Thu hút FDI "xanh" gắn với mục tiêu phát triển bền vững

Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam thời gian qua đã đạt những kết quả

ấn tượng. Trong 10 năm qua, dòng vốn FDI hàng năm vào Việt Nam tăng gần 1.000%. Riêng năm

2018, tổng số vốn các dự án FDI đăng ký cấp mới và tăng thêm đạt khoảng 35,46 tỷ USD, trong đó

vốn FDI thực hiện đạt khoảng 19,1 tỷ USD, tăng 9,1% so với năm 2017. Mặc dù, thu hút vốn FDI đã

ghi nhận những kết quả ấn tượng nhưng Việt Nam cũng dần nhận thức được rằng cần phải có một

sự thay đổi chiến lược về chính sách, cụ thể là hướng tới thu hút FDI thế hệ mới, FDI “xanh”, để duy

trì khả năng cạnh tranh, thu hút bền vững nguồn vốn FDI gắn với mục tiêu phát triển bền vững

pdf 5 trang phuongnguyen 220
Bạn đang xem tài liệu "Thu hút FDI "xanh" gắn với mục tiêu phát triển bền vững", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thu hút FDI "xanh" gắn với mục tiêu phát triển bền vững

Thu hút FDI "xanh" gắn với mục tiêu phát triển bền vững
38
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VĨ MÔ
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã tạo ra nhiều 
cơ hội đầu tư mới, phát triển nhiều dự án đầu tư với 
sự đa dạng về hình thức, quy mô và lĩnh vực, góp 
phần quan trọng vào những thành tựu chung về 
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong quá 
trình phát triển, Đảng và Nhà nước đã quán triệt 
chủ trương xuyên suốt, đó là: “Phát triển nhanh, 
hiệu quả và bền vững, tiến bộ, công bằng xã hội và 
bảo vệ môi trường”; “Phát triển kinh tế - xã hội gắn 
chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự 
hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường 
thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”; “Bảo vệ môi 
trường là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát 
triển, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, cộng 
đồng, doanh nghiệp (DN) và nhân dân. 
 Triển khai chủ trương, quan điểm trên, Chính 
phủ đã chỉ đạo, điều hành và ban hành nhiều chính 
sách ưu đãi nhằm thu hút nguồn vốn FDI vào phát 
triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm 
của những quốc gia phát triển, Việt Nam đã và 
đang tích cực thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế theo 
hướng xanh hóa sản xuất, nghiên cứu ứng dụng 
công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng hiệu quả nguồn 
tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu phát thải khí nhà 
kính. FDI vẫn tiếp tục được xác định là kênh đầu 
tư quan trọng để Việt Nam xây dựng nền kinh tế 
xanh, giúp Việt Nam hiện thực hóa nhanh các định 
hướng phát triển. Để thực hiện những mục tiêu nêu 
trên, Chính phủ Việt Nam triển khai, ban hành một 
số chính sách quan trọng như hoàn thiện Đề án tái 
cơ cấu nền kinh tế; Chiến lược quốc gia về ứng phó 
với biến đổi khí hậu; Chiến lược quốc gia về tăng 
trưởng xanh Trong Chiến lược quốc gia về tăng 
Vấn đề môi trường sau 30 năm thu hút vốn FDI
Sau 30 năm thực hiện chính sách đổi mới, Việt 
Nam đã và đang ngày càng hội nhập sâu vào nền 
kinh tế thế giới. Việc đẩy nhanh quá trình công 
THU HÚT FDI "XANH" 
GẮN VỚI MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 
NGUYỄN THỊ NGỌC LOAN - Học viện Ngân hàng *
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam thời gian qua đã đạt những kết quả 
ấn tượng. Trong 10 năm qua, dòng vốn FDI hàng năm vào Việt Nam tăng gần 1.000%. Riêng năm 
2018, tổng số vốn các dự án FDI đăng ký cấp mới và tăng thêm đạt khoảng 35,46 tỷ USD, trong đó 
vốn FDI thực hiện đạt khoảng 19,1 tỷ USD, tăng 9,1% so với năm 2017. Mặc dù, thu hút vốn FDI đã 
ghi nhận những kết quả ấn tượng nhưng Việt Nam cũng dần nhận thức được rằng cần phải có một 
sự thay đổi chiến lược về chính sách, cụ thể là hướng tới thu hút FDI thế hệ mới, FDI “xanh”, để duy 
trì khả năng cạnh tranh, thu hút bền vững nguồn vốn FDI gắn với mục tiêu phát triển bền vững. 
