Phát triển hoạt động huy động vốn cộng đồng tại Việt Nam

Tóm tắt

Bài viết phân tích một hình thức huy động vốn mới cho các dự án kinh doanh nhỏ cũng như các

dự án khởi nghiệp tại Việt Nam, hình thức huy động vốn cộng đồng (Crowfunding). Bài viết tổng

hợp các vấn đề lý thuyết cơ bản và quan trọng nhất về hình thức huy động vốn cộng đồng bao

gồm khái niệm, các bên tham gia, động cơ và hai phương thức huy động vốn cộng đồng phổ biến

nhất trên thế giới. Từ khung lý thuyết, bài viết cũng phân tích khả năng áp dụng của hai phương

thức huy động vốn cộng đồng này tại Việt Nam đồng thời đề xuất một số gợi ý nhằm phát triển

hoạt động huy động vốn cộng đồng tại Việt Nam.

pdf 12 trang phuongnguyen 8340
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển hoạt động huy động vốn cộng đồng tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển hoạt động huy động vốn cộng đồng tại Việt Nam

Phát triển hoạt động huy động vốn cộng đồng tại Việt Nam
Mã số: 393 
Ngày nhận: 8/4/2017 
Ngày gửi phản biện lần 1: /2017 
Ngày gửi phản biện lần 2: 
Ngày hoàn thành biên tập: 21/4/2017 
Ngày duyệt đăng: 21/4/2017 
PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỘNG ĐỒNG TẠI VIỆT NAM 
Cao Đinh Kiên1 
Nguyễn Thị Hoa Hồng2 
Tóm tắt 
Bài viết phân tích một hình thức huy động vốn mới cho các dự án kinh doanh nhỏ cũng như các 
dự án khởi nghiệp tại Việt Nam, hình thức huy động vốn cộng đồng (Crowfunding). Bài viết tổng 
hợp các vấn đề lý thuyết cơ bản và quan trọng nhất về hình thức huy động vốn cộng đồng bao 
gồm khái niệm, các bên tham gia, động cơ và hai phương thức huy động vốn cộng đồng phổ biến 
nhất trên thế giới. Từ khung lý thuyết, bài viết cũng phân tích khả năng áp dụng của hai phương 
thức huy động vốn cộng đồng này tại Việt Nam đồng thời đề xuất một số gợi ý nhằm phát triển 
hoạt động huy động vốn cộng đồng tại Việt Nam. 
Từ khóa: Huy động vốn cộng đồng, huy động vốn, doanh nghiệp khởi nghiệp 
Abstract 
This paper analyzes a new method to raise funds for both small businesses and start-up projects 
in Vietnam, namely Crowfunding. A theoretical overview of Crowdfunding including definition, 
primary participants, motivations, and two predominant forms is provided. From the theoretical 
framework, the paper also examines the applicability of the two predominant forms and proposes 
suggestions to promote Crowdfunding in Vietnam. 
Keywords: Crowdfunding, fund-rasing, entrepreneurship, startups 
1
 Khoa Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Ngoại thương, Email: caokien@ftu.edu.vn 
2
 Khoa Quản trị Kinh doanh, Trường Đại học Ngoại thương, Email: hongnth@ftu.edu.vn 
1. Đặt vấn đề 
Trong những năm gần đây, phong trào khởi nghiệp đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ 
tại Việt Nam, bằng chứng là các vườn ươm doanh nghiệp, các cơ sở hỗ trợ khởi nghiệp, các khóa 
học, hội thảo, cũng như nhiều cuộc thi tập trung cho quá trình khởi nghiệp ngày một phát triển cả 
về số lượng và chất lượng. Tính đến nay, nhiều dự án khởi nghiệp thành công tại Việt Nam như 
Dự án CTCP Vé Xe Rẻ (vexere.com). Đây là một hệ thống đặt vé xe khách trực tuyến, hoạt động 
thông qua các công ty vận tải chính thức ra đời vào tháng 7/2013 sau khi được giải Nhì Cuộc thi 
Khởi nghiệp Quốc gia năm 2013 và nhận được vốn đầu tư từ Quỹ CyberAgent Ventures và Pix 
Vine Capital. Ngoài ra, cũng có thể kể đến nhiều công ty khởi nghiệp thành công như VNG (tiền 
thân là Công ty VinaGame) hay Công ty Thương mại điện tử Vatgia. Mặc dù phong trào khởi 
nghiệp tại Việt Nam đã hình thành ở tầm quốc gia với dòng vốn hàng ngàn tỷ đồng cũng như đã 
nhận được sự hỗ trợ từ nhiều cơ quan quản lý Nhà nước nhưng vẫn còn rất nhiều bất cập trong 
công tác quản lý và hỗ trợ phong trào khởi nghiệp. Đó là một trong những nguyên nhân quan 
trọng làm cho những dự án khởi nghiệp có quy mô lớn vẫn chưa xuất hiện tại Việt Nam. 
