 
và quyền 
con người 
(nhân 
quyền) 
Môi 
trường 
Từ thiện 
môi trường hay các quy định về mức lương tối thiểu cho người lao động tại các doanh nghiệp, 
hay đầu tư hệ thống máy chủ hoặc phần mềm để đảm bảo an toàn dữ liệu cho khách hàng. Tuy 
nhiên, khi các doanh nghiệp quan niệm thực hiện CSR thì các nội dung và công việc triển khai 
không chỉ dừng lại ở vấn đề tuân thủ pháp luật mà là tuân thủ tốt hơn các quy định của pháp 
luật; các chỉ tiêu không chỉ đạt mà còn vượt yêu cầu so với quy định của pháp luật đề ra; vấn đề 
an toàn dữ liệu cho khách hàng không chỉ dừng lại ở việc đầu tư đủ hệ thống máy chủ hay phần 
mềm mà đằng sau hệ thống đó là một sự đảm bảo an toàn thông tin ở mức độ cao với sự tham 
gia của đội ngũ nhân sự đầy trách nhiệm và kinh nghiệm. Bên cạnh đó, thực hiện CSR còn thực 
hiện các khía cạnh không quy định trong pháp luật, các hoạt động và việc làm có ý nghĩa và 
đem lại lợi ích cho cộng đồng sẽ xuất hiện trong quá trình doanh nghiệp ra quyết định để xây 
dựng một môi trường và xã hội kinh doanh và tiêu dùng bền vững mà khi đó các doanh nghiệp 
số cũng không phải là ngoại lệ. 
Xét ở khía cạnh CSR, việc bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng đối với các doanh nghiệp 
trong kỷ nguyên 4.0 đảm bảo cho các khía cạnh: 
Thứ nhất, bảo vệ thông tin cá nhân nhằm thực hiện tính tuân thủ của doanh nghiệp đối với 
người tiêu dùng và khách hàng và bảo vệ thông tin các nhân cũng cần sự tuân thủ của đối tác kinh 
doanh trong hệ thống thông qua các cam kết của doanh nghiệp trong việc bảo vệ thông tin cá nhân cũng 
như việc xây dựng các hạ tầng kỹ thuật để thực hiện tốt công việc này. Bên cạnh đó, ngoài việc bảo vệ 
tốt thông tin cá nhân của khách hàng, doanh nghiệp cần loại bỏ các hành động xâm phạm đến các dữ 
liệu thuộc quyền quản lý và sử dụng của các doanh nghiệp đối tác và tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của 
các doanh nghiệp. 
Thứ hai, ở khía cạnh minh bạch hóa thông tin: doanh nghiệp sẽ cung cấp đầy đủ thông tin cần 
thiết cho các dịch vụ khách hàng; Cung cấp thông tin phù hợp, hữu ích về hàng hóa và dịch vụ (Mô tả 
đầy đủ thông tin trong hợp đồng, nhãn hàng, quy cách, giá cả, điều kiện bảo hành, điều kiện giao hàng, 
điều kiện đổi – trả lại hàng, hiển thị cách sử dụng sản phẩm an toàn, chính xác). 
Bên cạnh đó, vấn đề bảo vệ dữ liệu và sự riêng tư của người tiêu dùng cũng đã được quy định 
rất rõ tại mục 6.7.7 của ISO 26000: 2010 “Việc bảo vệ dữ liệu và sự riêng tư của người tiêu dùng 
nhằm bảo vệ quyền riêng tư của người tiêu dùng bằng việc giới hạn các loại thông tin thu thập 
cũng như cách thức thông tin được lấy, sử dụng và bảo mật. Sự gia tăng việc sử dụng truyền 
thông điện tử (bao gồm cả các giao dịch tài chính) và thử nghiệm gen, cũng như sự tăng 
trưởng về cơ sở dữ liệu quy mô rộng, làm gia tăng mối quan ngại về sự riêng tư của người tiêu 
dùng có thể được bảo vệ như thế nào, đặc biệt là về thông tin nhận dạng cá nhân”. Đây cũng 
chính là những nội dung quan trọng để các doanh nghiệp số có thể thực hiện CSR dưới khía 
cạnh bảo vệ thông tin cho khách hàng. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng việc thực hiện tốt công 
tác bảo vệ dữ liệu cá nhân của khách hàng là một hoạt động quan trọng nhằm thực hiện tốt các tiêu chí 
CSR của doanh nghiệp số, giúp cho doanh nghiệp số có một môi trường kinh doanh lành mạnh và có 
sự phát triển bền vững trong tương lai. 