Từ khóa: FDI, vốn đầu tư, phát triển bền vững, chính sách
“GREEN” FDI ATTRACTION ASSOCIATING WITH THE GOAL 
OF SUSTAINABLE DEVELOPMENT
Nguyen Thi Ngoc Loan - Banking Academy
Attracting foreign direct investment (FDI) of 
Vietnam in recent years has achieved impressive 
results. In the past 10 years, annual FDI flows 
into Vietnam increased by approximately 
1,000%. Particularly in 2018, the total capital 
of newly registered and additional FDI projects 
was approximately USD 35.46 billion, of 
which implemented FDI was USD 19.1 billion, 
increasing 9.1% compared to 2017. Although 
FDI attraction has recorded impressive results, 
Vietnam is also gradually aware of the need to 
have a strategic change in policy, specifically 
towards attracting the new-generation FDI, 
the “green” FDI, to maintain competitiveness 
and attract FDI in association with sustainable 
development goals.
Keywords: FDI, investment capital, sustainable 
development, policy
Ngày nhận bài: 20/12/2018
Ngày hoàn thiện biên tập: 17/1/2019
Ngày duyệt đăng: 22/1/2019
*Email: ntloanhvnt@gmail.com
TÀI CHÍNH - Tháng 02/2019
39
trưởng xanh có 3 mục tiêu chính, đó là: Tái cấu trúc 
và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh hóa 
các ngành hiện có, khuyến khích phát triển các vùng 
kinh tế sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên 
với giá trị gia tăng cao; Nghiên cứu ứng dụng ngày 
càng rộng rãi công nghệ tiên tiến, nhằm sử dụng 
hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, giảm cường độ 
phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả 
với biến đổi khí hậu; Nâng cao đời sống của nhân 
dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường 
thông qua tạo nhiều việc làm từ các ngành công 
nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ xanh, đầu tư vào 
vốn tự nhiên, phát triển hạ tầng xanh. 
Như vậy, thu hút FDI được xác định là một trong 
những nhiệm vụ quan trọng để nước ta thực hiện 
mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết quả 
sau 30 năm triển khai chính sách thu hút nguồn 
vốn FDI, các loại hình dự án sản xuất công nghiệp 
đã đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã 
hội đất nước. Tính đến 20/12/2018 đã có 3.046 dự 
án cấp phép mới tại Việt Nam với số vốn đăng ký 
đạt 17.976,2 triệu USD. Bên cạnh đó, có 1.169 lượt 
dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều 
chỉnh vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 7.596,7 
triệu USD. Tổng số vốn dự án FDI đăng ký cấp mới 
và tăng thêm trong năm 2018 đạt 35,46 tỷ USD. Vốn 
đầu FDI thực hiện đạt khoảng 19,1 tỷ USD, tăng 
9,1% so với năm 2017. 
