Tín dụng và vai trò của tín dụng nhà nước Việt Nam - Lý luận và thực tiễn
TÓM TẮT
Tín dụng tồn tại khách quan trong nền kinh tế thị trường và được coi là một trong những
công cụ tài chính quan trọng có vai trò và tác dụng to lớn đối với sự triển của nền kinh tế - xã hội.
Xét trong mối quan hệ giữa các chủ thể của quan hệ tín dụng, tín dụng tồn tại dưới ba hình thức
chủ yếu, gồm Tín dụng thương mại; Tín dụng ngân hàng; Tín dụng nhà nước. Cả ba hình thức tín
dụng này đều tồn tại và hoạt động song song với nhau và tạo ra hiệu ứng tích cực chung đối với nền
kinh tế - xã hội. Trong ba hình thức tín dụng nói trên, Tín dụng nhà nước là công cụ tài chính của
Nhà nước để xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế; Để tạo đà và thúc đẩy kinh tế phát
triển và tăng cường an sinh xã hội. Các quốc gia trên thế giới đều sử dụng công cụ tài chính này
như một giải pháp tài chính cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội. Ở Việt Nam, tín dụng nhà nước
cũng đã được sử dụng từ giai đoạn đầu của công cuộc kiến thiết kinh tế, trải qua các thời kỳ phát
triển của đất nước cho đến giai đoạn hiện nay và đã phát huy vai trò và kết quả thật to lớn. Do đó,
cần phát triển mạnh hơn nữa hoạt động tín dụng nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tín dụng và vai trò của tín dụng nhà nước Việt Nam - Lý luận và thực tiễn
11 Tín dụng và vai trò . . . TÍN DỤNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Nguyễn Thị Hiền* TÓM TẮT Tín dụng tồn tại khách quan trong nền kinh tế thị trường và được coi là một trong những công cụ tài chính quan trọng có vai trò và tác dụng to lớn đối với sự triển của nền kinh tế - xã hội. Xét trong mối quan hệ giữa các chủ thể của quan hệ tín dụng, tín dụng tồn tại dưới ba hình thức chủ yếu, gồm Tín dụng thương mại; Tín dụng ngân hàng; Tín dụng nhà nước. Cả ba hình thức tín dụng này đều tồn tại và hoạt động song song với nhau và tạo ra hiệu ứng tích cực chung đối với nền kinh tế - xã hội. Trong ba hình thức tín dụng nói trên, Tín dụng nhà nước là công cụ tài chính của Nhà nước để xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế; Để tạo đà và thúc đẩy kinh tế phát triển và tăng cường an sinh xã hội. Các quốc gia trên thế giới đều sử dụng công cụ tài chính này như một giải pháp tài chính cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội. Ở Việt Nam, tín dụng nhà nước cũng đã được sử dụng từ giai đoạn đầu của công cuộc kiến thiết kinh tế, trải qua các thời kỳ phát triển của đất nước cho đến giai đoạn hiện nay và đã phát huy vai trò và kết quả thật to lớn. Do đó, cần phát triển mạnh hơn nữa hoạt động tín dụng nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: tín dụng, tín dụng nhà nước, tín dụng đầu tư phát triển của Chính phủ, Ngân hàng Phát triển Việt Nam. CREDIT & THE ROLE OF VIETNAM STATE CEREDIT - THEORY AND PRACTICE ABSTRACT Credit exists objectively in market economy and is considered as important financial tool that has important role and influence to development of society and economy. Considering the relationship among subjects of credit relationship, credit exists mainly in the three forms: commercial credit, banking credit, state credit. The three credit forms exist and operate along with one another and they create positive effect to society and economy. In the three above mentioned forms of credit, State Credit is the financial tool of the State to build, develop infrastructure of the economy; and to create the momentum and pushing economical development and intensify social welfare. The nations of the world all use this financial instrument as a basic financial solution in order to develop economy and society. In Vietnam, State Credit already was used from the first stage of building the economy, passing through the stages of development of the nation until the present time and already promoted the role and the result was so great. Therefore, it is necessary