Thay đổi kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019

Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu can thiệp giáo dục thực hiện từ tháng 11/2018 - 11/2019 cho 54 bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định. Các đối tượng được phỏng vấn bằng phiếu khảo sát thiết kế sẵn về các nội dung liên quan đến kiến thức về chế độ ăn bổ sung cho trẻ. Kết quả: Trước can thiệp, điểm trung bình kiến thức của bà mẹ là 16,43 ± 5,09, sau can thiệp, điểm trung bình kiến thức tăng lên là 33,28 ± 2,08 và duy trì ở mức 29,96 ± 2,97 sau can thiệp 1 tháng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.="" tỷ="" lệ="" bà="" mẹ="" có="" kiến="" thức="" đúng="" về="" thời="" điểm="" cho="" trẻ="" ăn="" bổ="" sung="" hợp="" lý="" theo="" khuyến="" cáo="" của="" who="" là="" tăng="" sau="" can="" thiệp="" là="" 90,7%="" và="" còn="" duy="" trì="" ở="" mức="" khá="" cao="" 77,8%="" ở="" thời="" điểm="" sau="" 1="" tháng.="" tỷ="" lệ="" kiến="" thức="" đúng="" về="" thời="" điểm="" cho="" trẻ="" ăn="" cháo="" tăng="" sau="" can="" thiệp="" là="" 98,1%="" và="" duy="" trì="" ở="" mức="" 90,7%="" ở="" thời="" điểm="" sau="" 1="" tháng.="" kết="" luận:="" kiến="" thức="" về="" chế="" độ="" ăn="" bổ="" sung="" của="" các="" bà="" mẹ="" có="" con="" từ="" 6="" đến="" 24="" tháng="" tuổi="" được="" cải="" thiện="" rõ="" rệt="" sau="" can="" thiệp="" giáo="">

pdf 9 trang phuongnguyen 200
Bạn đang xem tài liệu "Thay đổi kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thay đổi kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019

Thay đổi kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019
71
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
THAY ĐỔI KIẾN THỨC VỀ CHẾ ĐỘ ĂN BỔ SUNG CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON
TỪ 6 ĐẾN 24 THÁNG TUỔI ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN NHI TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2019
Nguyễn Thị Thanh Huyền1, Trần Thị Hồng Hạnh1, Vũ Thị Minh Phượng1, 
Đỗ Thu Tình1b, Phạm Thị Hoàng Yến1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định 
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức 
về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con 
từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại bệnh viện 
Nhi tỉnh Nam Định năm 2019. Đối tượng 
và phương pháp nghiên cứu: nghiên 
cứu can thiệp giáo dục thực hiện từ tháng 
11/2018 - 11/2019 cho 54 bà mẹ có con từ 
6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại bệnh viện Nhi 
tỉnh Nam Định. Các đối tượng được phỏng 
vấn bằng phiếu khảo sát thiết kế sẵn về các 
nội dung liên quan đến kiến thức về chế độ 
ăn bổ sung cho trẻ. Kết quả: Trước can 
thiệp, điểm trung bình kiến thức của bà mẹ 
là 16,43 ± 5,09, sau can thiệp, điểm trung 
bình kiến thức tăng lên là 33,28 ± 2,08 và 
duy trì ở mức 29,96 ± 2,97 sau can thiệp 
1 tháng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
với p < 0,001. Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức 
đúng về thời điểm cho trẻ ăn bổ sung hợp 
lý theo khuyến cáo của WHO là tăng sau 
can thiệp là 90,7% và còn duy trì ở mức 
khá cao 77,8% ở thời điểm sau 1 tháng. Tỷ 
lệ kiến thức đúng về thời điểm cho trẻ ăn 
cháo tăng sau can thiệp là 98,1% và duy trì 
ở mức 90,7% ở thời điểm sau 1 tháng. Kết 
luận: Kiến thức về chế độ ăn bổ sung của 
các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi 
được cải thiện rõ rệt sau can thiệp giáo dục.
Từ khóa: Thay đổi kiến thức, ăn bổ 
sung, bệnh viện Nhi Tỉnh Nam Định.
CHANGING KNOWLEDGE OF COMPLEMENTARY FEEDING OF MOTHERS HAVING 
CHILDREN AGED BETWEEN 6 AND 24 MONTHS TREATED 
IN NAM DINH PEDIATRIC HOSPITAL IN 2019
ABSTRACT
Objective: To evaluate the change in 
knowledge of complementary feeding of 
mothers having children aged between 6 
and 24 months treated in Nam Dinh pediatric 
hospital in 2019. Subjects and methods: 
Educational intervention research, from 
November 2018 to November 2019, 54 
mothers with children from 6 to 24 months of 
age treated in Nam Dinh Paediatric Hospital. 
Participants were interviewed by means of 
pre-designed questionnaires with related 
knowledge of complementary feeding for 
children. Results: Before the intervention, 
the mothers’ knowledge mean score was 
16.43 ± 5.09,after the intervention, the figure 
increased to 33.28 ± 2.08 and remained at 
29.96 ± 2.97 after 1 month of intervention. 