Nhiều dự án đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề 
như: Luyện kim, phá dỡ tàu biển, sản xuất giấy, bột 
giấy, ván sợi, sản xuất hóa chất, phân bón hóa học, 
thuốc bảo vệ thực vật; nhuộm, giặt mài, thuộc da, 
lọc hóa dầu, sản xuất cốc, khí hóa than đã được 
đầu tư phát triển. Theo số liệu thống kê, tính đến 
đầu năm 2018, cả nước có 156 dự án FDI trong lĩnh 
vực hàng hóa và dịch vụ môi trường, chiếm 0,62% 
số vốn dự án FDI vào Việt Nam. Tổng vốn đầu tư 
đăng ký trong lĩnh vực này là 3,86 tỷ USD, vốn góp 
đăng ký là 897,6 triệu USD; chiếm 1,2% tổng vốn 
đăng ký đầu tư các dự án FDI vào Việt Nam. Các 
dự án FDI đăng ký trong lĩnh vực hàng hóa và dịch 
vụ môi trường còn rất thấp so với các lĩnh vực khác 
cả về số lượng và tổng vốn đăng ký. Tuy nhiên, quy 
mô vốn đầu tư của một dự án trong lĩnh vực hàng 
hóa và dịch vụ môi trường khá cao, đạt mức trung 
bình 24,76 triệu USD/dự án, trong khi quy mô vốn 
đăng ký bình quân của dự án FDI vào Việt Nam đạt 
khoảng 13 triệu USD/dự án
Bên cạnh những đóng góp tích cực cho phát 
triển kinh tế - xã hội đất nước, vấn đề thu hút dự 
án FDI đã, đang đặt ra cho Việt Nam nhiều thách 
thức, nhất là vấn đề môi trường. Theo báo cáo của 
Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương – Bộ 
Kế hoạch và Đầu tư năm 2017 cho thấy, gần đây 
đã có chiều hướng chuyển dịch dòng vốn FDI tiêu 
tốn năng lượng và tài nguyên, nhân lực, không thân 
thiện với môi trường như: Sửa chữa tàu biển, khai 
thác và tận thu khoáng sản không gắn với chế biến 
sâu, sản xuất bột giấy, sản xuất hóa chất, chế biến 
nông sản thực phẩm vào Việt Nam. 
Thực tế cho thấy, nhiều dự án FDI ở Việt Nam 
là ngành sản xuất thô, có tính gia công cao, mức 
độ phát thải lớn, giá trị gia tăng thấp, thiếu những 
ngành công nghiệp mang tính nền tảng như công 
nghiệp hỗ trợ, công nghệ cao. Đây là những dự án 
có nguy cơ gây ô nhiễm, suy thoái môi trường do 
có lượng chất thải gồm nước thải, khí thải và chất 
thải rắn lớn, có nồng độ các chất ô nhiễm cao. Nhiều 
DN FDI đã nhập khẩu công nghệ, thiết bị máy móc 
cũ, lạc hậu, thiếu giải pháp công nghệ xử lý chất 
thải. Trên góc độ ngành, lĩnh vực dịch vụ và chế tạo, 
chế biến là những ngành thu hút FDI vào Việt Nam 
nhiều nhất trong 30 năm qua, trong khi các ngành 
khoáng sản và nông nghiệp chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Nhìn chung xu hướng xuất khẩu ô nhiễm từ các 
nước phát triển sang các nước đang phát triển thông 
qua đầu tư FDI đang ngày càng gia tăng và Việt 
Nam có nguy cơ trở thành một trong những nước 
có mức nhập khẩu ô nhiễm cao. Trong khi, năng lực 
HÌNH 1: 3 LĨNH VỰC THU HÚT ĐẦU TƯ FDI LỚN NHẤT 
TRONG NĂM 2018
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Tính đến 20/12/2018 đã có 3.046 dự án cấp phép 
mới tại Việt Nam với số vốn đăng ký đạt 17.976,2 
triệu USD. Bên cạnh đó, có 1.169 lượt dự án đã 
cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh 
vốn đầu tư với số vốn tăng thêm đạt 7.596,7 
triệu USD. Tổng số vốn dự án FDI đăng ký cấp 
mới và tăng thêm trong năm 2018 đạt 35,46 tỷ 
USD. Vốn đầu FDI thực hiện đạt khoảng 19,1 tỷ 
USD, tăng 9,1% so với năm 2017.