to develop more the operation of State Credit in Vietnam in the present stage. Key words: Credit, state credit, investment Credit and Development of the Government, Vietnam Development Bank. * ThS. GV. Trường Đại học Ngân Hàng thành phố Hồ Chí Minh Email: hiennguyen0117@yahoo.com 12 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÍN DỤNG Theo từ điển Tài chính ngân hàng của NXB Khoa học kỹ thuật năm 2005 thì: “Tín dụng (credits) là quan hệ cho vay, quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả”. [3] Tín dụng là quan hệ giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao một số vốn (Có thể bằng hiện kim, hoặc bằng hiện vật) cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian xác định và có điều kiện nhất định, khi đến hạn bên đi vay hoàn trả vốn và lãi cho bên cho vay. Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hóa, và là một trong những công cụ tài chính quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Tín dụng có quá trình ra đời tồn tại và phát triển cùng với phát triển của kinh tế hàng hóa, đồng thời tín dụng là nhân tố thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển. Hoạt động của tín dụng bao giờ cũng gây hiệu ứng đối với nền kinh tế xã hội. Các nhà nghiên cứu coi hiệu ứng đó chính là vai trò của tín dụng. Nói đến vai trò của tín dụng, là nói đến sự tác động của tín dụng đối với nền kinh tế - xã hội. Tác động của tín dụng đối với nền kinh tế chủ yếu là tác động tích cực, tác động tốt cho xã hội. Tuy nhiên không loại trừ những yếu tố tiêu cực. Chẳng hạn nếu để tín dụng phát triển tràn lan không kiểm soát, thì không những không làm cho nền kinh tế chậm phát triển mà còn làm cho lạm phát có thể gia tăng gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Nhưng nếu hoạt động tín dụng được giám sát theo hướng tích cực thì tín dụng sẽ phát huy tác động tốt đối với nền kinh tế xã hội. Vai trò tích cực của tín dụng thể hiện qua các điểm sau: + Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất & lưu thông hàng hóa phát triển. Tín dụng, trước hết là nguồn cung ứng vốn cho các doanh nghiệp các tổ chức kinh tế, do đó: - Tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì qu trình sản xuất lin tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế cho các ngành, các thành phần kinh tế. Thừa thiếu vốn tạm thời thường xuyên xảy ra ở các doanh nghiệp, việc phân phối vốn tín dụng đã góp phần điều hòa vốn trong toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được liên tục. Ngòai ra tín dụng còn là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư pht triển. Thông qua hoạt động tín dụng giúp các doanh nghiệp sử dụng nguồn lao động và nguyên liệu hợp lý thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội. - Tín dụng với việc cung ứng vốn theo cơ chế tự điều tiết sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hoạt động tín dụng, trong đó có hoạt động của các ngân hàng, chủ yếu là tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà vốn này nằm phân tán khắp mọi nơi, trong tay các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước và cá nhân, trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế, những người có nhu cầu về vốn và từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành mũi nhọn. Trong điều kiện nước ta, Nhà nước tập trung tín dụng để tài trợ cho các ngành kinh tế mũi nhọn, mà phát triển các ngành này sẽ tạo cơ sở lôi cuốn các ngành kinh tế khác phát triển như sản xuất hàng xuất khẩu, khai thác dầu khí - Tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp nước ngoài. 13 Tín dụng và vai trò . . . Trong điều kiện ngày nay, phát triển kinh tế của một quốc gia gắn liền với kinh tế thế giới, tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền kinh tế các nước với nhau. Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín dụng đóng vai trị quan trọng trong Có thể nói, trong mọi nền kinh tế - xã hội, tín dụng đều phát huy vai trò to rất to lớn về phương diện kinh tế Đối với doanh nghiệp: Tín dụng góp phần cung ứng vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh và vốn cho các dự án đầu tư của doanh nghiệp. Đối với công chúng: Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Người dân luôn có cơ hội để làm cho đồng tiền tiết kiệm của mình được sinh lời Đối với toàn xã hội: Tín dụng làm tăng hiệu suất sử dụng đồng vốn. Trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, đồng tiền được huy động, được sử dụng với với hiệu suất cao nhất, do đó cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng để phát triển nền kinh tế Tất cả đều hợp lực và tác động lên đời sống kinh tế – xã hội khiến tạo ra động lực phát triển rất mạnh mẽ mà không có công cụ tài chính nào có thể thay thế được. + Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Một mặt, do tín dụng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sản xuất hàng hóa và dịch vụ ngày càng gia tăng có thể thỏa mãn nhu cầu đời sống của người lao động, mặt khác, do vốn tín dụng cung ứng đã tạo ra khả năng trong việc khai thác các tiềm năng sẵn có trong xã hội và tài nguyên thiên nhiên, về lao động, đất, rừng... do đó có thể thu hút nhiều lực lượng lao động của xã hội để tạo ra lực lượng sản xuất mại để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng tồn tại dưới các hình thức chủ yếu sau đây: 1.1. Tín dụng thương mại (commercial credit) Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng gắn liền với quan hệ thương mại, được thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hoặc ứng trước tiền hàng giữa những nhà sản xuất kinh doanh với nhau. Nói cách khác, tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa môt bên là các công ty, các tổ chức kinh tế, với tư cách là bên bán (seller) với một bên khác cũng là các công ty, tổ chức kinh tế, nhưng với tư cách là bên mua (buyinger) để thực hiện hợp đồng mua bán chịu hàng hóa, hoặc ứng trước tiền hàng cho nhau trong một gian nhất xác định, với điều kiện các bên cam kết thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng văn bản. Quan hệ tín dụng này gắn liền với quan hệ thương mại, nên được gọi là tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại được chia làm hai loại: Thứ nhất: Tín dụng thương mại dành cho người mua. Theo đó người bán sẽ giao hàng hóa cho người mua và đồng ý cho người mua thanh toán tiền hàng sau một thời gian nhất định, với điều kiện người mua phải ký chấp nhận trả tiền vào hối phiếu do người bán ký phát (Hối phiếu đòi nợ). Người bán - người ký phát hối phiếu và là người hưởng lợi hối phiếu sẽ giữ hối phiếu này khi đến hạn sẽ xuất trình cho người mua và người mua phải thanh toán cho người bán toàn bộ số tiền ghi trên hối phiếu. Người bán cụng có thể chuyển nhượng hối phiếu cho một người khác để nhận tiền trước khi hối phiếu đến hạn. Trường hợp người mua tự mình lập phiếu nhận nợ và cam kết trả nợ (hối phiếu nhận nợ - còn gọi là lệnh phiếu) thì lệnh phiếu này sẽ phải chuyển cho người bán 14 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật nắm giữ. Việc thanh toán khi đến hạn tương tự như trên, nhưng đối với lệnh phiếu, người bán không được chuyển nhượng cho người khác. Thứ hai: Tín dụng thương mại dành cho người bán. Theo hình thức này, người mua sẽ ứng trước tiền hàng cho người bán, số tiền ứng trước có thể lên đến 100% giá trị lô hàng theo hợp đồng. Sau một thời gian nhất định, người bán có nghĩa vụ giao hàng cho người mua thương mại dành cho người bán, không bắt buộc người bán phải lập giấy nợ thương mại như tín dụng dành cho người mua. Nhưng để đảm bảo an toàn cho người mua (Người ứng trước) thường người ứng trước bắt buộc người bán (Nhận ứng trước) phải có chứng thư bảo lãnh của ngân hàng, để bảo đảm việc giao hàng của người bán sẽ được thực hiện. 1.2. Tín dụng Ngân hàng (banking credit) Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính phi ngân hàng với các công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế, các tổ chức và cá nhân được thực hiện dưới hình thức ngân hàng đứng ra huy động vốn bằng tiền và cho vay đối với các đối tượng nói trên. Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng có vai trò to lớn: - Tín dụng ngân hàng có thể mở rộng cho mọi đối lượng trong xã hội; Tín dụng ngân hàng có thể xâm nhập vào các ngành, với nhiều loại hình và quy mô hoạt động lớn, vừa và nhỏ, không bằng hiện vật, nhờ đó đảm bảo cho sản xuất kinh doanh không những được duy trì mà còn xâm nhập vào nhiều lĩnh vực như dịch vụ, đời sống. Vì vậy có thể khẳng định vai trò to lớn của tín dụng ngân hàng trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội. - Tín dụng ngân hàng hoạt động không bị giới hạn về quy mô, có thể cung ứng vốn cho nền kinh tế với số lượng rất lớn, với nhiều thời hạn khác nhau, nhờ đó giúp các doanh nghiệp không những có vốn để kinh doanh, mà còn có vốn để mở rộng đầu tư, đổi mới thiết bị, nhằm nâng cao năng lực sản xuất. - Nhờ hoạt động của tín dụng ngân hàng mà vốn tiền tệ của xã hội được huy động và sử dụng tối đa cho nhu cầu phát triển kinh tế; Tín dụng ngân hàng vừa có tác dụng đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, vừa làm cho các chu chuyển tiền tệ được tập trung phần lớn qua hệ thống ngân hàng. Đó là những điều kiện quan trọng để ổn định lưu thông tiền tệ, ổn định giá cả thị trường, ổn định đời sống của người lao động. 1.3. Tín dụng nhà nước (state credit) Tín dụng nhà nước là hình thức tín dụng giữa Chính phủ với các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Đây là hình thức tín dụng phát triển muộn hơn các hình thức tín dụng khác, trong điều kiện Chính phủ Trung ương phát hành trái phiếu để vay nợ và sử dụng nguồn vốn này cho nhu cầu đầu tư chung của Chính phủ. Sau này khi tín dụng nhà nước phát triển mạnh, thì tín dụng nhà nước không chỉ là phát hành trái phiếu của Chính phủ trung ương, mà chính quyền địa cũng có những như cầu như vậy để đáp ứng vốn đầu tư trong phạm vi hẹp hơn. Tín dụng nhà nước cũng không chỉ thuần túy là Nhà nước đi vay thông qua phát hành trái phiếu mà còn có cả trường hợp nhà nước cho vay thông qua các tổ chức tài chính của Chính phủ. Tín dụng nhà nước còn được mở rộng phạm vi hoạt động, không những ở trong phạm vi quốc nội mà còn có cả trên phạm vi quốc tế. Tín dụng nhà nước vừa là một công 15 Tín dụng và vai trò . . . cụ tài chính của nhà nước, vừa là một công cụ mang tính chất kinh tế - chính trị quan trọng để xử lý các mối quan hệ quốc tế. 2. TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC & VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM + Với tư cách là người đi vay: “Nhà nước đứng ra huy động vốn của các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp bằng cách phát hành Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu công trình, tín phiếu Kho Bạc để sử dụng vì mục đích và lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế - xã hội” [1] Như vậy, tín dụng Nhà nước hoạt động bằng công cụ nợ truyền thống và phổ biến là trái phiếu. + Với tư cách là người cho vay: “Nhà nước hỗ trợ tín dụng cho các đơn vị và cá nhân thông qua các chương trình để thực hiện các muc tiêu kinh tế xã hội như: Cho vay xóa đói giảm ngèo, cho vay giải quyết việc làm, Các chương trình cho tín dụng đầu tư, hổ trợ lãi suất, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, cho vay hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa v.v... Những đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi và cho vay của Tín dụng Nhà nước phải thỏa mãn những điều kiện nhất định, đồng thời là những đối tượng được Nhà nước khuyến khích phát triển” [2] 2.1. Các mô hình tổ chức và hoạt động của Tín dụng Nhà nước ở Việt Nam qua các thời kỳ + Ngân hàng Kiến thiết Việt Nam (1957 – 1980): Ngân hàng kiến thiết Việt Nam được thành lập từ những năm đầu của công cuộc cải tạo và khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Với