The difference was statistically significant 
with P <0.05. The proportion of mothers 
with accurate knowledge of appropriate 
timing of complementary feeding according 
to WHO recommendations increasing after 
intervention was 90.7% and maintained at a 
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Thị Thanh Huyền
Email: [email protected]
Ngày phản biện: 22/9/2020
Ngày duyệt bài: 28/9/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
72
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
fairly high level of 77.8% after 1 month. The 
percentage of correct knowledge of the time 
when children fed porridge increased after 
the intervention was 98.1% and maintained 
at 90.7% after 1 month. Conclusion: 
Knowledge of complementary feeding of 
mothers with children from 6 to 24 months 
of age was improved after the intervention.
Keywords: Changing knowledge, 
complementary feeding, Nam Dinh 
Paediatric Hospital
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dinh dưỡng hợp lý vô cùng quan trọng 
trong việc giúp trẻ hoàn thiện sự phát triển 
cả về mặt thể chất lẫn trí não, trong đó “ăn 
bổ sung” là giai đoạn rất quan trọng cho sự 
phát triển của trẻ, nếu không chú ý những 
khuyến cáo khoa học khi cho trẻ ăn bổ sung 
sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển 
của trẻ, dẫn đến nhiều hệ lụy khôn lường 
như trẻ thường xuyên mắc bệnh vì sức đề 
kháng quá yếu kém, suy dinh dưỡng dẫn 
đến còi cọc vì cơ thể thiếu hụt những chất 
dinh dưỡng thiết yếu. Và sự kém phát triển 
thể chất lẫn trí não sẽ khiến trẻ rất khó bắt 
kịp tốc độ tăng trưởng với các bạn đồng 
trang [1].
Tạp chí The Lancet, 2013 cho thấy: tình 
trạng dinh dưỡng của trẻ nhỏ là một trong 
những nguyên nhân dẫn đến 3,1 triệu/6,9 
triệu trẻ dưới 5 tuổi tử vong và 165 triệu 
trẻ em < 5 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp 
còi. Trên 2/3 trong số trẻ bị tử vong dưới 5 
tuổi là số trẻ < 1 tuổi và thường liên quan 
đến thực hành dinh dưỡng trẻ không hợp 
lý [2]. Theo thống kê của Viện dinh dưỡng 
– Unicef về tình hình cho trẻ ăn bổ sung 
chỉ có 51,7% trẻ dược ăn bổ sung đúng 
và đủ [3]. Cho ăn bổ sung không hợp lý, 
không đảm bảo về số lượng và chất lượng 
là nguyên nhân chính dẫn đến suy dinh 
dưỡng trong hai năm đầu.
Hiện nay, nhiều trẻ nhỏ được nuôi 
dưỡng không đúng cách. Nhiều bà mẹ 
dù bắt đầu cho trẻ bú tốt nhưng cho trẻ 
ăn bổ sung sớm, hoặc chỉ cho bú vài tuần 
sau đẻ, hoặc cho trẻ bú mẹ không đúng 
cách. Một số trường hợp, trẻ phát triển tốt 
trong 6 tháng đầu được nuôi bằng sữa mẹ 
nhưng lại cho trẻ ăn bổ sung quá muộn, 
hoặc cho trẻ ăn bổ sung không hợp lý. 
Hậu quả là trẻ bị suy dinh dưỡng, đặc biệt 
là suy dinh dưỡng thấp còi làm ảnh hưởng 
đến sự phát triển thể lực và trí tuệ của trẻ, 
một vấn đề đang gia tăng ở nhiều nước.. 
Nguyên nhân chủ yếu gây suy dinh dưỡng 
trẻ em không phải do thiếu thức ăn mà do 
thiếu kiến thức cho trẻ bú mẹ và ăn bổ 
sung [4]. Nghiên cứu này được tiến hành 
nhằm nâng cao kiến thức của bà mẹ về 
chế độ ăn bổ sung, từ đó góp phần giảm 
tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em.Vì vậy, chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Thay đổi 
kiến thức về chế độ ăn bổ sung cho các 
bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều 
trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 
2019” với mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi 
kiến thức về chế độ ăn bổ sung cho các 
bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều 
trị tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 
2019.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm 
nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu (ĐTNC)
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả các bà mẹ 
bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều 
trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định; đồng ý 
tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Các bà mẹ không 
thể tiếp nhận và trả lời được các câu hỏi.
2.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên 
cứu
- Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 
11/2018 - tháng 11/2019 tại Bệnh viện Nhi 
Tỉnh Nam Định.
73
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
- Sử dụng thiết kế nghiên cứu: can thiệp 
giáo dục có so sánh trước sau
2.2.2. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
- Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu 
thuận tiện
- Cỡ mẫu:Thu thập từ tháng 4/2019 đến 
tháng 6/2019 có 54 bà mẹ đủ tiêu chuẩn 
tham gia nghiên cứu
2.2.3. Công cụ và phương pháp thu 
thập thông tin
- Phiếu khảo sát được xây dựng dựa 
trên nghiên cứu của Đinh Đạo năm 2014 
theo tài liệu nuôi dưỡng trẻ nhỏ của Bộ Y 
tế [2]. 