40
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VĨ MÔ
phòng ngừa, kiểm soát, bảo vệ môi trường của một 
số DN FDI còn bất cập. Trong thực tế đã xảy ra một 
số vụ việc vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường của 
các DN FDI, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng 
đến môi trường và chất lượng cuộc sống người dân. 
Điển hình nhất là sự cố gây ô nhiễm môi trường 
biển tại 4 tỉnh miền Trung của Công ty TNHH Gang 
thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh trong năm 
2016. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này có nhiều 
song tựu trung có một số nguyên nhân khách quan 
và chủ quan cơ bản sau:
Nguyên nhân khách quan: Áp lực lên môi trường 
ngày càng lớn bởi quá trình gia tăng dân số, đô thị 
hóa nhanh, công nghiệp hóa mạnh, gia tăng sản 
xuất nông nghiệp, tư duy ưu tiên thu hút đầu tư, 
phát triển kinh tế mà chưa quan tâm đúng mức đến 
bảo vệ môi trường, vẫn còn tồn tại một số lượng lớn 
các lĩnh vực, loại hình công nghiệp có nguy cơ gây ô 
nhiễm môi trường cao, công nghệ sản xuất thấp, lạc 
hậu đã làm gia tăng các nguồn gây ô nhiễm, phát 
sinh chất thải lớn ra môi trường. 
Nguyên nhân chủ quan: Chủ yếu là do chưa có biện 
pháp, công cụ phòng ngừa, kiểm soát ô nhiễm môi 
trường hiệu quả, nhất là trong việc phát hiện, kiểm 
soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường lớn. Nhận 
thức, ý thức trách nhiệm về bảo vệ môi trường của 
chủ đầu tư, một số cơ quan ban ngành địa phương, 
cấp chính quyền, tổ chức kinh tế, cộng đồng dân 
cư còn hạn chế. Tình trạng chú trọng lợi ích kinh tế 
trước mắt, xem nhẹ công tác bảo vệ môi trường còn 
khá phổ biến, nhất là trong quá trình thẩm định, xét 
duyệt, thực hiện các dự án FDI. Nhiều địa phương 
rải thảm đỏ thu hút dự án FDI bằng mọi giá, ít có 
chọn lọc, đã chấp nhận những DN FDI khai thác tài 
nguyên giá rẻ với công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm 
môi trường nghiêm trọng. 
Một nguyên nhân không nhỏ của tình trạng này 
là do năng lực quản lý nhà nước còn thấp và các rào 
cản về thể chế vẫn còn tồn tại. Trình độ quản lý của 
một số cơ quan quản lý còn hạn chế, chưa dự báo 
được các tác động môi trường từ các dự án FDI; biện 
pháp quản lý còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu. 
Vấn đề quy hoạch, nhất là về quy hoạch môi trường 
chậm được ban hành, dẫn đến thiếu căn cứ thẩm 
định, quyết định chủ trương đầu tư. Sự phối hợp 
của các cấp, các ngành trong kiểm soát các nguồn 
thải từ các dự án FDI chưa hiệu quả, đồng bộ, chặt 
chẽ. Một vài ưu tiên chính sách quan trọng liên quan 
đến những nội dung như: tạo ra cơ hội việc làm chất 
lượng cao, xây dựng liên kết chặt chẽ hơn giữa nhà 
cung cấp trong nước và DN quốc tế, nâng cao giá 
trị gia tăng và thu hẹp khoảng cách phát triển kinh 
tế giữa các tỉnh thành, chính sách môi trường và 
các khung chính sách khuyến khích liên quan chưa 
mang lại tiến bộ đáng kể trong các lĩnh vực này hoặc 
đã bị thay đổi đáng kể trong 5 năm qua. 