Có thể nói, một trong những khó khăn lớn nhất đối với hầu hết các dự án khởi nghiệp tại 
Việt Nam là huy động vốn. Với các dự án khởi nghiệp thì những hình thức huy động vốn thông 
thường như vay ngân hàng, thu hút các nhà đầu tư mua cổ phần không phải lúc nào cũng thực 
hiện thành công. Trong khi đó việc kêu gọi đầu tư từ bạn bè hay người thân thường không đủ 
cung cấp cho các khoản đầu tư ban đầu. Vì vậy, việc tìm một hình thức huy động vốn mới, dễ 
dàng hơn cho các dự án khởi nghiệp luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu. 
Huy động vốn cộng đồng (Crowdfunding), chủ yếu là thông qua công cụ Internet, đã bắt 
đầu xuất hiện từ năm 1996 và trở nên phổ biến trong những năm gần đây, đặc biệt là khi các 
doanh nghiệp nhỏ luôn gặp vấn đề về nguồn vốn hoạt động (Carpenter và Petersen, 2002; Ebben 
và Johnson, 2006). Thông qua hình thức huy động vốn cộng đồng, các dự án kinh doanh nhỏ và 
khởi nghiệp ở các lĩnh vực khác nhau vốn gặp nhiều khó khăn khi huy động vốn qua các kênh 
truyền thống nay đã có điều kiện tiếp cận nguồn vốn từ số đông trong xã hội (Tomczak và Brem, 
2013). Những nền tảng (flatform) gọi vốn cộng đồng ngày càng được nhân rộng, có thể kể đến 
như Kichstarter, CircleUp, GoFundMe hay IndieGoGo. Tại Việt Nam, nền móng đầu tiên cho 
hình thức gọi vốn cộng đồng là sự kiện website Betado.com (trước là IG9.vn) đi vào hoạt động 
với mục tiêu kết nối các dự án kinh doanh với số đông các nhà đầu tư đại chúng, những người 
chỉ có thể có những khoản đầu tư nhỏ. Tuy nhiên, những kiến thức về động cơ và mục tiêu của 
các bên khi tham gia vào phương thức huy động vốn này cũng như các phương thức huy động 
vốn cộng đồng phổ biến trên thế giới còn chưa được làm rõ trong bối cảnh Việt Nam. Bài viết 
này giới thiệu tổng quan về hình thức gọi vốn cộng động với hai phương thức chính đang được 
sử dụng trên thế giới. Ngoài ra, những ưu nhược điểm của từng phương thức trong môi trường 
kinh doanh tại Việt Nam cũng sẽ được phân tích. 
2. Khái niệm về huy động vốn cộng đồng 
Theo Bradford (2012), huy động vốn cộng đồng được định nghĩa là hình thức kêu gọi tài 
trợ cho một dự án bằng cách kêu gọi vốn từ số lượng lớn các cá nhân hay cộng đồng thông qua 
công cụ Internet. Hình thức này bắt đầu từ lĩnh vực giải trí từ hơn 10 năm trước và hiện nay trở 
nên phổ biến trong rất nhiều các lĩnh vực khác nhau như các dự án sáng tạo, công nghệ thông tin, 
phần mềm Ý tưởng ban đầu của huy động vốn cộng đồng là huy động vốn từ nhiều cá nhân 
khác nhau với những khoản tiền tương đối nhỏ. Thông qua việc sử dụng công cụ Internet, một dự 
án khởi nghiệp có điều kiện để tiếp cận với hàng triệu nhà đầu tư tiềm năng. Vì vậy, hình thức 
huy động vốn cộng đồng không yêu cầu bất kỳ một trung gian hay định chế tài chính nào như 
các ngân hàng, công ty chứng khoán, bảo hiểm mà bất kỳ cá nhân nào được thuyết phục bởi tính 
khả thi của các dự án kinh doanh qua thông tin được cung cấp trên các nền tảng (platform) huy 
động vốn đều có thể trở thành các nhà đầu tư (Howe, 2008). 
Quá trình huy động vốn cộng đồng bắt đầu bằng việc các dự án kinh doanh công khai 
một yêu cầu về tài trợ vốn trên một nền tảng huy động vốn (Lambert và Schwienbacher, 2010). 