- Phiếu khảo sát gồm 2 phần: Phần 1: 
Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu 
từ câu A1 đến câu A9. Phần 2: kiến thức 
của bà mẹ về chế độ ăn bổ sung từ câu B1 
đến câu B32.
- Sử dụng phương pháp phỏng vấn trực 
tiếp để thu thập thông tin cần thiết.
2.2.4. Tiêu chí đánh giá trong nghiên 
cứu
- Bà mẹ tham gia trả lời phỏng vấn với 
mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm, trả lời 
không đúng hoặc không biết 0 điểm. Bà mẹ 
trả lời đúng ≥ 75% là kiến thức đạt loại tốt 
và < 75% là kiến thức chưa tốt.
- Xác định đúng/sai dựa trên những nội 
dung về chế độ ăn bổ sung ở trẻ em ở Tài 
liệu nuôi dưỡng trẻ nhỏ của Bộ Y tế (2015).
- Đánh giá sự thay đổi sau can thiệp giáo 
dục so với trước can thiệp dựa trên mức 
chênh điểm trung bình trả lời các câu hỏi và 
sự khác biệt về tỷ lệ trả lời đúng đối với mỗi 
nội dung đánh giá.
2.2.5. Quản lý, xử lý và phân tích số 
liệu
- Số liệu sau khi được làm sạch, nhập và 
phân tích trên phần mền SPSS 16.0
- Tính các giá trị phần trăm, bảng để mô 
tả các số liệu theo mục tiêu nghiên cứu.
2.2.6. Chương trình can thiệp
Nội dung can thiệp: Nội dung giáo dục 
sức khỏe được xây dựng dựa trên "Tài liệu 
Nuôi dưỡng trẻ nhỏ" của Bộ Y tế ban hành 
2015
Cách thức can thiệp: Các bà mẹ được 
can thiệp giáo dục sức khỏe trong khoảng 
thời gian tại Bệnh viện bằng phương pháp 
giáo dục sức khỏe trực tiếp bởi nhóm 
nghiên cứu gồm:
Bước 1: Khảo sát kiến thức của các bà 
mẹ về chế độ ăn bổ sung lần 1 khi vào viện 
bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp 
thông qua phiếu khảo sát chuẩn bị trước 
. Địa điểm: tại buồng bệnh. Thời gian 10 
giờ ngày đầu vào viện (sau khi thực hiện 
thuốc). Thời gian: 20 phút.
Bước 2: Đánh giá kiến thức của các bà 
mẹ về chế độ ăn bổ sung và xây dựng nội 
dung can thiệp giáo dục phù hợp với từng 
bà mẹ.
Bước 3: Can thiệp giáo dục: Phát cho bà 
mẹ tài liệu tư vấn, tờ rơi về chế độ ăn bổ 
sung, truyền thông trực tiếp các nội dung 
can thiệp, trao đổi và thảo luận với bà mẹ 
về một số thực đơn chế độ ăn dựa trên các 
thực phẩm sẵn có, giải đáp những thắc 
mắc của bà mẹ. Địa điểm: tại buồng bệnh. 
Thời gian 10 giờ ngày thứ hai vào viện (sau 
khi thực hiện thuốc). Thời gian can thiệp: 
30 phút.
Bước 4: Đánh giá kiến thức của các bà 
mẹ về chế độ ăn bổ sung lần 2 trước khi 
ra viện thông qua phiếu khảo sát chuẩn 
bị trước giống lần 1. Địa điểm: tại buồng 
bệnh. Thời gian 10 giờ (sau khi thực hiện 
thuốc). Thời gian 20 phút.
Bước 5: Đánh giá kiến thức của các 
bà mẹ về chế độ ăn bổ sung lần 3 sau khi 
ra viện 1 tháng qua điện thoại bằng phiếu 
khảo sát chuẩn bị trước giống lần 1. Thời 
gian 20 phút.