Trong những năm qua, đối tượng của công tác 
quản lý nhà nước về môi trường tăng nhanh, các 
vấn đề môi trường ngày càng lớn và phức tạp, trong 
khi Việt Nam chưa có đủ kinh nghiệm và cơ chế, 
tiêu chuẩn môi trường để sàng lọc hiệu quả các dự 
án FDI; chưa lường hết được những nguy cơ tiềm 
ẩn về vấn đề gây ô nhiễm môi trường của một số 
dự án FDI, nhất là những dự án phát sinh nguồn 
thải lớn để có biện pháp quản lý, giám sát hiệu quả. 
Quy luật phát triển và kinh nghiệm của các nước 
cho thấy, nhóm 20% DN, dự án, cơ sở sản xuất lớn, 
công nghệ lạc hậu phần lớn gây ra vấn đề về môi 
trường trong cả vòng đời sản xuất
Tóm lại, dù hoạt động thu hút vốn FDI đã có 
những kết quả ấn tượng nhưng Việt Nam cũng dần 
nhận thức được rằng cần phải có một sự thay đổi 
chiến lược về chính sách, cụ thể là hướng tới thu 
HÌNH 3: 3 TỈNH THU HÚT VỐN FDI NHIỀU NHẤT 
TRONG NĂM 2018
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
HÌNH 4: KẾT QUẢ MONG MUỐN CỦA CHIẾN LƯỢC VÀ ĐỊNH 
HƯỚNG THU HÚT FDI THẾ HỆ MỚI GIAI ĐOẠN 2018-2030
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
TÀI CHÍNH - Tháng 02/2019
41
hút FDI “xanh”, để duy trì khả năng cạnh tranh, thu 
hút bền vững nguồn vốn FDI gắn với mục tiêu phát 
triển bền vững. 
Các giải pháp, thu hút đầu tư FDI “xanh” 
gắn với tăng trưởng bền vững
Trong bối cảnh nhiều nguồn tài nguyên đang dần 
cạn kiệt, biến đổi khí hậu gia tăng, xu hướng phát triển 
nền kinh tế xanh và bền vững đang dần trở thành xu 
thế của thời đại, năng lượng tái tạo, năng lượng mới 
được đầu tư phát triển, triển vọng trở thành nguồn 
năng lượng chủ đạo trong tương lai. Trong xu thế đó, 
Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam 
giai đoạn 2011 - 2020 cũng đã cho thấy sự cần thiết 
phải thực hiện cải cách cơ cấu, đảm bảo bền vững môi 
trường, công bằng xã hội cũng như các vấn đề mới 
nảy sinh trong quá trình ổn định kinh tế vĩ mô. 
Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng đã xác định 
hướng hoàn thiện chính sách về FDI như sau: Rà soát, 
sửa đổi pháp luật, chính sách để thu hút mạnh FDI, 
nhất là các dự án có công nghệ cao, thân thiện môi 
trường, sản phẩm có giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa 
hóa cao, tham gia mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị 
toàn cầu thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế. Tăng cường 
thu hút FDI có công nghệ cao, thân thiện môi trường, 
sử dụng nhiều lao động. Khuyến khích đầu tư xây 
dựng kết cấu hạ tầng và các ngành công nghiệp hỗ 
trợ, năng lượng tái tạo, vật liệu mới, điện tử, công 
nghệ thông tin, giống cây trồng, vật nuôi, đào tạo 
nhân lực và chăm sóc sức khỏe chất lượng cao có 
cơ chế linh hoạt đối với các dự án đặc thù. Khuyến 
khích thành lập các trung tâm nghiên cứu triển khai 
của DN đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
 Quán triệt tinh thần Đại hội lần thứ XII, Chính 
phủ, các bộ, ngành, địa phương đã và đang đẩy mạnh 