2. Một số quy định pháp lý liên quan tới bảo vệ thông tin cá nhân 
2.1. Quy định về thông tin cá nhân ở Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015 
 Theo các quy định tại Điều 38 của Bộ luật này đã cho thấy: “Quyền bí mật đời tư của cá nhân 
được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ” hay “Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin 
điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật”. Do vậy mà việc thu thập, lưu giữ, sử dụng, 
công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý, việc 
thu thập, lưu giữ, sử dụng, công khai thông tin liên quan đến bí mật gia đình phải được các thành viên 
gia đình đồng ý. Khi triển khai ký kết các hợp đồng (bao gồm cả hợp đồng điện tử) thông qua các hình 
thức khác nhau như qua trang web, email, hợp đồng soạn sẵn đưa lên mạng hay các hình thức khác thì 
các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia 
đình của nhau mà mình đã biết được trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng. 
Bên cạnh các quy định trên, nhằm bảo vệ thông tin cá nhân, đặc biệt khi tham gia vào các trang 
mạng xã hội như Facebook, Twitter, Zalo,  tại Điều 32 của Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã quy 
định “Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý” hay “Việc sử dụng hình ảnh của 
người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh”. Tuy nhiên, Luật cũng 
quy định một số trường hợp sử dụng hình ảnh cá nhân mà không cần có sự đồng ý của người có hình 
ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; các hoạt 
động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt 
động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh 
Như vậy, việc đăng tải, sử dụng hình ảnh của người khác trên mạng xã hội mà không tuân thủ 
các quy định nêu trên là hành vi vi phạm pháp luật. Khi đó, người có hình ảnh (hoặc người đại diện hợp 
pháp của họ) có quyền yêu cầu tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có 
liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các 
biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật. Trường hợp hành vi này xâm phạm, gây ra thiệt hại 
về danh dự, nhân phẩm, uy tín, thì người vi phạm có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người có 
hình ảnh theo quy định tại Điều 592 Bộ luật Dân sự 2015 
Bảng 1. Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến bảo vệ thông tin cá nhân 
Tên văn bản Năm ban hành Góc độ tiếp cận Điều khoản 
Bộ luật dân sự Việt 
Nam 
24/11/2015 Quy định về nội dung 
thông tin cá nhân 
Điều 32, điều 38 
Luật An toàn thông 
tin mạng 
19/11/2015 Quy định về kỹ thuật 
về thông tin trên mạng 
Điều 16, 17, 18, 19, 
20 
Luật Công nghệ thông 
tin 
29/06/2006 Quy định về khai thác 
và lưu trữ thông tin 
Điều 21, 22 
Nguồn: Tác giả tổng hợp, năm 2017 
2.2. Quy định bảo vệ thông tin cá nhân tại Luật an toàn thông tin mạng năm 2015 
Định nghĩa về thông tin cá nhân tại Điểm 15, Điều 3, Luật An toàn thông tin mạng ngày 
19/11/2015 đã đưa nêu “Thông tin cá nhân là thông tin gắn với việc xác định danh tính của một người 
cụ thể”. Quy định về việc bảo vệ thông tin cá nhân, tại Mục 2 (từ Điều 16 đến 20), Chương 2 đề cập tới 
các nội dung như: nguyên tắc bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng; Thu thập và sử dụng thông tin cá 
nhân; Cập nhật, sửa đổi và hủy bỏ thông tin cá nhân; Bảo đảm an toàn thông tin cá nhân trên mạng; 
Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng. 
Cơ sở pháp lý trên đây về bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng ở nước ta đặt ra bốn vấn đề dưới 
đây. 