74
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
3. KẾT QUẢ 
3.1. Thay đổi kiến thức về chế độ ăn bổ sung của bà mẹ sau can thiệp giáo dục
Bảng 1. Kiến thức đúng về thời điểm, dấu hiệu nhận biết và nguyên tắc cho trẻ 
ăn bổ sung trước và sau can thiệp (n=54)
Nội dung
Trước
 can thiệp
Sau can 
thiệp T1
Sau can 
thiệp T2
SL TL % SL TL % SL TL %
Thời điểm ăn bổ sung
Trẻ tròn 6 tháng 18 33,3 49 90,7 42 77,8
Dấu hiêu nhận biết trẻ sẵn sàng ăn bổ sung
Trẻ thích nhìn người khác ăn và với tay lấy 
thức ăn 18 33,3 45 83,3 40 74,4
Trẻ thích đưa thứ gì đó vào miệng 29 53,7 51 94,4 43 79,6
Trẻ có thể điều chỉnh được lưỡi tốt hơn để đưa 
thức ăn di chuyển trong miệng 10 18,5 37 68,5 37 68,5
Trẻ băt đầu nhai và dịch chuyển hàm lên xuống 12 22,2 43 79,6 32 59,3
Nguyên tắc cho trẻ ăn bổ sung
Ăn đúng độ tuổi 11 20,4 48 88,9 46 85,2
Ăn từ loãng đến đặc, ít đến nhiều, tập quen 
dần với thức ăn mới 26 48,1 49 90,7 32 59,3
Số lượng bữa ăn và thức ăn tăng dần theo tuổi 20 37,0 44 81,5 40 74,1
Sử dụng các thức ăn có sẵn tại địa phương và 
thay đổi thức ăn hàng ngày 30 55,6 46 85,2 44 81,5
Nhận xét: Qua bảng 1 cho thấy: Sau khi được can thiệp giáo dục sức khỏe, bà mẹ có 
kiến thức đúng về thời điểm cho trẻ ăn bổ sung hợp lý nhất theo khuyến cáo của WHO là 
khi trẻ tròn 6 tháng đã tăng rõ rệt: từ 33,3% trước can thiệp tăng lên 90,7% sau can thiệp 
và còn duy trì ở mức khá cao 77,8% ở thời điểm sau 1 tháng. Kiến thức đúng của bà mẹ 
về dấu hiệu nhận biết trẻ sẵn sàng ăn bổ sung được cải thiện rõ rệt. Cụ thể, trước can 
thiệp, hai dấu hiệu “Trẻ có thể điều chỉnh được lưỡi tốt hơn để đưa thức ăn di chuyển trong 
miệng” và “Trẻ băt đầu nhai và dịch chuyển hàm lên xuống” bà mẹ biết không cao chiếm tỷ 
lệ lần lượt là 18,5% và 22,2%.Tuy nhiên, sau can thiệp, kiến thức đúng của bà mẹ về hai 
dấu hiệu này tăng lên lần lượt là 68,5% và 79,6%, và còn duy trì ở mức 68,5% và 59,3% 
sau can thiệp 1 tháng. Về nguyên tắc cho trẻ ăn bổ sung, kiến thức đúng của bà mẹ về 
vấn đề này được cải thiện đáng kể sau can thiệp giáo dục sức khỏe. Sau can thiệp lần 1, 
nguyên tắc ăn đúng độ tuổi, ăn từ loãng đến đặc, ít đến nhiều, số lượng bữa ăn và thức 
ăn tăng dần theo tuổi và sử dụng các thức ăn có sẵn tại địa phương chiếm tỷ lệ lần lượt là 
88,9%, 90,7%, 81,5% và 85,2%. Sau can thiệp lần 2, kiến đúng đúng của bà mẹ vẫn được 
duy trì ở mức cao chiếm tỷ lệ lần lượt là 85,2%; 59,3%; 74,1% và 81,5%.
75
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 2. Kiến thức đúng về các nhóm thức ăn cơ bản cho trẻ ăn bổ sung 
trước và sau can thiệp (n=54)
Nội dung
Trước can 
thiệp
Sau can 
thiệp T1
Sau can 
thiệp T2
SL TL % SL TL % SL TL %
Nhóm thức ăn cung cấp chất bột 42 77,8 54 100 54 100
Nhóm thức ăn cung cấp chất đạm 38 70,4 53 98,1 53 98,1
Nhóm thức ăn cung cấp chất béo 40 74,1 50 92,6 48 88,9
Nhóm thức ăn cung cấp Vitanmin và chất khoáng 28 51,9 51 94,4 49 90,7
Nhận xét: Với kết quả thu được ở bảng trên: tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng tăng sau 
khi được tư vấn giáo dục sức khỏe. Cụ thể, nhận thức đúng của bà mẹ về các nhóm thức 
ăn đều chiếm trên 85,0% sau can thiệp lần 1 và lần 2.
Bảng 3. Kiến thức về thời điểm bắt đầu cho trẻ ăn cháo và ăn cơm 
trước và sau can thiệp (n=54)
Nội dung
Trước can thiệp Sau can thiệp T1 Sau can thiệp T2
SL TL % SL TL % SL TL %
Thời điểm cho trẻ ăn cháo
< 6 tháng 1 1,9 0 0 0 0
6 – 9 tháng 12 22,2 0 0 0 0
> 9 tháng - < 18 tháng 35 64,8 53 98,1 49 90,7
18 – 24 tháng 4 7,4 1 1,9 1 2,0
Không biết 2 3,7 0 0 0 0
Thời điểm cho trẻ ăn cơm
> 9 tháng - < 18 tháng 43 79,6 2 3,7 5 9,8
18 – 24 tháng 11 20,4 52 96,3 49 90,7
Tổng số 54 100 54 100 54 100
Nhận xét: Kiến thức đúng của bà mẹ về vấn đề này thay đổi rõ rệt sau can thiệp giáo 
dục sức khỏe. Về thời điểm cho trẻ ăn cháo, tăng lên 98,1% sau can thiệp lần 1 và duy 
trì ở mức 90,7% sau can thiệp lần 2. Tương tự, về thời điểm cho trẻ ăn cơm chiếm tỷ lệ 
96,3% sau can thiệp lần 1 và duy trì ở mức cao sau can thiệp lần 2 lần lượt là 90,7%.