Thông báo huy động vốn này sẽ bao gồm các thông tin về sản phẩm và kế hoạch kinh doanh mà 
người khởi xướng dự án dự định làm với số tiền huy động được đi kèm với những lợi ích nhà 
đầu tư sẽ nhận được. Có thể thấy rằng, so với các cách huy động vốn truyền thống thì các dự án 
khởi nghiệp sẽ dễ dàng tiếp cận nguồn vốn hơn với hình thức huy động vốn cộng đồng vì không 
cần phải có tài sản đảm bảo khi huy động vốn hay cần các trung gian tài chính để kết nối thông 
tin với nhà đầu tư. 
3. Động cơ cho các bên khi tham gia vào quá trình gọi vốn cộng đồng 
Có ba chủ thể tham gia quá trình huy động vốn cộng đồng, bao gồm những người kêu gọi 
vốn hay chủ dự án kinh doanh (creators), những người góp vốn (funders) và nền tảng (platform) 
huy động vốn nhằm kết nối giữa nhà đầu tư (người góp vốn) với người kêu gọi vốn (Agrawal và 
cộng sự, 2013). Trên thực tế, huy động vốn cộng đồng là hình thức giúp cho các dự án khởi 
nghiệp với quy mô nhỏ dễ dàng huy động vốn hơn khi so với các phương thức huy động vốn 
truyền thống. Tuy nhiên, mặc dù có thể huy động vốn từ các hình thức truyền thống, nhiều người 
kêu gọi vốn vẫn lựa chọn phương thức huy động vốn cộng đồng để kêu gọi vốn vì nhiều động cơ 
nhất định. Bên cạnh người kêu gọi vốn, các chủ thể khác tham gia vào quá trình gọi vốn cộng 
đồng cũng có những động cơ khác nhau (Agrawal và cộng sư, 2013). 
 Người kêu gọi vốn (Creators) 
Hai động cơ chính cho người kêu gọi vốn sử dụng hình thức huy động vốn cộng đồng 
thay vì các hình thức huy động vốn truyền thống là (1) chi phí vốn thấp và (2) cơ hội tiếp cận với 
nhiều thông tin. Huy động vốn cộng đồng có thể giúp giảm chi phí vốn hơn so với các hình thức 
truyền thống vì ba nguyên nhân: (1) có thể tìm được đối tượng đầu tư có mức độ sẵn sàng và phù 
hợp nhất để góp vốn cho dự án, (2) có thể dễ dàng bán được hàng hóa trong giai đoạn ban đầu3, 
(3) thông tin về dự án kinh doanh được cung cấp nhiều hơn nên có thể gia tăng sự sẵn sàng đầu 
tư của các cá nhân góp vốn. Hơn thế nữa, phương thức huy động vốn cộng đồng cũng được coi 
là công cụ giúp cho các chủ dự án kinh doanh nghiên cứu trước thị trường tiêu thụ thông qua 
phản hồi từ các nhà đầu tư trước khi sản phẩm chính thức được sản xuất/bày bán để kịp thời có 
những bước phát triển về sản phẩm thích hợp. 
Tuy nhiên, kêu gọi vốn thông qua hình thức huy động vốn cộng đồng cũng đặt ra một số 
thách thức cho những người chủ dự án, đặc biệt là khi những thông tin về sản phẩm, kế hoạch 
kinh doanh đều phải công khai trong thông báo huy động vốn trên những nền tảng huy động vốn. 
Điều này có thể dẫn đến những vấn đề liên quan đến vấn đề bảo vệ bản quyền, bằng sáng chế, 
cạnh tranh với đối thủ hay quá trình thương thảo giá nguyên vật liệu với những nhà cung cấp 
tiềm năng. Mặc dù vậy, những thách thức này là sự đánh đổi mà hầu hết những người chủ dự án 
khởi nghiệp chấp nhận khi thực hiện kêu gọi vốn thông qua hình thức huy động vốn cộng đồng. 
Để có thể sử dụng hình thức này, họ cố gắng tìm các phương án để hạn chế những rủi ro gặp phải 
trong quá trình công bố thông tin. 