hơn 20 năm tồn tại và hoạt động, Ngân hàng kiến thiết Việt Nam đã có những đóng góp lớn cho công cuộc khôi phục và kiến thiết kinh tế ở Bắc Việt Nam. Với có nhiệm vụ làm đầu mối quản lý, cấp phát và thanh toán vốn kiến thiết - Vốn xây dựng cơ bản, của nhà nước trong giai đoạn từ năm 1957 đến năm 1980, Ngân hàng kiến thiết Việt Nam đã hoàn thành sứ mạng lớn lao trong công cuộc tái thiết kinh tế trong thời kỳ xây dựng, phát triển kinh tế ở Miền Bắc và kháng chiến cống Mỹ ... thực hiện tín dụng thuộc nhóm chính sách kinh tế. + Quỹ Hỗ trợ Phát triển (Development Assistance Fund – DAF - Từ tháng 07/1999 đến tháng 5/ 200). Với sự tồn tại và hoạt động của các tổ chức nói trên liên quan đến vốn tín dụng nhà nước, việc quản lý vốn tín dụng nhà nước bị phân tán, không tập trung một đầu mối, làm cho công tác hoạch định và thực thi chính sách tín dụng nhà nước không phát huy được hiệu quả như mong muốn. Quỹ Hỗ trợ Phát triển đã được thành lập theo Nghị định số 50/1999/ NĐ-CP ngày 08/07/1999 để khắc phục những khiếm khuyết trong quản lý vốn tín dụng nhà nước. [4] Quỹ Hỗ trợ Phát triển có nhiệm vụ: Thống nhất quản lý, tập trung đầu mối quản lý và thực hiện nguồn vốn tín dụng nhà nước một cách 17 Tín dụng và vai trò . . . thống nhất. Tức là trở thành đầu mối thống nhất tiếp nhận các nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước, các nguồn tài trợ từ bên ngoài và các nguồn khác; Sử dụng nguồn vốn có được để cho vay, hỗ trợ tín dụng Đầu tư và Phát triển kinh tế xã hội thuộc các nhóm ngành, các đối tượng trong danh mục do Chính phủ quy định. Trong thời gian tồn tại và hoạt động gần 7 năm, từ tháng 7/1999 đến tháng 5/2006, Quỹ Hỗ trợ Phát triển đã gặt hái được những thành công khi triển khai và thực thi chính sách tín dụng nhà nước. Các công trình thuộc kết cấu cơ sở hạ tầng của nền kinh tề đã được hoàn thành, đi vào khai thác sử dụng; Các ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn, một số ngành nghề lĩnh vực kinh tế cũng đã có sự phát triển đáng khích lệ. Tuy nhiên, với mô hình là Quỹ Hỗ trợ Phát triển. Quỹ Hỗ trợ Phát triển là một mô hình thực hiện chính sách tín dụng nhà nước có nhiều nước áp dụng trong những năm cuối của thế kỷ XX. Việt Nam áp dụng mô hình này trong giai đoạn đầu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. + Ngân hàng Phát triển Việt Nam (Vietnam Development Bank – VDB), từ tháng 5/ 2006 đến nay: Ngân hàng phát triển Việt Nam là mô hình tổ chức tín dụng của Chính phủ trực tiếp thực hiện Chính sách tín dụng của Nhà nước để phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Nhiệm vụ chính của VDB là thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước với tư cách là một ngân hàng. Do đó hoạt động của NHPT Việt Nam đã có sự đổi mới căn bản so với hoạt động của Quỹ Hỗ trợ Phát triển. Chính những cam kết của Việt Nam với WTO và thực hiện đổi mới phương châm hoạt động tín dụng nhà nước trong thời kỳ mới, Chính phủ Việt Nam đã có những thay đổi trong chính sách tín dụng nhà nước: - Thay đổi mô hình cơ quan thực hiện chính sách tín dụng nhà nước cho phù hợp với giai đoạn phát triển hội nhập quốc tế. Đứng trước yêu cầu này, Ngân hàng Phát triển Việt Nam đã được thành lập theo Quyết định số 108/2006/QĐ-TTg, ngày 19/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ. VDB được thành lập trên cơ sở sắp xếp và tổ chức lại hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển (Development Assistance Fund – DAF được thành lập theo Nghị định số 50/1999/NĐ - CP ngày 08/07/1999). Nhiệm vụ chính của VDB là thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước. So với mô hình Quỹ Hổ trợ Phát triển, với chức năng và nhiệm vụ thuần túy của một Quỹ theo đúng tên gọi là Hỗ trợ và Phát triển,chịu sự chi phối hoàn toàn bởi Luật Ngân sách Nhà nước, vì mục tiêu chung của Chính phủ, Ngân hàng Phát triển Việt Nam có bước đột phá mới về chất. Hoạt động của Ngân hàng Phát triển