Bảng 4. Kiến thức đúng về nguyên tắc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm khi 
cho trẻ ăn bổ sung trước và sau can thiệp (n=54)
Nội dung
Trước 
can thiệp
Sau can 
thiệp T1
Sau can 
thiệp T2
SL TL % SL TL % SL TL %
Giữ vệ sinh bàn tay và dụng cụ nhà bếp 31 57,4 49 90,7 45 83,3
Bảo đảm an toàn thức ăn và thực phẩm 30 55,6 47 87,0 40 74,1
Nấu chin thức ăn 39 72,2 50 92,6 48 88,9
Dùng nước sạch và thực phẩm tươi 41 75,9 54 100 50 92,6
76
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Nhận xét: Với kết quả nghiên cứu thu được, kiến thức đúng của bà mẹ về nguyên tắc 
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm khi cho trẻ ăn bổ sung cải thiện sau can thiệp. Sau 
can thiệp, tỷ lệ bà mẹ kiến thức đúng về nguyên tắc nấu chín thức ăn là 92,6%, dùng nước 
sạch và thực phẩm tươi là 100% và duy trì ở mức cao là 88,9% và 92,6% sau can thiệp 
1 tháng.
Bảng 5. Kiến thức về cách cho trẻ ăn bổ sung trước và sau can thiệp (n=54)
Nội dung
Trước can thiệp Sau can thiệp T1 Sau can thiệp T2
SL TL % SL TL % SL TL %
Ép buộc trẻ ăn 20 37,0 3 5,6 4 7,4
Để trẻ tự ăn 15 27,8 11 20,4 14 25,9
Cho trẻ ăn dựa trên đáp 
ứng của trẻ 19 35,2 40 74,1 36 66,7
Tổng số 54 100 54 100 54 100
Nhận xét: Kiến thức về cách cho trẻ ăn bổ sung của bà mẹ được cải thiệt rõ rệt sau can 
thiệp. Tỷ lệ bà mẹ lựa chọn cho trẻ ăn dựa trên đáp ứng của trẻ sau can thiệp tăng lên là 
74,1% và duy trì 66,7% sau can thiệp 1 tháng.
Bảng 6. Điểm trung bình kiến thức của bà mẹ về chế độ ăn bổ sung 
trước và sau can thiệp (n=54)
Điểm đánh giá Thấp nhất Cao nhất Điểm TBX ± SD p
Trước can thiệp 7 28 16,43 ± 5,09
Sau can thiệp T1 26 37 33,28 ± 2,08 0,001
Sau can thiệp T2 22 34 29,96 ± 2,97 0,001
Nhận xét: Trước can thiệp, điểm trung bình nhận thức của bà mẹ là 16,43 ± 5,09, sau 
can thiệp, điểm trung bình nhận thức tăng lên là 33,28 ± 2.08 và duy trì ở mức 29.96 ± 2,97 
sau can thiệp 1 tháng. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
Bảng 7. Xếp loại chung kiến thức về chế độ ăn bổ sung của bà mẹ 
trước và sau can thiệp (n=54)
Kiến thức
Trước can thiệp Sau can thiệp T1 Sau can thiệp T2
SL TL % SL TL % SL TL %
Tốt ( ≥75%) 0 0 52 96,3 40 74,1
Chưa tốt (< 75%) 54 100 2 3,7 14 25,9
Nhận xét: Với kết quả nghiên cứu thu được, 100% bà mẹ trước can thiệp xếp loại kiến 
thức chưa tốt. Sau can thiệp, 96,3% bà mẹ xếp loại kiến thức tốt và 3,7% bà mẹ kiến thức 
chưa tốt và ở thời điểm sau can thiệp 1 tháng, 74,1% bà mẹ có kiến thức tốt và 25,9% bà 
mẹ có kiến thức chưa tốt.
77
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
4. BÀN LUẬN
Trong năm đầu cơ thể trẻ phát triển 
nhanh, đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng cao. 
Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất dành cho trẻ 
dưới 6 tháng tuổi, nhưng không thể thoả 
mãn được nhu cầu về dinh dưỡng cho trẻ 
lớn hơn. Để đáp ứng được nhu cầu về dinh 
dưỡng trẻ phải có một chế độ ăn mới, chế 
độ ăn bổ sung, hay còn được gọi là ăn sam, 
ăn dặm, ăn thêm.
Ăn bổ sung là chế độ ăn dành cho trẻ từ 
6 đến 24 tháng tuổi, ăn bổ sung các thức ăn 
giàu năng lượng và chất dinh dưỡng khác 
ngoài sữa mẹ dưới dạng mềm hoặc đặc. 
Theo khuyến cáo của WHO, thời điểm bắt 
đầu cho ăn bổ sung hợp lý nhất là khi trẻ 6 
tháng tuổi (180 ngày) để giúp trẻ phát triển 
tốt. Vì vậy khi trẻ được 5 tháng tuổi nên tư 
vấn cho bà mẹ biết cách chọn thức ăn và 
cách cho trẻ ăn bữa ăn bổ sung đầu tiên, 
giúp bà mẹ có đủ kiến thức và kỹ năng cho 
trẻ ăn bổ sung khi trẻ tròn 6 tháng tuổi. Kết 
quả nghiên cứu cho thấy, trước can thiệp, 
tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về thời điểm 
cho trẻ ăn bổ sung không cao, chiếm tỷ lệ 
là 33,3%. Kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi tương đồng với nghiên cứu Đinh Đạo 
(2014), tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về 
thời điểm cho trẻ ăn bổ sung là 33,2% [5]. 