 Người góp vốn (Funders) 
Đối với người tham gia góp vốn, họ có ít nhất năm động cơ vô cùng rõ ràng khi quyết 
định đầu tư vào một dự án thông qua hình thức huy động vốn cộng đồng: (1) tiếp cận với nhiều 
cơ hội đầu tư vào các dự án khác nhau, (2) tiếp cận sớm hơn với các sản phẩm mới, (3) cơ hội 
3
 Nếu lựa chọn hình thức gọi vốn bằng phương thức đặt trước các sản phẩm hoặc dịch vụ sẽ triển khai trong tương 
lai. 
tham gia vào những hoạt động xã hội vì tính chất xã hội của hình thức huy động cộng đồng, (4) 
cơ hội ủng hộ cho các sản phẩm, dịch vụ hay ý tưởng mới, sáng tạo; (5) cơ hội hoàn thiện hợp 
đồng đầu tư nhằm cân bằng giữa lợi ích và chi phí các dự án huy động vốn cộng đồng4. Bên cạnh 
những động cơ này thì người góp vốn cũng phải đối mặt với một số vấn đề khi cân nhắc các dự 
án huy động vốn cộng đồng, có thể kể đến như: (1) bản thân người góp vốn không có đủ năng 
lực tự đánh giá cơ hội đầu tư nên dễ dàng tạo ra hoài nghi về sự thành công cũng như những lợi 
ích mà họ có thể nhận được như trong thông báo huy động vốn; (2) khả năng tồn tại sự gian lận 
và (3) các rủi ro khác về dự án huy động vốn. Vì vậy, khi xem xét bất kỳ dự án kêu gọi vốn cộng 
đồng nào, người góp vốn cũng cân nhắc hai yếu tố - động cơ và rủi ro để đưa ra những quyết 
định phù hợp. 
 Nền tảng hỗ trợ gọi vốn cộng đồng (Platform) 
Nền tảng hay môi trường hỗ trợ huy động vốn cộng đồng chính là các website công khai 
những thông báo kêu gọi vốn từ các dự án kinh doanh khởi nghiệp. Động cơ chính của những 
người tạo ra nền tảng hỗ trợ trong quá trình huy động vốn cộng đồng phần lớn là vì lợi nhuận. 
Thông thường, doanh thu của những nền tảng này đến từ việc thu phí giao dịch của các dự án 
huy động vốn thành công, chiếm từ 4-5% trên tổng số vốn kêu gọi. Vì vậy, mục tiêu của các nền 
tảng hỗ trợ này là phải tối đa hóa số lượng và quy mô của các dự án huy động vốn thành công. 
Điều này đặt ra yêu cầu phải có chiến lược thu hút cộng đồng lớn những người kêu gọi vốn và 
những người góp vốn nhằm đảm bảo thu hút các dự án gọi vốn có chất lượng. Những nền tảng 
hỗ trợ này phải góp phần giảm thiểu gian lận và dễ dàng truyền tải ý tưởng, nội dung dự án để 
huy động vốn hiệu quả cũng như tạo được sự chú ý về mặt hình ảnh, danh tiếng để ngày càng mở 
rộng cộng đồng người góp vốn, nhà đầu tư. 
4. Hai phương thức huy động vốn cộng đồng phổ biến 
Huy động vốn cộng đồng có thành công hay không phụ thuộc rất lớn vào danh tiếng của 
người kêu gọi vốn và phương thức lựa chọn để thực hiện. Theo Belleflamme và cộng sự (2014), 
huy động vốn cộng đồng có thể được chia thành 2 phương thức chính: phương thức đặt trước 
(Pre-order form) và phương thức chia sẻ lợi nhuận (Equity-based or Profit-sharing form). 
4
 Đối với một dự án huy động vốn cộng đồng, những nhà đầu tư đầu tiên chắc chắn sẽ là bạn bè và người thân trong 
gia đình của người kêu gọi vốn tham gia để ủng hộ dự án và điều này làm cho hợp đồng đầu tư chưa được hệ thống 
hóa. Vì vậy với sự xuất hiện của người góp vốn, những hợp đồng đầu tư sẽ được điều chỉnhđể tránh những ảnh 
hưởng tiêu cực lên các mối quan hệ xã hội và giảm thiểu rủi ro. 
- Phương thức đặt trước là hình thức huy động vốn cộng đồng trong đó những người chủ 
dự án kêu gọi các cá nhân/nhà đầu tư “đặt hàng trước” các sản phẩm hoặc dịch vụ sắp được triển 
khai ra thị trường mà không phát sinh nợ hoặc ảnh hưởng đến vốn chủ sở hữu hay cổ phần. Với 
hình thức này, những người góp vốn bằng cách đặt hàng trước có thể sẽ phải mua sản phẩm/dịch 
vụ với giá cao hơn so với khách hàng mua sau khi sản phẩm được tung ra thị trường. Tuy nhiên, 
bù đắp lại sự chênh lệch này, những người góp vốn sẽ nhận được những lợi ích nhất định, dù 
không phải bằng tiền. 
- Phương thức chia sẻ lợi nhuận là hình thức huy động vốn cộng đồng trong đó những 
người chủ dự án kêu gọi các cá nhân/nhà đầu tư đóng góp tiền để triển khai dự án trong giai đoạn 
đầu và đổi lấy tỷ lệ cổ phần hoặc được chia sẻ lợi nhuận theo số lượng vốn góp đã cam kết trong 
dự án này. 
