Phân tích hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam
Hiệu quả hoạt động luôn được xem là một yếu tố quyết định
năng lực cạnh tranh của bất kỳ ngân hàng nào trên thị trường. Do
vậy, nghiên cứu này tiến hành đánh giá mức hiệu quả của các
NHTMCP Việt Nam đạt được trong giai đoạn 2011 - 2018.
Trong đó, hiệu quả hoạt động được ước lượng thông qua phương
pháp phân tích hiệu quả kỹ thuật bằng phân tích biên ngẫu nhiên
(SFA) và phân tích bao dữ liệu (DEA). Đồng thời, nghiên cứu
cũng sử dụng phương pháp bình phương tối thiểu gộp (Pooled
OLS), mô hình tác động ngẫu nhiên (FEM), phương pháp ước
lượng bình phương nhỏ nhất (GLS) để đánh giá tác động của các
nhân tố đến hiệu quả kỹ thuật của các NHTMCP Việt Nam. Kết
quả chỉ ra rằng, các yếu tố thuộc nhóm hiệu quả quản lý (ROA,
ETA) có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kỹ thuật hay hiệu quả
hoạt động của các NHTMCP Việt Nam.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam

22 Nguyễn M. Kiều, Nguyễn N. T. Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(8), 22-40 Phân tích hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam Analysing technical efficiency of joint stock commercial banks in Vietnam Nguyễn Minh Kiều1*, Nguyễn Ngọc Thùy Trang2 1Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam 2Ngân hàng Eximbank, Việt Nam *Tác giả liên hệ, Email: kieu.nm@ou.edu.vn THÔNG TIN TÓM TẮT DOI: 10.46223/HCMCOUJS. econ.vi.15.3.1330.2020 Ngày nhận: 19/11/2019 Ngày nhận lại: 13/05/2020 Duyệt đăng: 14/05/2020 Từ khóa: hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả hoạt động, phân tích biên ngẫu nhiên (SFA), phân tích bao dữ liệu (DEA) Keywords: Technical Efficiency (TE), bank efficiency, Stochastic Frontier Analysis (SFA), Data Envelopment Analysis (DEA) Hiệu quả hoạt động luôn được xem là một yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của bất kỳ ngân hàng nào trên thị trường. Do vậy, nghiên cứu này tiến hành đánh giá mức hiệu quả của các NHTMCP Việt Nam đạt được trong giai đoạn 2011 - 2018. Trong đó, hiệu quả hoạt động được ước lượng thông qua phương pháp phân tích hiệu quả kỹ thuật bằng phân tích biên ngẫu nhiên (SFA) và phân tích bao dữ liệu (DEA). Đồng thời, nghiên cứu cũng sử dụng phương pháp bình phương tối thiểu gộp (Pooled OLS), mô hình tác động ngẫu nhiên (FEM), phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất (GLS) để đánh giá tác động của các nhân tố đến hiệu quả kỹ thuật của các NHTMCP Việt Nam. Kết quả chỉ ra rằng, các yếu tố thuộc nhóm hiệu quả quản lý (ROA, ETA) có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả kỹ thuật hay hiệu quả hoạt động của các NHTMCP Việt Nam. ABSTRACT Bank efficiency is always the determiants of the competitiveness of any banks in the market. Therefore, this article is to study the effectiveness of Joint Stock Commercial Banks in Vietnam achieved in 2011 - 2018. Specially, banking performance is estimated by technical efficiency: Stochastic Frontier Analysis (SFA) and Data Envelopment Analysis (DEA). Furthermore, the study also uses Pooled OLS method, Fixed Effect model (FEM), Generalized Least Squares method (GLS) to assess the impact of factors to technical efficiency of Joint Stock Commercial Banks. The study results showed that the factors of effective management (ROA, ETA) have significantly positive impact on technical efficiency or performance of Joint Stock Commercial Banks. 