Tuy nhiên, sau can thiệp bằng giáo dục, 
tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng đã tăng lên 
là 90,7% nhưng vẫn sụt giảm ở thời điểm 
sau 1 tháng còn 78,4%. Điều này cho thấy 
sự cần thiết phải thường xuyên củng cố và 
nhắc lại những thông tin tư vấn để bà mẹ 
chăm sóc con tốt hơn.
Trước can thiệp giáo dục sức khỏe, kiến 
thức đúng của bà mẹ về những dấu hiệu 
nhận biết trẻ sẵn sàng ăn bổ sung chưa 
cao: có 22,2% bà mẹ biết đến dấu hiệu 
“trẻ bắt đầu nhai và dịch chuyển hàm lên 
xuống” và 18,5% bà mẹ biết dấu hiệu “trẻ 
có thể điều chỉnh lưỡi tốt hơn để đưa thức 
ăn di chuyển trong miệng”. Điều này có thể 
lý giải có lẽ do khi bắt đầu cho trẻ ăn bổ 
sung bà mẹ chỉ chú ý nhiều về độ tuổi của 
trẻ hoặc theo kinh nghiệm của bản thân. 
Tuy nhiên, sau khi được tư vấn giáo dục 
sức khỏe, kiến thức của bà mẹ đã được 
thay đổi đáng kể, tỷ lệ bà mẹ biết dấu hiệu 
“Trẻ bắt đầu nhai và dịch chuyển hàm lên 
xuống” tăng lên 79,6%, dấu hiệu “Trẻ có thể 
điều chỉnh được lưỡi tốt hơn để đưa thức ăn 
di chuyển trong miệng” tăng lên 68,5% và 
còn duy trì ở mức cao sau 1 tháng sau can 
thiệp, tỷ lệ lần lượt là 57,4% và 66,5%. 
Ngoài vấn đề kiến thức đúng về thời 
điểm và các dấu hiệu nhận biết trẻ đã sẵn 
sàng ăn bổ sung thì một vấn đề quan trọng 
là bà mẹ cần biết được nguyên tắc cho trẻ 
ăn bổ sung thế nào cho đúng, cho hiệu quả 
để trẻ có một chế độ dinh dưỡng đầy đủ 
đáp ứng được nhu cầu phát triển của trẻ. 
Kết quả ở bảng 1 cho thấy, kiến thức của 
bà mẹ về các nguyên tắc này chưa đầy đủ 
trước can thiệp, hai nguyên tắc bà mẹ biết 
nhiều là ăn từ loãng đến đặc, ít đến nhiều
và nguyên tắc sử dụng các thức ăn có sẵn 
tại địa phương và thay đổi thức ăn hàng 
ngày chiếm tỷ lệ là 48,1% và 55,6%, hai 
nguyên tắc bà mẹ biết ít hơn là ăn đúng 
độ tuổi và nguyên tắc số lượng bữa ăn và 
thức ăn tăng dần theo tuổi lần lượt là 20,4% 
và 37,0%. Điều này, có thể được lý giải là 
do bà mẹ có tâm lý lo lắng sữa mẹ không 
đủ dinh dưỡng cho trẻ nên cho trẻ ăn bổ 
sung sớm, không đúng độ tuổi và tâm lý 
muốn con ăn được càng nhiều càng tốt. 
Tuy nhiên, sau can thiệp kiến thức của bà 
mẹ đã có những thay đổi đáng kể, hơn 80% 
bà mẹ đã biết được các nguyên tắc cho trẻ 
ăn bổ sung sau can thiệp lần 1 và duy trì ở 
mức cao sau can thiệp lần 2 (Bảng 1).
WHO nghiên cứu về dinh dưỡng đã 
thống nhất các loại thức ăn bổ sung cho 
trẻ được biểu thị theo ô vuông thức ăn, mà 
trung tâm của ô vuông thức ăn là sữa mẹ 
hay các thức ăn thay thế sữa mẹ như sữa 
công thức, sữa bòTrong ô vuông thức 
ăn gồm 4 nhóm thức ăn là nhóm thức ăn 
cung cấp chất bột, nhóm thức ăn cung cấp 
chất đạm, nhóm thức ăn cung cấp chất 
78
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
béo và nhóm thức ăn cung cấp Vitamin và 
chất khoáng. Nhìn chung, kiến thức của bà 
mẹ về 4 nhóm thức ăn cho trẻ ăn bổ sung 
tương đối tốt trước can thiệp, duy nhất có 
nhóm thức ăn cung cấp Vitamin và muối 
khoáng là bà mẹ biết ít nhất, chiếm tỷ lệ 
là 51,9%. Sau can thiệp, kiến thức của bà 
mẹ đã tăng lên rõ rệt như 100% bà mẹ biết 
nhóm thức ăn cung cấp chất bột và giữ 
mức cao ở thời điểm sau can thiệp 1 tháng. 
Điều này cho thấy hiệu quả của công tác tư 
vấn giáo dục sức khỏe trong việc nâng cao 
kiến thức của bà mẹ về chế độ dinh dưỡng 
cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi.