Cả hai phương thức trên đều cần phải công khai tất cả thông tin về dự án như sản phẩm 
và kế hoạch kinh doanh trên nền tảng hỗ trợ huy động vốn cộng đồng (Mollick, 2014). Hơn thế 
nữa, hai phương thức cũng đều tạo ra cảm giác về sự tương tác cũng như liên kết của người góp 
vốn với cộng đồng khi họ được chia sẻ về những sở thích cũng như ý tưởng chung (Gerber và 
công sự, 2012). Tuy nhiên, giữa hai phương thức này vẫn có những điểm khác biệt, đặc biệt là 
những quy định liê quan đến phạm vi chịu sự điều chỉnh của pháp luật (Burkett, 2011). Từ những 
điểm khác biệt này, mỗi dự án khi cân nhắc gọi vốn cộng đồng sẽ lựa chọn hình thức phù hợp để 
đạt được những mục tiêu đề ra. Bảng 1 dưới đây sẽ đưa ra so sánh giữa hai phương thức gọi vốn 
cộng đồng hay được sử dụng trên thế giới. 
Bảng 1. So sánh 2 phương thức huy động vốn cộng đồng 
Tiêu chí Phương thức đặt trước Phương thức chia sẻ lợi nhuận 
Động cơ của 
người góp vốn 
Tiếp cận sớm hơn với các sản 
phẩm, dịch vụ mới 
Tiếp cận với nhiều cơ hội đầu tư 
khác nhau 
Động cơ giảm 
chi phí vốn của 
người kêu gọi 
vốn 
Với quyền lợi được tiếp cận sớm 
hơn với các sản phẩm mới, người 
kêu gọi vốn có thể đẩy mạnh việc 
huy động vốn bằng cách đưa ra 
những lợi ích khác cho người góp 
vốn, ví dụ như quyền mua các sản 
phẩm phiên bản giới hạn, qua đó 
Thông qua Internet, các dự án 
kinh doanh khởi nghiệp có thể 
tìm thấy những người góp vốn 
phù hợp nhất mà không phụ 
thuộc vào vị trí địa lý của người 
chủ dự án cũng như người góp 
vốn (một điều rất quan trọng 
làm giảm chi phí vốn bằng việc 
bán được hàng hóa ngay trong 
những ngày đầu tiên khi tham gia 
thị trường, điều rất khó làm với 
những hình thức huy động vốn 
truyền thống. 
trong các hình thức huy động vốn 
truyền thống). Thực tế cũng 
chứng minh là những người góp 
vốn ở phương thức này thường ở 
rất xa so với người kêu gọi vốn. 
Do có thể tìm được những người 
góp vốn với mức độ sẵn sàng rất 
cao, chi phí vốn của doanh 
nghiệp khởi nghiệp sẽ giảm đi. 
Lợi ích của 
người góp vốn 
Những lợi ích không tính được 
bằng tiền (quyền bỏ phiếu, quyền 
tham gia góp ý kiến hay danh 
tiếng) 
Chia sẻ lợi nhuận kinh doanh 
theo tỷ lệ vốn góp ban đầu 
Mức độ tiếp cận 
thị trường tiêu 
thụ của sản 
phẩm/dịch vụ 
Mức độ tiếp cận thị trường cao vì 
người kêu gọi vốn cộng đồng có 
thể căn cứ vào số lượng đặt hàng 
trước, phản hồi từ người góp vốn 
để đánh giá tiềm năng của sản 
phẩm 
Mức độ tiếp cận thị trường thấp 
vì mức độ góp vốn bằng tiền 
chưa thể hiện được rõ phản hồi 
về sản phẩm/dịch vụ của doanh 
nghiệp khởi nghiệp 
Lĩnh vực kinh 
doanh khởi 
nghiệp 
Bị giới hạn trong một số lĩnh vực 
nhất định vì không phải lĩnh vực 
kinh doanh nào cũng có thể bán 
được sản phẩm/dịch vụ trước thời 
điểm tung ra thị trường. Phương 
thức này đặc biệt phù hợp với các 
dự án về nghệ thuật và giải trí 
Không bị giới hạn 
Quy định và luật 
lệ 
Không chịu ràng buộc bởi các quy 
định và hệ thống văn bản pháp luật 
vì hình thức này không liên quan 
đến vấn đề huy động vốn chủ sở 
hữu ban đầu 
Chịu ràng buộc bởi các quy định 
và các văn bản pháp luật vì có 
liên quan đến các khoản vốn góp 
ban đầu và chia tỷ lệ lợi nhuận 
kinh doanh. Nói theo một cách 
khác thì phương thức này không 
khác so với việc mua cổ phiếu 
một công ty mới tiềm năng. Vì 
vậy, những quy định về tỷ lệ vốn 
góp đều phải chịu sự điều chỉnh 
của các văn bản quy phạm pháp 
luật. 