1. Giới thiệu Với nhiệm vụ là trung gian luân chuyển vốn của nền kinh tế, các NHTMCP luôn có vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính của bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt là tại các nước đang phát Nguyễn M. Kiều, Nguyễn N. T. Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(8), 22-40 23 triển như Việt Nam. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2018), số lượng các NHTMCP tại Việt Nam năm 2014 là 34 ngân hàng thì tính đến thời điểm 30/06/2018, số lượng NHTMCP đang hoạt động chỉ còn 31 ngân hàng. Con số này là một dẫn chứng cho thấy những ngân hàng nào hoạt động không hiệu quả, không có khả năng cạnh tranh đã dần được thay thế bằng những ngân hàng khác hoạt động tốt hơn. Do vậy, có thể nói hiệu quả là một trong những tiêu chí quan trọng, buộc các NHTMCP phải đánh giá để tồn tại và phát triển, đặc biệt là trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày một gia tăng như hiện nay. Hiện tại, đã có tương đối nhiều nghiên cứu quan tâm đến vấn đề hiệu quả hoạt động ngân hàng theo cả hai hướng định tính và định lượng. Với hướng nghiên cứu định lượng, xu hướng phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động mới đang được sử dụng phổ biến trong những năm gần đây đó chính là phương pháp phân tích hiệu quả kỹ thuật thay vì phân tích chỉ số tài chính thông thường. Tuy nhiên, hầu hết các bài phân tích chỉ sử dụng một trong hai phương pháp DEA hoặc SFA, ít có bài viết nào sử dụng đồng thời cả hai phương pháp DEA và SFA để đánh giá hiệu quả kỹ thuật của các NHTMCP Việt Nam đạt được, đặc biệt là trong giai đoạn gần đây. Chính vì vậy, việc nghiên cứu hiệu quả hoạt động của các NHTMCP hay cụ thể hơn là xác định mức hiệu quả kỹ thuật mà các NHTMCP đạt được là hết sức cần thiết. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định hiệu quả hoạt động của các NHTMCP tại Việt Nam, trong đó hiệu quả hoạt động được ước lượng thông qua phương pháp phân tích hiệu quả kỹ thuật bằng hai mô hình chính SFA và DEA, đồng thời kiểm định các nhân tố tác động đến hiệu quả kỹ thuật của NHTMCP. Từ đó có thể bổ sung bằng chứng nghiên cứu thực nghiệm, kênh thông tin tham khảo về đánh giá hiệu quả hoạt động, giúp các nhà phân tích, quản trị ngân hàng có thể đưa ra chính sách phù hợp, góp phần nâng cao vị thế cạnh tranh của ngân hàng mình trên thị trường tài chính. 2. Cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu có liên quan 2.1. Cơ sở lý thuyết Coelli, O’ Donnell, và Battese (2005) đã đưa ra định nghĩa về hiệu quả như sau: Hiệu quả là năng lực hoạt động của ngân hàng khi đạt được mức sản lượng tối đa với đơn vị đầu vào cho trước. Như vậy, với hoạt động của các NHTMCP hiệu quả được hiểu là mối liên hệ giữa các yếu tố đầu ra (outputs) và các yếu tố đầu vào (inputs) mà ngân hàng đã bỏ ra để đạt mức khả năng sinh lời mong muốn. Ta có thể tạm chia hiệu quả thành hai nhóm phổ biến như sau: Nhóm hiệu quả tài chính và nhóm hiệu quả kỹ thuật. Bản chất của hiệu quả tài chính chính là hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng. Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của quá trình sản xuất bao gồm các nguồn vật lực, nguồn tài chính để đạt được mức hiệu quả yêu cầu (P. N. Nguyen, 2013). Một số chỉ tiêu phổ biến thường được sử dụng để phản ánh hiệu quả kinh doanh như: ROE, ROS, ROI, NIM, Tuy nhiên, các chỉ số tài chính này lại thường gặp một số hạn chế khi sử dụng như: Chỉ phản ánh mối liên hệ tương quan giữa hai biến số nên không thể đưa ra nhận định tổng quát về tình trạng của đối tượng đang được đánh giá, buộc nhà phân tích khi sử dụng cần phải kết hợp so sánh nhiều chỉ số, dẫn đến việc lựa chọn chỉ số tính toán sử dụng còn mang tính chủ quan; phải sử dụng chính xác tử số hoặc mẫu số trong công thức tính toán, chuẩn mực kế toán hay phương pháp kế toán cần có sự thống nhất giữa các đối tượng so sánh; các giá trị dị biệt nếu có xuất hiện trong dữ liệu chỉ số tài chính sẽ mắc phải lỗi phương sai sai số thay đổi (Faello, 2015). Do đó, việc tìm kiếm sử dụng phương pháp mới, mang tính tổng quát, không những đánh giá được hiệu quả hoạt động mà còn cho biết bức tranh tổng quan về thứ hạng của ngân hàng đánh giá đó chính là phương pháp phân tích hiệu quả kỹ thuật. 24 Nguyễn M. Kiều, Nguyễn N. T. Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(8), 22-40 Cùng với khái niệm về đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF), khái niệm về hiệu quả kỹ thuật đã xuất hiện một thời gian dài trong kinh tế học cho đến nay. Theo Koopmans (1957), hiệu quả kỹ thuật lần đầu tiên đã được định nghĩa như sau: Khi và chỉ khi điểm hiệu quả ngân hàng đạt được khả thi và không tồn tại điểm nào khác “tốt hơn” điểm đó thì ngân hàng đạt được hiệu quả kỹ thuật. Farrell (1957) đã đưa ra một định nghĩa khác dưới cách tiếp cận đầu ra (hay còn gọi là tối đa hóa đầu ra) và được chấp nhận rộng rãi. Hiệu quả kỹ thuật bao gồm hiệu quả kỹ thuật thuần túy (PTE) và hiệu quả quy mô (SE). Coelli và cộng sự (2005) đã bổ sung góp phần hoàn thiện định nghĩa hiệu quả kỹ thuật theo cách tiếp cận tối đa hóa đầu vào đó là với lượng đầu vào tối thiểu, một ngân hàng có thể sản xuất được một lượng đầu ra cố định thì ngân hàng đó đạt hiệu quả kỹ thuật. Được áp dụng từ năm 1970, khung phân tích CAMELS (hoặc CAMEL) là hệ thống xếp hạng, giám sát tình hình ngân hàng của Mỹ được nhiều tổ chức tín dụng trên thế giới sử dụng như là chuẩn mực dùng để đánh giá hiệu quả, quản trị rủi ro của các ngân hàng nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung. Khung phân tích bao gồm sáu yếu tố cơ bản: C - Mức an toàn vốn, A - Chất lượng tài sản, M - Khả năng quản lý, E - Thu nhập, L - Tính thanh khoản và S - Độ nhạy cảm với rủi ro thị trường. Tiêu chuẩn này đã được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng để lựa chọn các biến phản ánh đến hiệu quả của ngân hàng như H. V. Nguyen (2008), Chen, Hu, và Su (2006). Tuy nhiên, việc lựa chọn biến nào phù hợp còn dựa trên mục tiêu của nhà phân tích, lãnh đạo ngân hàng và người nghiên cứu. Do đó, dựa trên khung phân tích CAMELS và từ những nghiên cứu trước, bài viết này tiến hành xem xét mối liên hệ giữa năm nhân tố quan trọng, bao gồm Quy mô ngân hàng, ROA, NPL, DLR, ETA lên hiệu quả của các NHTMCP tại Việt Nam. 2.2. Các nghiên cứu liên quan Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trên thị trường luôn có mục tiêu sau cùng đó là tối đa hóa giá trị tài sản cho chủ sở hữu, cổ đông và ngân hàng cũng không ngoại lệ. Vì vậy, việc xem xét, đánh giá hiệu quả hoạt động luôn là vấn đề cấp thiết, được đặt lên hàng đầu của mỗi đơn vị và luôn được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, một số nghiên cứu trong và ngoài nước đã đề cập đến vấn đề hiệu quả hoạt động