Khi trẻ đến thời điểm ăn bổ sung, bà mẹ 
cần biết lựa chọn loại thức ăn phù hợp với 
đặc điểm phát triển của trẻ ở mỗi giai đoạn, 
điều này có ý nghĩa quan trọng giúp trẻ có 
thể hấp thu được một cách tốt nhất các 
chất dinh dưỡng. Các trẻ trên 9 tháng tuổi 
đã có sự phát triển về vận động và ngôn 
ngữ nhiều hơn nên nhu cầu dinh dưỡng 
đòi hỏi cao hơn. Hơn nữa, trẻ đã có mọc 
răng và có thể ăn được một vài thức ăn 
lợn cợn khác ngoài bột để tập nhai, giúp 
không biếng ăn về sau. Đây là thời điểm 
có thể tập cho trẻ ăn cháo. Thời điểm ăn 
cháo của trẻ cũng đóng một vai trò không 
nhỏ đối với tình trạng dinh dưỡng. Nếu ăn 
cháo quá sớm cũng có thể chậm lên cân 
do đậm độ năng lượng thấp hơn trong bột. 
Đối với trẻ ở lứa tuổi từ 18 tháng tuổi trở 
lên là thời điểm thích hợp cho trẻ ăn cơm là 
khi trẻ đã có răng hàm và có khả năng nhai 
cơm. Nếu ăn cơm quá sớm sẽ gây cho trẻ 
bị rối loạn tiêu hóa, kém hấp thu, biếng ăn 
dẫn đến suy dinh dưỡng vì hệ tiêu hóa của 
trẻ chưa hoàn thiện. Còn nếu ăn cơm trễ 
trẻ sẽ bị thiếu chất và suy dinh dưỡng. Kết 
quả nghiên cứu đã cho thấy kiến thức của 
bà mẹ chưa tốt trước can thiệp : có 64,8% 
bà mẹ biết đúng thời điểm cho trẻ ăn bột là 
từ 6 – 9 tháng tuổi, 64,8% bà mẹ biết đúng 
thời điểm cho trẻ ăn cháo là > 9 tháng - < 
18 tháng và 20,4% bà mẹ biết đúng về thời 
điểm cho trẻ ăn cơm là từ 18 – 24 tháng và 
79,6% bà mẹ cho trẻ ăn cơm sớm. Kết quả 
này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn 
Thị Thu Hậu và cộng sự (2010), tỷ lệ bà mẹ 
biết đúng về thời điểm cho trẻ ăn cơm theo 
khuyến nghị là 19,4% [6]. Tuy nhiên, kiến 
thức của bà mẹ được nâng cao rõ rệt sau 
can thiệp giáo dục: 100% kiến thức đúng về 
thời điểm cho trẻ ăn bột, 98,1% bà mẹ kiến 
thức đúng về thời điểm ăn cháo và 96,3% 
bà mẹ kiến thức đúng về thời điểm cho trẻ 
ăn cơm. Tỷ lệ này được duy trì ở mức cao 
trên 90% sau can thiệp 1 tháng. Với kết quả 
thu được chúng tôi mong muốn công tác 
truyền thông giáo dục sức khỏe ngày càng 
phát triển hơn nữa.
Cho trẻ ăn bổ sung đảm bảo an toàn vệ 
sinh thực phẩm sẽ làm giảm nguy cơ nhiễm 
khuẩn và giảm nguyên nhân mắc các bệnh 
nhiễm khuẩn cho trẻ. Kết quả thu được 
ở bảng 4 cho thấy, trước can thiệp, kiến 
thức đúng của bà mẹ về nguyên tắc giữ 
vệ sinh bà tay, dụng cụ nhà bếp, nguyên 
tắc đảm bảo an toàn thức ăn, nguyên tắc 
nấu chín thức ăn và nguyên tắc dùng nước 
sạch chiếm tỷ lệ lần lượt là 57,4%, 55,6%, 
72,2% và 75,9%. Kết quả nghiên cứu này 
cao hơn nghiên cứu của Fazal Dad, Ijaz 
Habib (2017), nguyên tắc vệ sinh bàn tay 
chiếm 45%. [7]. Sau can thiệp, kiến thức 
đúng của bà mẹ về 4 nguyên tắc vệ sinh 
được cải thiện đáng kể chiếm tỷ lệ lần lượt 
là 90,7%, 87,0%, 92,6% và 100%. Sau can 
thiệp 1 tháng, kiến thức đúng của bà mẹ 
có giảm hơn nhưng vẫn duy tri ở mức cao, 
chiếm tỷ lệ lần lượt là 84,3%, 72,5%, 78,4% 
và 92,2%. 
Theo khuyến cáo của WHO, khi lựa chọn 
thực phẩm cho trẻ ăn bổ sung, các bà mẹ 
nên lựa chọn theo sở thích của trẻ để kích 
thích sự ngon miệng giúp trẻ ăn được tốt 
hơn.Tại thời điểm nghiên cứu, chỉ có 35,2% 
bà mẹ lựa chọn thực phẩm theo sở thích 
của trẻ trước can thiệp. Tuy nhiên, sau khi 
được tư vấn giáo dục sức khỏe, kiến thức 
của bà mẹ về cách lực chọn thực phẩm đã 
cải thiện rõ rệt, 96,3% bà mẹ chọn thực 
79
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
phẩm cho trẻ ăn bổ sung theo sở thích của 
trẻ và ở thời điểm sau 1 tháng can thiệp, 
kiến thức của bà mẹ có giảm hơn nhưng 
vẫn duy tri ở mức cao 90,7%.