Quá trình rà soát 
đặc biệt trước 
khi tham gia góp 
vốn của công 
chúng (Crowd 
Due Diligence) 
Với mục tiêu hạn chế vấn đề thông 
tin bất cân xứng giữa người kêu 
gọi vốn và người góp vốn, phương 
thức này có mức độ rà soát thấp vì 
những người góp vốn trong hình 
thức gần như chỉ đóng vai trò như 
một khách hàng và mong muốn 
của họ là được tiếp cận, cảm nhận 
và sử dụng sản phẩm mới trước. 
Vì vậy, họ sẽ không quá chú trọng 
tiến hành rà soát chi tiết, tỉ mỉ. 
Với mục tiêu hạn chế vấn đề 
thông tin bất cân xứng giữa 
người kêu gọi vốn và người góp 
vốn, phương thức này có mức độ 
rà soát cao vì mục đich của 
những người góp vốn trong hình 
thức này là mục đích đầu tư. Vì 
vậy, họ cần tiến hành quá trình rà 
soát một cách chi tiết để đảm bảo 
họ không đưa ra những quyết 
định sai lầm. 
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp 
5. Áp dụng hình thức huy động vốn cộng đồng ở các doanh nghiệp khởi nghiệp Việt Nam 
Với phong trào khởi nghiệp tại Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ, những vấn đề 
liên quan đến hoạt động huy động vốn ngày càng được quan tâm. Tất cả các chủ thể tham gia thị 
trường tài chính Việt Nam đều nhận thấy rằng vấn đề huy động vốn cho các doanh nghiệp khởi 
nghiệp là rất khó khăn. Với mục đích giảm bớt những khó khăn này và phù hợp với xu thế phát 
triển của thế giới, hình thức huy động vốn cộng đồng đã bắt đầu xuất hiện tại Việt nam. Đánh 
dấu sự ra mắt của hình thức huy động vốn mới mẻ này là sự ra đời của nền tảng hỗ trợ huy động 
vốn cộng đồng đầu tiên IG9.vn (nay là Betado.com) vào năm 2013. Hiện nay, tại Việt Nam, rất 
nhiều nền tảng hỗ trợ cũng đã được phát triển, ví dụ như Comicola.com, Firststep.vn, 
Fundingvn.com hay Fundstart.vn. Cũng đã có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam sử dụng hình 
thức huy động vốn cộng đồng. Tuy nhiên, mới chỉ có doanh nghiệp trong 2 lĩnh vực công nghệ 
thông tin và sách truyện gặt hái được thành công. Trong khi đó, các doanh nghiệp khởi nghiệp tại 
Việt Nam có lĩnh vực hoạt động rất đa dạng. Vậy câu hỏi đặt ra là làm thể nào để có thể phát 
triển hình thức huy động vốn từ cộng đồng để gặt hái được thành công trong bối cảnh Việt Nam? 
Trên thực tế, cũng có nhiều dự án do người Việt Nam khởi xướng đã huy động vốn cộng 
đồng thành công khi đăng tải thông tin kêu gọi trên các website nước ngoài như dự án thiết bị 
đeo thời trang Misfit Shine của Vũ Xuân Sơn (Sonny Vũ) thu hút được nguồn vốn lên đến 
846.000 USD với gần 8.000 nhà tài trợ cá nhân thông qua Indiegogo5. Nhưng xét đến các dự án 
thuần Việt thực hiện huy động vốn cộng đồng thông qua một website Việt Nam thì chưa có 
nhiều. Một trường hợp huy động vốn cộng đồng được coi là khá thành công tại Việt Nam là dự 
án xuất bản truyện tranh Long Thần Tướng vào năm 2014 nhưng dự án này chỉ dừng lại ở việc 
áp dụng phương thức gọi vốn cộng đồng – nhận quà tri ân6, một phương thức huy động không 
phải là phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, tổng số tiền được kêu gọi trong trường hợp này cũng 
chỉ là 330 triệu đồng7. Còn hầu hết những dự án kinh doanh khác thì số tiền huy động không 
nhiều như dự án “Cải tiến Cờ caro tổ ong” chỉ huy động được 14,200,000 VNĐ trên tổng huy 
động 30,000,000 VNĐ8 hay dự án “Gậy dẫn đường cho người khiếm thị -- H3N” huy động được 
32,450,000 VNĐ trên tổng huy động 40,000,000 VNĐ9. Việc chưa ban hành các văn bản quy 
phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn cộng đồng đang là một trong những cản trở 
chính trong quá trình huy động vốn của các doanh nghiệp khởi nghiệp. Mặc dù Chính phủ đã có 
những quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp nhưng hoạt động huy động vốn cần được 
quan tâm một cách thiết thực hơn bằng cách ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định 
về hoạt động huy động vốn cộng đồng, đặc biệt là hai phương thức huy động vốn cộng đồng phổ 
biến là phương thức đặt trước và phương thức chia sẻ lợi nhuận. Đầu năm 2016, Dự thảo Luật 
Hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ do Bộ Khoa học và Đầu tư soạn thảo đã đưa huy động vốn 
cộng đồng vào nội dung. Đây cũng được coi là một tín hiệu tích cực cho thấy Chính phủ chú 
trọng đến hoạt động huy động vốn cho các dự án khởi nghiệp và hình thức huy động vốn cộng 
đồng mới mẻ này. Một khi Luật có hiệu lực thì các hoạt động huy động vốn cộng đồng tại Việt 
Nam sẽ có cơ sở để thực hiện và việc phát triển hoạt động này cũng trở nên dễ dàng hơn. 