Việt Nam với 2 mãng nghiệp vụ lớn là Thực hiện chính sách Tín dụng Đầu tư Phát triển và thực hiện chính sách Tín dụng xuất khẩu của Nhà nước với tư cách là một ngân hàng. Hoạt động của VDB vừa bị chi phối bởi Luật Ngân sách Nhà nước, vừa bị chi phối bởi Luật Các Tổ chức Tín dụng, do đó hoạt động của VDB sẽ linh hoạt hơn, phong phú hơn, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa dạng hơn. VDB được tăng quyền tự chủ từng bước, tăng tính trách nhiệm và chủ động hơn trong việc thẩm định và cho vay các chương trình dự án đầu tư. Tuy là tổ chức tài chính của Chính phủ, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhưng VDB vẫn phải chịu sự điều tiết và chi phối của Luật Các Tổ chức Tín dụng, vẫn phải chấp hành các quy định 18 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật trong việc thực hiện chính sách tiền tệ, chính sách tín dụng, chính sách quản lý ngoại hối và các chính sách khác có liên quan của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Song song với việc thành lập VDB, Chính phủ còn ban hành Nghị định 151/NĐ-CP ngày 26/10/2006 về tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước thay thế cho các quy định trước đây về lĩnh vực này. Theo đó chính sách tín dụng mới, bên cạnh chính sách ưu đãi về lãi suất đối với tín dụng đầu tư phát triển, thì tín dụng hỗ trợ xuất khẩu sẽ phải giảm dần hình thức ưu đãi trực tiếp bằng lãi suất theo cam kết của Chính phủ, và thay vào đó là những hình thức ưu đãi gián tiếp về thủ tục, thời hạn cho vay, tài sản bảo đảm. + Các quỹ Đầu tư Phát triển địa phương. Bên cạnh NHPT trực thuộc Chính phủ như nói ở trên, Chính phủ còn cho phép thành lập các Quỹ Đầu tư Phát triển địa phương để thực hiện chính sách tín dụng nhà nước trong phạm vi từng tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương. Các tỉnh thành phố có nguồn lực, tiềm năng và khả năng quản lý hoạt động của Quỹ như TP.HCM (Hiện nay là Công ty Đầu tư Tài chính nhà nước TP.HCM), Hà Nội, Thái Bình, Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh, Ninh Bình, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Phan Thiết, Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ, Kiên Giang đã thành lập quỹ và đã đi vào hoạt động. 2.2. Đặc điểm của tín dụng Nhà nước ở Việt Nam. Là một hình thức tín dụng hoạt động trong nền kinh tế, tín dụng nhà nước chứa đựng các đặc điểm vốn có của quan hệ tín dụng như các hình thức tín dụng khác như: Chỉ làm thay đổi quyền sử dụng vốn chứ không làm thay đổi quyển sở hữu vốn; Luôn có thời hạn xác định, có lãi suất và phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi. Ngoài những đặc điểm này, tín dụng nhà nước còn có một số đặc điểm riêng biệt như: + Tín dụng nhà nước là loại tín dụng hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Tín dụng nhà nước hoạt động phải có hiệu quả thiết thực, nhưng không vì mục tiêu lợi nhuận. Nghĩa là hoạt động của tín dụng nhà nước tạo tiền đề, tạo điều kiện cho các đối tượng trong xã hội, từ các tổ chức kinh tế, đến các tổ chức đoàn thể xã hội và cá nhân; các cơ đơn vị hành chính sự nghiệp đều được hưởng lợi kết quả chung. Các tổ chức tài chính của chính phủ đã và luôn tuân thủ chính sách này. + Tin dụng nhà nước được thực hiện chủ yếu từ nguồn vốn của Ngân sách Nhà nước, được nhà nước đảm bảo và thanh toán. Với đặc điểm này, hoạt động của tín dụng nhà nước luôn có giới hạn và chỉ góp phần giải quyết những yêu cầu quan trọng và cần thiết vì lợi chung. Tín dụng nhà nước hoạt động không vì lợi nhuận, nên cũng vì thế mà các rủi ro, nến có xảy ra cũng sẽ được xử lý. Tuy nhiên không phải vì thế mà các tổ chức tài chính của Chính phủ tiến hành hoạt động một cách tùy tiện, không tuân thủ quy trình và quy định. + Tín dụng nhà nước luôn được thực hiện theo đối tượng chỉ định trong từng giai đoạn, từng thời kỳ phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. + Lãi suất trong tín dụng nhà nước là lãi suất ưu đãi, thấp