hoàn thiện thể chế kinh tế, cải cách hành chính, tư 
pháp; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh theo 
chuẩn mực quốc tế; đảm bảo vận hành hiệu quả các 
loại thị trường; thúc đẩy thị trường hóa các nhân tố 
sản xuất; tập trung khắc phục bất cập về cơ sở hạ 
tầng, nguồn nhân lực; phát triển hệ thống DN trong 
nước Trong đó, xác định rõ mục tiêu thu hút, sử 
dụng vốn FDI phải đi vào thực chất hơn, cả về số 
lượng và chất lượng, theo cả chiều rộng và chiều 
sâu; đảm bảo phát triển bền vững, khuyến khích 
đổi mới, sáng tạo liên kết chặt chẽ giữa DN FDI với 
DN trong nước, nâng cao vị trí của Việt Nam trong 
chuỗi giá trị toàn cầu và trình độ, năng lực sáng tạo 
của lực lượng lao động Việt Nam
Tuy nhiên, theo nhận định của giới chuyên gia, để 
thu hút và sử dụng nguồn lực FDI “xanh” hiệu quả, 
thời gian tới, Việt Nam cần điều chỉnh định hướng 
chính sách thu hút đầu tư vốn FDI như sau:
Thứ nhất, ưu tiên thu hút FDI vào các ngành, lĩnh 
vực công nghệ cao, tiên tiến, công nghệ thân thiện 
với môi trường, năng lượng sạch, năng lượng tái 
tạo; sản xuất thiết bị y tế, cung cấp dịch vụ chăm 
sóc sức khỏe, giáo dục và đào tạo, du lịch chất lượng 
cao, dịch vụ tài chính, logistics và các dịch vụ hiện 
đại khác; sản xuất nông nghiệp công nghệ cao, nông 
nghiệp thông minh; phát triển kết cấu hạ tầng kỹ 
thuật hiện đại, đặc biệt là các ngành nghề mới trên 
nền tảng công nghiệp 4.0. Thu hút FDI phải bảo 
đảm hài hòa giữa tăng trưởng xuất khẩu với đầu tư 
phát triển sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng và 
sử dụng nguồn nguyên liệu nội địa, phát triển công 
nghiệp hỗ trợ, đào tạo nguồn nhân lực trong nước.
Thứ hai, về đối tác, cần tập trung vào thu hút 
FDI, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia liên kết với 
DN trong nước hình thành và phát triển cụm liên 
kết ngành theo từng chuỗi giá trị. Trong ngắn hạn, 
tiếp tục thu hút FDI vào các ngành mà Việt Nam vẫn 
đang có lợi thế như dệt may, da giày... Đồng thời, tập 
trung vào các khâu tạo giá trị gia tăng cao, gắn với 
quy trình sản xuất thông minh, tự động hóa.
Thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa thu hút 
FDI từ các thị trường và đối tác tiềm năng. Khai thác 
có hiệu quả mối quan hệ với các đối tác chiến lược 
(đối tác toàn diện, đối tác chiến lược toàn diện), chú 
trọng các nước phát triển hàng đầu thế giới, các tập 
đoàn xuyên quốc gia nắm giữ công nghệ nguồn, 
tiên tiến và trình độ quản trị hiện đại. Bên cạnh đó, 
chủ động theo dõi, đánh giá xu hướng dịch chuyển 
dòng vốn FDI vào Việt Nam có công nghệ lạc hậu, 
có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường từ một số nước 
trong khu vực để có giải pháp ngăn chặn kịp thời. 
Việc thu hút FDI từ các DN nhỏ và vừa, dự án quy 
mô nhỏ, siêu nhỏ phải đảm bảo điều kiện nâng cấp 
công nghệ và gia nhập mạng sản xuất và chuỗi giá 
trị toàn cầu, phát triển công nghiệp hỗ trợ. 