Từ Bảng 1 so sánh hai phương thức huy động vốn cộng đồng trên, có thể thấy rằng khả 
năng áp dụng cả hai hình thức này vào Việt Nam là hoàn toàn khả thi. Từ phía doanh nghiệp 
khởi nghiệp, nếu phương thức chia sẻ lợi nhuận bị ràng buộc bởi các quy định pháp luật thì, 
trong thời gian tới, các doanh nghiệp có thể cân nhắc áp dụng phương thức đặt trước trong những 
5
6
 Ở hình thức này, số tiền tài trợ được chia theo từng gói, mỗi gói sẽ có một phần quà tương ứng. Người tài trợ sẽ 
nhận được quà khi dự án thành công, không xét đến lợi nhuận hay cổ phần sở hữu. 
7
8
 https://firststep.vn/du-an/cai-tien-co-ca-ro-to-ong_157/ 
9
 https://firststep.vn/du-an/gay-dan-duong-cho-nguoi-khiem-thi----h3n_164/ 
tình huống phù hợp. Phương thức này phù hợp với lĩnh vực giải trí nghệ thuật nên với một số 
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này còn đang loay hoay tìm vốn có thể cân nhắc việc “rao 
bán trước” sản phẩm vừa để vừa nghiên cứu thị hiếu của khán giả vừa có được nguồn tài chính 
để thực hiện kế hoạch. Tuy nhiên, đứng từ góc độ người gọi vốn, trước khi đưa ra kế hoạch cùng 
thông tin kêu gọi trên các website crowdfunding thì cần phải chú trọng tới sản phẩm kinh doanh 
của mình, phải có tính cạnh tranh và sáng tạo để thu hút được sự hứng thú từ những nhà đầu tư 
cá nhân. Mặt khác, sử dụng hoạt động huy động vốn cộng đồng với phương thức “đặt hàng 
trước” cũng đặt ra thử thách về quyền sở hữu trí tuệ với sản phẩm kinh doanh của người gọi vốn, 
vì vậy, với những yêu cầu quá chi tiết từ các nhà đầu tư ẩn danh, người gọi vốn cần chú ý không 
tiết lộ hết thông tin của sản phẩm và dự án của mình. 
Đi cùng với việc áp dụng phương thức đặt trước, việc mở rộng và hình thành thêm các 
nền tảng hỗ trợ huy động vốn cộng đồng trong các lĩnh vực khác nhau là rất cần thiết để đáp ứng 
được nhu cầu của các doanh nghiệp khởi nghiệp khác nhau. Trên thế giới có đến gần 500 trang 
web hỗ trợ huy động vốn cộng đồng nhưng con số này mới chỉ dừng lại ở con số 6 hay 7 trang 
web tại Việt Nam. Điều này phần nào cũng gây khó khăn trong việc tạo môi trường phát triển 
cho hoạt động huy động vốn cộng đồng. Vì vậy, một trong những vấn đề cấp thiết trong thời gian 
tới là xây dựng được một hệ sinh thái gồm nhiều nền tảng hỗ trợ huy động vốn cộng đồng. Và 
những nền tảng này cũng cần được quy định cụ thể, chặt chẽ trong các văn bản quy phạm pháp 
luật. Chỉ khi thực hiện được điều này, hoạt động huy động vốn cộng đồng mới có thể thực sự 
phát triển tại Việt Nam. 