 - Về nguyên tắc bảo vệ thông tin cá nhân trên mạng 
Để cho thông tin cá nhân được bảo vệ tốt nhất, các cá nhân cần phải tự bảo vệ thông tin cá nhân 
của mình cũng như tuân thủ các quy định của pháp luật về cung cấp thông tin cá nhân khi sử dụng dịch 
vụ trên mạng. Điều này rất quan trọng vì khi các cá nhân tự bảo đảm, kiểm soát một cách có ý thức đối 
với thông tin cá nhân sẽ ngăn chặn được những rủi ro trong suốt quá trình tương tác trực tuyến, đặc biệt 
là qua mạng xã hội. Bên cạnh đó, đối với những cơ quan, tổ ch ... ầu chứ chưa thực sự như mong đợi của cộng đồng. Từ đó có thể thấy, góc độ thực thi CSR ở 
khía cạnh ATTT đối với dữ liệu cá nhân của khách hàng sẽ là một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp số 
của Việt Nam trong thời gian tới. 
3.2. Vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân của khách hàng ngày càng trở nên quan trọng 
Bên cạnh đó, vấn đề mất an toàn thông tin cá nhân cũng gia tăng cùng với sự tăng trưởng của 
doanh thu thương mại điện tử Việt Nam trong những năm vừa qua. Vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân của 
khách hàng được coi là một yêu cầu quan trọng đối với các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến và đây 
cũng là trở ngại trong mua sắm trực tuyến nếu doanh nghiệp không có biện pháp bảo vệ dữ liệu cá nhân 
cho khách hàng. 
Hình 4. Tỷ lệ khách hàng lo ngại về dữ liệu cá nhân khi mua hàng trên mạng 
Nguồn: Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam, năm 2015, 2016, 2017 
Trước năm 2015, vấn đề về bảo vệ dữ liệu cá nhân chưa phải là lo ngại của khách hàng khi 
tham gia mua sắm trực tuyến, các trở ngại chủ yếu tập trung vào một số khía cạnh như: khó kiểm soát 
chất lượng hàng hóa, uy tín của người bán hay không đủ thông tin để đưa ra quyết định mua hàng. Từ 
năm 2015, vấn đề về bảo dữ liệu cá nhân ngày càng được người mua hàng trực tuyến quan tâm thể hiện 
ở mức độ lo ngại có xu hướng tăng từ 25% (năm 2015), 31% (năm 2016) và lên tới 36% vào năm 2017. 
Những lo ngại về vấn đề dữ liệu cá nhân của khách hàng gia tăng xuất phát từ việc lộ thông tin cá nhân 
(khách hàng thường xuyên phải nhận tin nhắn, điện thoại quảng cáo hay các thư rác quảng cáo qua 
Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
25%
31%
36%
Rào cản của bảo vệ dữ liệu cá nhân khi mua 
sắm trực tuyến
email) và hệ thống bảo mật thông tin của các doanh nghiệp đối với các thông tin khách hàng cung cấp 
trong quá trình mua hàng là chưa cao. Bên cạnh đó, không loại trừ khả năng thông tin của khách hàng 
bị các doanh nghiệp “bán” cho bên thứ ba sử dụng vào các mục đích quảng cáo, truyền thông và một số 
mục đích khác. 
Điều này cho thấy, công tác bảo vệ dữ liệu cá nhân dưới khía cạnh pháp lý và khía cạnh trách 
nhiệm xã hội doanh nghiệp ở Việt Nam chưa được tốt và có xu hướng báo động khi mà mức độ lo ngại 
từ phía người tiêu dùng đang có sự gia tăng đáng kể. Nguyên nhân của vấn đề này xuất phát từ nhận 
thức từ phía doanh nghiệp, khách hàng và cộng đồng đối với vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân, từ cơ chế 
giám sát và chế tài xử lý vi phạm đối với các quy định có liên quan tới bảo vệ dữ liệu cá nhân, từ giải 
pháp công nghệ bảo vệ an toàn thông tin và dữ liệu cá nhân và một số nguyên nhân khác. 