Thứ ba, thu hút FDI phải phù hợp với lợi thế, 
điều kiện, trình độ phát triển và quy hoạch từng 
địa phương trong mối liên kết vùng, đảm bảo hiệu 
quả tổng thể kinh tế - xã hội - môi trường. Đối với 
những địa bàn, khu vực nhạy cảm, liên quan đến 
Dù hoạt động thu hút vốn FDI đã có những kết 
quả ấn tượng nhưng Việt Nam cũng dần nhận 
thức được rằng cần phải có một sự thay đổi 
chiến lược về chính sách, cụ thể là hướng tới 
thu hút FDI “xanh” để duy trì khả năng cạnh 
tranh, thu hút bền vững nguồn vốn FDI gắn với 
mục tiêu phát triển bền vững.
42
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VĨ MÔ
quốc phòng, an ninh, khu vực biên giới, vùng biển, 
hải đảo, vùng đặc quyền kinh tế, việc thu hút FDI 
cần bảo đảm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc 
gia lên hàng đầu. Bên cạnh đó, Việt Nam cần hoàn 
thiện cơ chế, chính sách để tạo động lực mới cho 
thu hút và sử dụng FDI vào các khu công nghiệp, 
khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu 
nông nghiệp công nghệ cao. Nghiên cứu, ban hành 
cơ chế, chính sách thu hút các nhà đầu tư chiến 
lược, các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào các đơn 
vị hành chính - kinh tế đặc biệt được Quốc hội 
quyết định thành lập khi điều kiện chín muồi.
Thứ tư, có cơ chế, chính sách để chủ động hỗ trợ 
thúc đẩy phát triển và nâng tầm DN Việt Nam, đẩy 
mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ và tạo sự liên 
kết, lan tỏa giữa DN FDI và DN trong nước
Dự thảo định hướng chiến lược thu hút FDI thế 
hệ mới (giai đoạn 2018-2030) vừa đưa ra lấy ý kiến 
rộng rãi cũng đề xuất 8 khuyến nghị đột phá theo 
các giai đoạn cụ thể sau:
Ưu tiên trước mắt (2018-2020): (1) Thành lập một “cơ 
quan quản lý đầu tư nước ngoài thế hệ mới” có đầy 
đủ chức năng để chỉ đạo việc thực hiện Chiến lược thu 
hút FDI thế hệ mới này; (2) Hiện đại hóa công tác xúc 
tiến đầu tư - bao gồm phạm vi các hoạt động xúc tiến 
đầu tư, cách tiếp cận, công cụ và các chỉ số hiệu quả 
FDI được sử dụng; (3) Thực hiện các chính sách để 
tăng cường liên kết nguồn từ FDI.
Ưu tiên từ ngắn tới trung hạn (2018-2030): (4) Thúc 
đẩy mạnh nguồn cung kỹ năng để bảo đảm thực 
hiện FDI thế hệ mới; (5) Giới thiệu “Môi trường kinh 
doanh 4.0” ứng với nhu cầu kinh doanh trong kỷ 
nguyên số; (6) Cải tổ toàn diện khung chính sách 
ưu đãi hiện hành và chuyển hướng sang ưu đãi 
dựa trên hiệu quả; (7) Mở cửa các ngành quan trọng 
là nền tảng làm nên năng lực cạnh tranh và tăng 
trưởng FDI; (8) Giới thiệu chính sách chiến lược về 
xúc tiến FDI ra nước ngoài.
Cùng với việc đưa ra các khuyến nghị, Dự thảo 
định hướng chiến lược thu hút FDI thế hệ mới cũng 
đã đề xuất tiếp tục nghiên cứu chỉnh sửa, bổ sung 
một số chính sách nhằm góp phần tăng cường liên 
kết thượng nguồn từ đầu tư FDI. Theo Dự thảo, Việt 
Nam vẫn còn chậm thực hiện các chính sách hiện 
hành được thiết kế để hỗ trợ các ngành công nghiệp 
phụ trợ trong nước tham gia vào các chuỗi cung ứng 
FDI. Đây là phân khúc FDI định hướng xuất khẩu 
và thuộc nhóm tìm kiếm hiệu quả, là lĩnh vực mà sự 
phát triển của các liên kết thượng nguồn cần có chính 
sách cụ thể hơn. Ở tất cả các hạng mục xúc tiến đầu 
tư nước ngoài, tình hình có thể nói là thuận lợi hơn. 