hơn lãi suất thị trường, nhưng sẽ hướng tới lãi suất thị trường khi có điều kiện cho phép để từng bước giảm gánh nặng tài chính cho Ngân sách Nhà nước. + Tín dụng Nhà nước cũng phải đối mặt với rủi ro tiềm ẩn và có khả năng xảy ra rủi ro như tín dụng ngân hàng, do đó hoạt động nghiệp vụ, quản lý tín dụng nhà nước cũng 19 Tín dụng và vai trò . . . phải tuân thủ quy trình, quy chế và phương thức quản lý như hoạt động của một Ngân hàng thương mại. Cán bộ và nhân viên làm việc trong các tổ chức tài chính nhà nước phải thường xuyên học hỏi, nâng cao nhận thức và trình độ chuyên môn để làm tốt công tác của mình. Tổ chức và cá nhân nào vi phạm, làm thất thoát tài sản tiền vốn của Ngân sách nhà nước sẽ bị xử lý nghiêm minh. 2.3. Mục tiêu hoạt động của Tín dụng Nhà nước ở VN + Phục vụ lợi ích chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội: Trong mọi hoàn cảnh và mọi trường hợp, khi phát sinh các quan hệ tín dụng nhà nước trên cả hai góc độ đi vay và cho vay, nhà nước các cấp đều cân nhắc, tính toán các lợi ích chung của nền kinh tế xã hội, của từng vùng miền, khu vực. Trên thực tế, mọi mặt hoạt động của tín dụng nhà nước, từ việc phát hành trái phiếu để huy động vốn, đến việc sử dụng vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, việc cho vay hỗ trợ các đối tượng chính sách v.v... tín dụng nhà nước ở Việt Nam đều thống nhất mục tiêu xuyên suốt này. + Đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, tạo đà và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo định hướng và mục tiêu trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. +Tạo công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống cho các đối tượng thuộc diện chính sách xã hội (Hộ nghèo, thương binh. bệnh binh, người tàn tật. học sinh sinh viên, đồng bào dân tộc miền núi hải đảo v.v...) và tín dụng hỗ trợ cho các chương trình kinh tế xã hội của Chính phủ (Chương trình giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, chương trình thanh niên lập nghiệp, doanh nghiệp nhỏ v.v...) góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội. 2.4. Vai trò của tín dụng nhà nước ở Việt Nam Vai trò của tín dụng nhà nước thể hiện trên 3 nội dung sau [5]: + Tín dụng nhà nước góp phần đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. - Một quốc gia có nền kinh tế phát triển, quốc gia đó nhất định phải có cơ sở hạ tầng hiện đại, bởi vì cơ sở hạ tầng hiện đại sẽ tạo đà vững chắc cho phát triển kinh tế. Quốc gia nào có hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông phát triển (Cầu đường bộ, cầu đường sắt, hệ thống cảng biển, cảng hàng không) sẽ tạo sự giao lưu thông thoáng trong giao dịch kinh tế quốc nội và quốc tế. Hệ thống cơ sở hạ tầng về nhiệt điện, thủy điện, khai thác tài nguyên thiên nhiên, lọc hóa dầu sẽ tạo sự kết nối và phát triển vững chắc cho các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, chế biến. Tóm lại, Việt Nam rất cần thiết phải đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu chúng ta vừa tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ phát triển (ODA) vừa phải sử dụng công cụ của tín dụng nhà nước một cách linh hoạt và có hiệu quả. Những quốc gia có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới đều phát huy vai trò này của tín dụng nhà nước. Đây cũng là một bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong giai đoạn phát triển kinh tế xã hội hiện nay, chính vì vậy mà trong 10 năm trở lại đây Chính phủ Việt Nam đã mạnh dạn phát hành trái phiếu quốc tế (2007 và 2009) và phát hành trái phiếu quốc nội trong nhiều năm liền với quy mô ngày càng tăng nhằm tập trung nguồn vốn để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của nền kinh tế và cũng đã có những thành công nhất định trong vấn đề này. - Tín dụng nhà nước là công cụ chủ yếu để nhà nước huy động và tập trung các nguồn 20 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật vốn trong xã hội kể cả trong nước