4. Một số kiến nghị thực hiện trách nhiệm xã hội trong việc bảo vệ dữ liệu cá nhân 
4.1. Đối với cơ quan quản lý Nhà nước 
- Nên xem xét và ban hành Nghị định về bảo vệ thông tin và dữ liệu cá nhân: Trên cơ sở Luật 
An toàn thông tin Mạng, cho tới nay, các cơ quan của Chính phủ đã bắt tay vào ban hành các Nghị định 
hướng dẫn thực thi Luật bao gồm: Bộ Quốc phòng được giao chủ trì soạn thảo 2 văn bản: Nghị định 
của Chính phủ quy định chi tiết và thi hành Luật An toàn thông tin mạng về kinh doanh sản phẩm, dịch 
vụ mật mã dân sự, xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm mật mã dân sự (Danh mục sản phẩm, dịch vụ mật 
mã dân sự; Danh mục sản phẩm mật mã dân sự xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép kèm theo Nghị 
định); Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết về ngăn chặn xung đột thông tin trên mạng. Bộ Công 
an chủ trì soạn thảo Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết về trách nhiệm và các biện pháp ngăn 
chặn hoạt động sử dụng mạng để khủng bố. Còn với Bộ TT&TT, cơ quan này được phân công chủ trì 
soạn thảo 4 văn bản quy định chi tiết thi hành Luật An toàn thông tin mạng gồm: Nghị định của Chính 
phủ quy định chi tiết về tiêu chí, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xác định cấp độ an toàn hệ thống thông 
tin và trách nhiệm bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo từng cấp độ; Nghị định của Chính phủ quy 
định chi tiết về điều kiện cấp Giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ an toàn thông tin mạng; Quyết 
định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Phương án ứng cứu thảm họa thông tin quan trọng quốc gia; 
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục hệ thống thông tin quan trọng quốc gia. 
Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân lại không được các cơ quan quan tâm đúng mức 
trong khi đó vấn đề này lại được các nước khác đặc biệt quan tâm. Bên cạnh đó, tình hình vi phạm và 
xâm hại thông tin cá nhân ở Việt Nam lại đang xảy ra một cách phổ biến và càng đáng báo động khi mà 
số người sử dụng Internet, điện thoại thông minh và mạng xã hội ngày càng tăng ở Việt Nam. Vì vậy, 
Chính phủ cần ban hành Nghị định về bảo vệ thông tin cá nhân nhằm đưa ra các quy định một cách cụ 
thể và rõ ràng hơn nữa cho các đối tượng tham gia bao gồm: cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá 
nhân. 
4.2. Đối với Hiệp hội doanh nghiệp, chuyên gia và các bên liên quan 
- Ban hành bộ tiêu chí CSR về bảo vệ dữ liệu cá nhân: Cơ quan quản lý nhà nước, Hiệp hội 
Thương mại điện tử, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các tổ chức xã hội nghề nghiệp 
khác có thể tham khảo và đưa ra các tiêu chí về bảo vệ thông tin và thông tin cá nhân dưới khía cạnh bộ 
tiêu chí CSR cho các doanh nghiệp số ở nước ta. Trên thực tế, các doanh nghiệp số đang hoạt động trên 
một môi trường rất đặc thù và luôn tiềm ẩn rất nhiều yếu tố rủi ro cho các bên tham gia do tính xác thực 
của thông tin trong trao đổi và giao dịch. Chính vì vậy, bộ quy tắc ứng xử CSR cho các doanh nghiệp 
số sẽ là bộ tiêu chí tham khảo có tính tự nguyện cho các doanh nghiệp và cũng nhằm mục đích nâng 
cao ý thức và tinh thần xã hội của các doanh nghiệp này để xây dựng một xã hội trực tuyến văn minh 
và an toàn. Để tiến hành thiết lập bộ tiêu chí CSR về bảo vệ thông tin cá nhân, các cơ quan tổ chức có 
thể tham khảo các nguyên tắc bảo vệ thông tin cá nhân đã được APEC (Diễn đàn kinh tế Thái Bình 
Dương) đã đưa ra từ năm 2004 với 09 nguyên tắc chính bao gồm: (1) Nguyên tắc ngăn ngừa thiệt hại, 
(2) Nguyên tắc thông báo trước, (3) Giới hạn phạm vi thu thập dữ liệu cá nhân, (4) Nguyên tắc sử dụng 
dữ liệu cá nhân, (5) Quyền lựa chọn của chủ thể dữ liệu cá nhân, (6) Tính toàn vẹn của dữ liệu cá nhân, 
(7) An ninh, an toàn dữ liệu cá nhân, (8) Tiếp cận và điều chỉnh dữ liệu cá nhân, (9) Trách nhiệm của 
các bên liên quan. 
- Phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức và biểu dương những doanh nghiệp số thực hiện 
tốt việc tuân thủ và bảo vệ tốt dữ liệu cá nhân. Hiện nay, có rất nhiều các hoạt động tuyên truyền, xúc 
tiến thương mại do các tổ chức và cơ quan thực hiện, tuy nhiên, ở khía cạnh bảo vệ dữ liệu cá nhân trên 
môi trường trực tuyến nói riêng và các hoạt động kinh doanh trực tuyến nói chung có vẻ ít được các cơ 
quan, tổ chức quan tâm tuyên truyền và khuyến khích phong trong “kinh doanh trực tuyến an toàn” 
trong thời gian vừa qua. Mặc dù, vấn đề an toàn trên môi trường kinh doanh trực tuyến đã được các cơ 
quan nhà nước và xã hội rất quan tâm khi mà tỷ lệ doanh thu trực tuyến ở Việt Nam đang có tốc độ 
tăng trưởng rất cao (trên 20%/năm, doanh số bán lẻ trực tuyến trên 5 tỷ USD, năm 2017). Đây là một 
nội dung rất quan trọng mà các cơ quan quản lý nhà nước, Hiệp hội ngành hàng và có tổ chức có liên 
quan cần đặc biệt quan tâm trong thời gian tới. 
4.3. Với các doanh nghiệp số 
Việc nhận thức đúng đắn vai trò và tầm quan trọng của thông tin cá nhân và việc tự nguyện bảo vệ 
thông tin cá nhân của khách hàng đối với các doanh nghiệp kinh doanh trực tuyến là vô cùng quan 
trọng. Một mặt giúp cho doanh nghiệp tạo lập được uy tín đối với khách hàng mặt khác, đây còn là một 
tài nguyên quý giá để doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh trực tuyến. Muốn vậy doanh 
nghiệp cần tiến hành một số biện pháp sau đây để bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng: 
- Doanh nghiệp cần xây dựng và thông báo chính sách bảo vệ thông tin cá nhân của doanh nghiệp 
mình đăng lên website ngay trong mục đăng ký thành viên (hoặc tại các trang nội dung mà doanh 
nghiệp muốn các cá nhân cung cấp thông tin khi truy cập). Tại chính sách này, doanh nghiệp phải nêu 
rõ mục đích của việc thu thập thông tin cá nhân để làm gì? Các cam kết về việc bảo vệ thông cá nhân 
và giữ bí mật thông tin cá nhân, trách nhiệm của doanh nghiệp về việc lộ thông tin cá nhân, v,vViệc 
đưa ra một chính sách bảo vệ thông tin cá nhân không chỉ khẳng định uy tín và trách nhiệm của doanh 
nghiệp đối với các thông tin này mà còn tạo lòng tin cho khách hàng trong việc cung cấp thông tin cá 
nhân của mình một cách chính xác từ đó giúp doanh nghiệp có thể thuận tiện trong việc gửi các thông 
tin kinh doanh cần thiết theo đúng mong muốn của khách hàng. 