Tương tự về cách cho trẻ ăn bổ sung, 
trước can thiệp chỉ có 35,2% bà mẹ có kiến 
thức đúng về cách cho trẻ ăn bổ sung là 
cho trẻ ăn dựa trên đáp ứng của trẻ. Sau 
can thiệp, tỷ lệ này đã tăng lên là 74,1% và 
duy trì ở mức 66,7% sau can thiệp lần 2.
Điểm trung bình kiến thức về chế độ ăn 
bổ sung cho trẻ của các bà mẹ tăng sau 
can thiệp (33,28 ± 2,08, dao động từ 26 đến 
37 điểm) và duy trì ở mức cao ở thời điểm 
sau can thiệp 1 tháng (29,96 ± 2,97, dao 
động từ 22 đến 34 điểm) so với trước can 
thiệp là (16,43 ± 5,09, dao động từ 7 đến 28 
điểm), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với 
p < 0.001. Từ kết quả này cho thấy hiệu quả 
của chương trình can thiệp giáo dục sức 
khỏe trong việc thay đổi kiến thức của bà 
mẹ về chế độ ăn bổ sung cho trẻ. Kết quả 
này tương đồng với nghiên cứu của Đinh 
Đạo (2014) [5] và nghiên cứu của Nguyễn 
Thị Thanh Huyền (2017) [8].
5. KẾT LUẬN
Kiến thức về chế độ ăn bổ sung của 
các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi 
được cải thiện rõ rệt sau can thiệp giáo 
dục:
- Điểm trung bình kiến thức của các bà 
mẹ trước can thiệp 16,43 ± 5,09, sau can 
thiệp tăng lên đến 33,28 ± 2,08, và sau can 
thiệp 1 tháng còn 29,96 ± 2,97. Sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0.001.
+ Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về thời 
điểm cho trẻ ăn bổ sung hợp lý theo khuyến 
cáo của WHO trước can thiệp là 33,3%, 
tăng lên đến 90,7% sau can thiệp và còn 
77,8% ở thời điểm sau can thiệp 1 tháng.
+ Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về thời 
điểm cho trẻ ăn cháo trước can thiệp là 
64,8%, tăng lên đến 98,1% sau can thiệp 
và còn 90.7% ở thời điểm sau can thiệp 1 
tháng.
Với kết quả của nghiên cứu, nhóm 
nghiên cứu đưa ra khuyến nghị sau: Tiếp 
tục duy trì và nâng cao chất lượng của các 
buổi truyền thông giáo dục sức khỏe để 
từng bước cải thiện kiến thức của các bà 
mẹ, từ đó cải thiện thực hành của bà mẹ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alive & Thrive (2012), Báo cáo điều 
tra ban đầu: báo cáo toàn văn điều tra 11 
tỉnh về nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ
2. Bộ Y tế (2015), Tài liệu nuôi dưỡng 
trẻ nhỏ.
3. Unicef (2011), Infomal meeting on 
the preparation of the 2011 HLPM on the 
MDGs, Accelerating progress on the MDGs. 
A report card number 8.
4. Viện Dinh dưỡng -UNICEF (2011), 
Tình hình dinh dưỡng Việt Nam năm 2009-
2010, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 6-7, 
15-25.
5. Đinh Đạo (2014), Nghiên cứu thực 
trạng và kết quả can thiệp phòng chống 
suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi người 
dân tộc thiểu số tại huyện Bắc Trà My tỉnh 
Quảng Nam, Luận án tiến sỹ y học, Trường 
Đại học Y Dược Huế.
6. Nguyễn Thị Thu Hậu và cộng sự 
(2010), Khảo sát chất lượng bữa ăn dặm 
cho trẻ từ 6 -24 tháng tuổi đến khám dinh 
dưỡng tại bệnh viện Nhi Đồng 2, Y học TP 
Hồ Chí Minh, tập 14, số 4
7. Fazal Dad, Ijaz Habib (2017), Mother’s 
Knowledge, Attitude and Practices (KAP) 
Regarding Complementary Feeding for 
Children Age 06-24 Months in Kurrum 
Agency of FATA Pakistan, Public Health 
and Preventive Medicine, Vol. 3, No. 6, 
2017, pp. 33-42.
8. Nguyễn Thị Thanh Huyền (2017), 
Thay đổi nhận thức của bà mẹ về chế độ ăn 
cho con dưới 24 tháng tuổi tại huyện Thạch 
Hà tỉnh Hà Tĩnh năm 2017 sau giáo dục 
dinh dưỡng, luận văn thạc sỹ điều dưỡng, 
Đại học Điều dưỡng Nam Định.

File đính kèm:

  • pdfthay_doi_kien_thuc_ve_che_do_an_bo_sung_cua_cac_ba_me_co_con.pdf