6. Kết luận 
 Có thể nói rằng, huy động vốn cộng đồng là một hình thức huy động vốn đối phổ biến 
trên thế giới, đặc biệt phù hợp với các dự án khởi nghiệp và các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhiều 
dự án kinh doanh và dự án nghệ thuật có được kết quả thành công đều nhờ vào nguồn vốn được 
huy động từ hình thức huy động vốn cộng đồng. Kết quả này đến từ sự phát triển của các nền 
tảng hỗ trợ gọi vốn cộng đồng cũng như sự hoàn thiện trong chính sách pháp luật của các nước 
phát triển. Tại Việt Nam, có thể coi huy động vốn cộng đồng chính là hình thức “cứu cánh” cho 
nhiều dự án khởi nghiệp và hoạt động này bước đầu đã đạt được những thành công nhất định. 
Tuy nhiên, để có thể phát huy được những lợi ích mà huy động vốn cộng đồng mang lại, tất cả 
các bên có liên quan đều phải có những hành động cụ thể nhằm thúc đẩy sự phát triển hoạt động 
này trong thời gian tới. Chính phủ Việt Nam cần phải ban hành những văn bản pháp luật để tạo 
hành lang pháp lý cũng như để điều chỉnh hoạt động huy động vốn cộng đồng, đặc biệt là những 
văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện hai phương thức gọi vốn cộng đồng chính là 
phương thức đặt trước và phương thức chia sẻ lợi nhuận. Ngoài ra, Chính phủ cũng cần có những 
chính sách để khích lệ và tạo điều kiện cho nhiều cá nhân tham gia góp vốn để hỗ trợ các dự án 
khởi nghiệp, như tạo ra những cơ chế ưu đãi thuế... Những người gọi vốn cần xây dựng một kế 
hoạch kinh doanh rất cụ thể và tập trung vào những sản phẩm mang tính cạnh tranh, có chất 
lượng để thu hút vốn và sự hứng thú từ nhà đầu tư. Các website làm nền tảng cho hoạt động huy 
động vốn cộng đồng tại Việt Nam cũng cần hoàn thiện quy trình cho một dự án đăng thông tin 
gọi vốn và hỗ trợ nhiều nhất có thể để làm cầu nối thông tin hiệu quả, chính xác, mang lại lợi ích 
cho các bên tham gia. 
Tài liệu tham khảo 
1. Agrawal, A., Catalini, C. and Goldfarb, A. (2013), “Some Simple Economics of 
Crowdfunding. A chapter in Innovation Policy and the Economy”, National Bureau of 
Economic Research, Vol. 14, pp. 63-97. 
2. Belleflamme, P., Lambert, T. and Schwienbacher, A. (2014), “Crowdfunding: Tapping 
the right crowd”, Journal of Business Venturing, Vol. 29, pp. 585-609. 
3. Bradford, C. S. (2012), “Crowdfunding and the Federal Securities Laws”, Columbia 
Business Law Review, pp. 1-150. 
4. Burkett, E. (2011), “A Crowdfunding Exemption? Online Investment Crowdfunding an 
U.S. Securities Regulation”, Transactions: The Tennessee Journal of Business Law, Vol. 
13, pp. 63-106. 
5. Carpenter, R. E. and Petersen, B. C. (2002), “Is the Growth of Small Firms Constrained 
by Internal Finance?”, The Review of Economics and Statistics, Vol. 84, Issue. 2, pp. 298-
309. 
6. Gerber, E. M., Hui, J. S. and Kuo, P. Y. (2012), Crowdfunding: why people are motivated 
to post and fund projects on crowdfunding platforms, Working Paper. 
7. Ebben, J. and Johnson, A. (2006), “Bootstrapping in small firms: An empirical analysis 
of change over time”, Journal of Business Venturing, Vol. 21, Issue. 6, pp. 851-865. 
8. Howe, J. (2008), Crowdsourcing: Why the power of the crowd is driving future of 
business, Three River Press, New York. 
9. Lambert, T. and Schwienbacher, A. (2010), An Empirical Analysis of Crowdfunding, 
Louvain-la-Neuve: Louvain School of Management, Catholic University of Louvain. 
10. Mollick, E. (2014), “The dynamics of crowdfunding: An exploratory study”, Journal of 
Business Venturing, Vol. 29, Issue. 1, pp. 1-16. 
11. Tomczak, A. and Brem, A. (2013), “A conceptualized investment model of 
crowdfunding”, Venture Capital: An International Journal of Entrepreneurial Finance, 
Vol. 15, No. 4, pp. 335-359. 

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_hoat_dong_huy_dong_von_cong_dong_tai_viet_nam.pdf