- Không tiết lộ thông tin cá nhân đặc biệt là email lên website của doanh nghiệp. Có rất nhiều 
doanh nghiệp hoặc các trang thông tin điện tử, Cổng thương mại điện tử do sơ xuất hoặc cố tình đưa 
thông tin của các cá nhân hoặc tổ chức kinh doanh rất chi tiết lên website đặc biệt là email. Điều này có 
một ưu điểm là tiện giao dịch và liên hệ cho các đối tác và tạo ra một xã hội thông tin. Tuy nhiên, điều 
này lại giúp cho các tổ chức và cá nhân thu thập thông tin để bán lại hoặc sử dụng chúng vào các mục 
đích khác. Hậu quả là các thông tin cá nhân bị lộ, các cá nhân liên tục nhận được các cuộc điện thoại 
hoặc email quảng cáo mà chúng ta gọi là spam mail không mong muốn. Việc đưa thông tin cá nhân và 
tổ chức lên mạng là cần thiết, tuy nhiên, các doanh nghiệp nên đưa các thông tin cần thiết và thuần túy 
về giao dịch ví dụ như: tên người đại diện, điện thoại cơ quan của họ, fax, email của cơ quan, v,v 
không nên đưa thông tin thực sự mang tính cá nhân như điện thoại di động, email cá nhân hoặc blog 
riêng tư. Các doanh nghiệp hoạt động thương mại điện tử như các sàn giao dịch thương mại điện tử, 
các mạng xã hội, diễn đàn và các loại hình khác, tài sản lớn nhất của các loại hình này đó chính là cộng 
đồng. Cộng đồng ở đây có thể là các doanh nghiệp hoặc các cá nhân, mà ở đó thông tin của doanh 
nghiệp và thông tin của cá nhân luôn là tài nguyên để các doanh nghiệp này khai thác. Chính vì vậy, 
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này luôn đăng tải nội dung thông tin của các doanh nghiệp 
và cá nhân trên cổng thông tin của mình để kết nối các thành viên của họ hoặc với các thành viên trong 
cộng đồng. Đây cũng là đầu mối để các doanh nghiệp chuyên thu thập và kinh doanh thông tin cá nhân 
tìm đến để thu thập, chính vì vậy, việc đảm bảo thông tin cá nhân đối với các doanh nghiệp này càng 
trở nên cần thiết nhằm hạn chế việc thu thập các thông tin cá nhân của các doanh nghiệp khác. Đối với 
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này nên thiết kế 2 chế độ cung cấp thông tin cá nhân: thông 
tin công khai cho tất cả người truy cập có thể tham chiếu (gồm các thông tin cơ bản của cá nhân và tổ 
chức), thông tin công khai cho các thành viên khi họ đăng nhập vào tài khoản (cho phép các thành viên 
có thể giao dịch với nhau thông qua tài khoản của mình). 
- Xây dựng chế độ bảo mật cho cơ sở dữ liệu của doanh nghiệp: Việc xây dựng chế độ bảo mật cho 
cơ sở dữ liệu là vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp có lưu trữ các 
thông tin quan trọng trong đó có thông tin cá nhân của khách hàng. Tuy nhiên, sẽ có những gói bảo mật 
có thể giúp cho doanh nghiệp bảo vệ an toàn dữ liệu và dữ liệu cá nhân của doanh nghiệp mình tùy 
thuộc vào tầm quan trọng và chi phí đầu tư mà doanh nghiệp có thể lựa chọn. Các doanh nghiệp cần 
lựa chọn ngay cách thức bảo mật và bảo vệ dữ liệu của mình ngay khi tiến hành lưu giữ các dữ liệu, 
tránh tình trạng “mất bò mới lo làm chuồng”. 
- Cần xây dựng quy trình bảo vệ thông tin cá nhân một cách khoa học: Để đảm bảo các thông tin cá 
nhân của khách hàng được an toàn, doanh nghiệp số cần xây dựng một trình từ công việc và phân trách 
nhiệm cho những người chịu trách nhiệm một cách cụ thể với một số nội dung cụ thể như: Yêu cầu 
kiểm tra, rà soát, đánh giá đảm bảo an toàn thông tin chung; Phân công bộ phận kỹ thuật thực hiện hoặc 
lựa chon đơn vị đủ năng lực để triển khai; Xây dựng kế hoạch kiểm tra, rà soát, đánh giá bảo đảm an 
toàn thông tin cá nhân; Thực hiện kiểm tra, rà soát, đánh giá đảm bảo an toàn thông tin cá nhân; Lập 
báo cáo, nguy cơ, rủi ro, lỗ hổng, mã độc gây mất an toàn thông tin cá nhân; Tiến hành xử lý các vấn 
đề nghiệp vụ; Lập Báo cáo tổng hợp. 