và nước ngoài để đầu tư vào các công trình thuộc cơ sở hạ tầng của nền kinh tế xã hội. Chính nhờ vậy mà cơ sở hạ tầng và bộ mặt kinh tế xã hội của đất nước ngày càng phát triển, khang trang hiện đại, tạo tiền đề cho các hoạt động kinh tế, văn hóa giáo dục phát triển mạnh. - Tín dụng nhà nước với công cụ trái phiếu đã tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn cho các nhà đầu tư kinh doanh quốc nội và quốc tế. Đầu tư vào trái phiếu nhà nước vừa an toàn vừa có hiệu quả cho các cá nhân và tổ chức trong xã hội. + Góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhờ tác động của việc xây dựng cơ sở hạ tầng của nền kinh tề thông qua hình thức “tín dụng đầu tư, đồng thời qua tác động tích cực của hình thức “tín dụng xuất khẩu” mà tất cả các ngành kinh tế đều có điều kiện để cùng phát phát triển. Bên cạnh đó xuất khẩu hàng hóa được đẩy mạnh sẽ tạo mối liên kết giữa các ngành, tạo sự chuyển dịch về cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, cạnh tranh tốt trên thị trường quốc tế. + Tín dụng nhà nước góp phần xóa đói giảm nghèo và tăng cường an sinh xã hội. - Tín dụng nhà nước còn có vai trò to lớn trong việc hỗ trợ giúp đỡ các đối tượng gặp khó khăn trong đời sống hoặc trong sản xuất kinh doanh. Nhờ sự hỗ trợ này mà các đối tượng chính sách có điều kiện để ổn định đời sống, tham gia quá trình sản xuất, làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội. 3. KẾT LUẬN Khi phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, nhưng chúng ta phải chấp nhận các quy luật của thị trường. Nghĩa là giảm sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh tế của các chủ thể và chấp nhận cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh tế. Trong môi trường như vậy, sự thua lỗ, sự phá sản có thể xảy ra, thất nghiệp và sự phân hóa giàu nghèo cũng có thể xảy ra. Trong hoàn cảnh đó, Nhà nước với vai trò là người lãnh đạo và quản lý trật tự xã hội hướng đến sự công bằng và an sinh chung, sẽ sử dụng công cụ tín dụng nhà nước để trợ giúp các đối tượng cần được giúp đỡ như nhân dân ở vùng núi, vùng biển, hải đảo, những nơi không có điều kiện phát triển kinh tế; giúp đỡ người nghèo, neo đơn, già cả v.v... Việt Nam được Liên Hiệp Quốc đánh giá là quốc gia có thành tích hàng đầu trong xóa đói giảm nghèo là một minh chứng cho vấn đề này. Tín dụng nhà nước có vai trò rất quan trọng ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Riêng đối với Việt Nam tín dụng nhà nước càng có vai trò quan trọng hơn, bởi vì Việt Nam đã trải qua nhiều năm chiến tranh với sự tàn phá nặng nề và khốc liệt. Hầu hết các cơ sở hạ tầng của nền kinh tế bị hủy hoại, các cơ sở sản xuất kinh doanh và đời sống của người dân gặp nhiều khó khăn. Tuy chiến tranh đã lùi xa, Đảng và Nhà nước đã đề ra định hướng và chính sách để động viên mọi nguồn lực cho việc phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và đã gặt hái được nhiều thành tựu rất to lớn, nhưng xét một cách tổng thể thì Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các nước nghèo. Muốn thoát nghèo và vươn lên mạnh mẽ để trở thành một quốc gia có vị trí kinh tế đang phát triển trong giai đoạn hiện nay, tín dụng nhà nước ở Việt Nam cần được sử dụng một cách mạnh mẽ, chủ động, tích cực và hiệu quả ./. 21 Tín dụng và vai trò . . . TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Dương Thị Bình Minh - Chủ biên (2012). Lý thuyết tài chính tiền tệ. Nxb. Tài chính. [2]. Nguyễn Hồng Thắng - Chủ biên (2013). Tài chính Công. Nxb. Đại học Quốc gia TP HCM [3]. Nguyễn Đăng Dờn - Chủ biên (2012), Tài chính tiền tệ. Nxb. Đại học Quốc gia TP HCM [4] Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: Website Ngân hàng Phát triển Việt Nam: Website Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam: com.vn [5]. Tạp chí Hỗ trợ Phát triển - Ngân hàng Phát triển Việt Nam (2012, 2013, 2014)
File đính kèm:
- tin_dung_va_vai_tro_cua_tin_dung_nha_nuoc_viet_nam_ly_luan_v.pdf