Tuy nhiên, trong trường hợp FDI thuộc nhóm tìm 
kiếm hiệu quả, các DN trong nước gặp nhiều thách 
thức hơn khi tham gia chuỗi cung ứng vì những công 
ty này phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt hơn trên thị 
trường toàn cầu và do vậy không thể thỏa hiệp về 
chất lượng của các nhà cung cấp. Điển hình như: 
i) Có chính sách kết nối DN FDI đồng bộ: 
- Xây dựng và áp dụng chính sách kết nối DN 
FDI đồng bộ để giải quyết các điểm yếu và hạn chế 
của thị trường (bao gồm nhược điểm về điều phối, 
bất cân xứng thông tin và nhu cầu nâng cấp DN 
trong nước) và phù hợp với cơ cấu ưu đãi.
- Không nên sử dụng tỷ lệ nội địa hóa 100% làm 
mục tiêu của việc kết nối DN FDI ở Việt Nam hay 
chính sách nội địa hóa, thay vào đó cần căn cứ vào 
thị trường và tìm cách hỗ trợ đầu tư FDI để tối đa 
hoá tính hiệu quả kinh tế của sản xuất trong nước.
- Làm rõ vai trò của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ 
Công Thương và các bên liên quan khác trong thực 
hiện chương trình kết nối DN FDI toàn diện.
ii) Thực hiện các chính sách kết nối DN FDI: 
- Các cấu phần chính của các chính sách kết nối 
DN FDI thường bao gồm triển khai cơ sở dữ liệu 
nhà cung cấp, kết nối dịch vụ, chương trình phát 
triển nhà cung cấp mục tiêu, xúc tiến đầu tư để thu 
hút nhà cung cấp ngoài nước và cung cấp các ưu 
đãi hỗ trợ và/hoặc tín dụng để hỗ trợ nâng cấp DN 
trong nước. Một số công cụ nêu trên tuy đã được 
thực hiện hoặc tuyên bố chính sách đã được ban 
hành, nhưng việc chủ động triển khai những chính 
sách này vẫn còn yếu và phân tán, hay gặp trở ngại 
do thiếu ngân sách.
- Ở những quốc gia có khung thể chế mạnh, vai trò 
của cơ quan xúc tiến đầu tư thường bị bó hẹp chủ yếu 
ở việc giới thiệu nhà cung cấp trong nước, coi như một 
hoạt động cung cấp dịch vụ cho nhà đầu tư và chăm 
sóc sau đầu tư, cũng như xúc tiến đầu tư theo mục tiêu 
để thu hút nhà cung cấp ngoài nước khi cần 
Tài liệu tham khảo:
1. Quốc hội (2014), Luật Đầu tư;
2. Chính phủ Việt Nam (2016), Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam 
giai đoạn 2011-2020;
3. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 68/TTg-2017 phê duyệt Chương 
trình phát triển công nghiệp phụ trợ giai đoạn 2016-2025;
4. Ngân hàng Thế giới/Tổ chức Tài chính quốc tế (2015), Vai trò hiện tại và 
tương lai của Việt Nam trong chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu thông tin và 
truyền thông - Báo cáo cơ sở cho Việt Nam 2035;
5. Ngân hàng Thế giới (2016), Ưu đãi hành vi đối với liên kết (dự thảo), 
Ban Môi trường đầu tư, thương mại và năng lực cạnh tranh toàn cầu, 
Washington, DC;
6. Dự thảo và Định hướng chiến lược thu hút FDI thế hệ mới, giai đoạn 2018-
2030, tháng 3/2018.

File đính kèm:

  • pdfthu_hut_fdi_xanh_gan_voi_muc_tieu_phat_trien_ben_vung.pdf