5. Kết luận 
Dữ liệu thông tin cá nhân là “tài sản” quan trọng của các doanh nghiệp số hóa và cũng là quyền 
“bất khả xâm phạm” của cá nhân. Trong khi hoạt động kinh doanh trực tuyến đang có tốc độ phát triển 
nhanh chóng thì việc tham gia vào môi trường trực tuyến của các cá nhân ngày càng tăng, cùng với đó, 
một lượng thông tin cá nhân khổng lồ được đưa lên môi trường mạng để thực hiện các giao dịch mua 
bán, trao đổi. Để đảm bảo an toàn và hạn chế những rủi ro đối với các thông tin cá nhân luôn cần có sự 
tham gia của các bên có liên quan với các biện pháp đồng bộ bao gồm cả vấn đề về con người, công 
nghệ, quy trình, thiết bị, hệ thống quản lý,và hơn thế nữa là quan điểm nhận thức thống nhất, đúng 
đắn của các doanh nghiệp số - là những đơn vị trực tiếp tiếp nhận, quản lý và sử dụng “nguồn tài 
nguyên” này với tinh thần “vì một xã hội trực tuyến an toàn và hiệu quả”. Không coi thế giới ảo là “ảo” 
và thực hiện các hành động lợi dụng thế giới ảo để đem lại những “lợi ích thực” bằng việc sử dụng 
chính dữ liệu cá nhân của khách hàng cung cấp ra thị trường hoặc thiếu trách nhiệm trong vấn đề bảo 
vệ dữ liệu cá nhân của khách hàng. Thực hiện tốt việc bảo vệ dữ liệu cá nhân với tinh thần CSR, chắc 
chắn các doanh nghiệp số sẽ nhận được sự tin tưởng của khách hàng và nâng cao được giá trị thương 
hiệu của mình trên môi trường trực tuyến. 
Tài liệu tham khảo 
1. Cục An toàn thông tin – Bộ Thông tin và Truyền thông, Báo cáo An toàn thông tin Việt 
Nam,2015. 
2. Cục An toàn thông tin – Bộ Thông tin và Truyền thông, Cẩm nang an toàn thông tin, 2015; 
3. Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin – Bộ Công Thương, Báo cáo Thương mại điện 
tử Việt Nam, 2017. 
4. Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin, tài liệu Diễn đàn Cách mạng Công nghiệp lần 
thứ IV, 2017. 
5. Bộ Công Thương, Những nguyên tắc cơ bản về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong thương mại điện 
tử, 2008. 
6. Quốc hội Việt Nam, Bộ luật dân sự, 2015, từ www.na.gov.vn. 
7. Quốc hội Việt Nam, Luật An toàn thông tin mạng, 2015, từ www.na.gov.vn. 
8. Quốc hội Việt Nam, Luật Công nghệ, 2006, www.na.gov.vn. 
9. KEIDANREN (2010), Chapter of Corporate Behavior, September 14, 2010. 
10. Nguyễn Thu Thủy & Nguyễn Hồng Quân (2017), Hoạt động trách nhiệm xã hội của doanh 
nghiệp Nhật Bản và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Nhà xuất bản Dân Trí. 
11. Vân Anh (2017), Nguy cơ mất an toàn thông tin mạng của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam 
rất cao, từ 
cuoc-thi-sinh-vien-voi-attt-2017-161773.ict, truy cập 14/12/2017. 
12. Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 26000:2013 (ISO 26000:2010) về Hướng dẫn về trách nhiệm 
xã hội, 
2010-ve-huong-dan-ve-trach-nhiem-xa-hoi.html, truy cập ngày 26/01/2018. 

File đính kèm:

  • pdftrach_nhiem_xa_hoi_cua_cac_doanh_nghiep_so_doi_voi_van_de_ba.pdf