ngân hàng, đặc biệt là phương pháp phân tích hiệu quả kỹ thuật trong những năm gần đây. Pham và Chau (2011) chỉ ra rằng các NHTM Nhà nước mặc dù đạt mức dư nợ tín dụng cao hơn khối NHTMCP nhưng mức hiệu quả kỹ thuật về thu nhập đạt được lại tương đương với khối NHTMCP. Michael (2016) nghiên cứu 20 ngân hàng nông thôn và ngân hàng cộng đồng tại Ghana có mức hiệu quả kỹ thuật tương đối tốt. Phương pháp DEA và mô hình hồi quy được sử dụng cho thấy các yếu tố như: Quy mô, lợi nhuận, chất lượng nguồn vốn ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng này. Ngoài ra, hai yếu tố quy mô và chất lượng nguồn vốn dẫn đến giảm hiệu quả kỹ thuật, trong khi sự gia tăng lợi nhuận sẽ giúp cho ngân hàng nông thôn đạt hiệu quả kỹ thuật cao hơn. K. Q. Nguyen (2016) đã chứng minh sự hiệu quả khác biệt giữa top 10 ngân hàng hiệu quả cao và top 10 ngân hàng hiệu quả thấp (các ngân hàng hiệu quả cao được phân thành các tầng cao hơn và các ngân hàng hiệu quả thấp được phân thành các tầng thấp hơn) thông qua dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ 20 NHTM Việt Nam năm 2014. T. T. T. Nguyen (2017) đã chứng minh các NHTM sử dụng tương đối hiệu quả các nguồn lực đầu vào với phương pháp phân tích bao dữ liệu DEA và mô hình hồi quy Tobit được sử dụng để đánh giá hiệu quả hoạt động của 21 NHTM trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2011 - 2015 và phân tích tác động của các nhân tố riêng, mang tính đặc trưng của ngân hàng, các điều kiện thị trường khác đến hoạt động hiệu quả của các NHTM. Nhìn chung, phương pháp phân tích hiệu quả kỹ thuật để đánh giá hiệu quả hoạt động của Nguyễn M. Kiều, Nguyễn N. T. Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(8), 22-40 25 đối tượng ngân hàng đang được nhiều nhà phân tích quan tâm sử dụng. Tuy nhiên, các nghiên cứu trước chủ yếu sử dụng một trong hai phương pháp đặc trưng là DEA hoặc SFA. Một số nghiên cứu có đi sâu hơn tiến hành kết hợp phân tích hồi quy để đánh giá thêm mức độ tác động của các nhân tố đến hiệu quả ngân hàng và dữ liệu điều tra cũng đã cũ. Do vậy, bài viết này tiến hành nghiên cứu hiệu quả hoạt động đối tượng các NHTMCP tại Việt Nam bằng phương pháp phân tích hiệu quả kỹ thuật theo mô hình tham số và phi tham số là SFA và DEA kết hợp, đồng thời phân tích hồi quy dữ liệu bảng được thực hiện tiếp tục ở bước hai nhằm xác định và đánh giá mức độ tác động của các nhân tố đến hiệu quả kỹ thuật của loại hình ngân hàng này để có thể đưa ra được bức tranh tổng quát về tình hình hoạt động của các NHTMCP tại Việt Nam trong những năm gần đây. 3. Mô hình và phương pháp nghiên cứu 3.1. Mô hình nghiên cứu Từ các lý thuyết và nghiên cứu trước (Coelli et al., 2005; Eva, 2018; Farrell, 1957; Gamachis, 2016), nghiên cứu đề xuất mô hình phân tích hiệu quả kỹ thuật và kiểm định các nhân tố tác động đến hiệu quả kỹ thuật các NHTMCP tại Việt Nam thông qua các bước như sau: Bước 1: Đánh giá hiệu quả kỹ thuật NHTMCP Việt Nam Hiệu quả hoạt động ngân hàng được xác định thông qua phương pháp phân tích kỹ thuật bằng hai mô hình chính: Mô hình phân tích biên ngẫu nhiên SFA và mô hình phân tích bao dữ liệu DEA với giả thuyết định hướng đầu vào. Các yếu tố đầu ra, đầu vào được xác định dựa trên quan điểm của Berger và Humphrey (1997) xem ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính. Bảng 1 trình bày tổng hợp các yếu tố đầu ra, đầu vào được lựa chọn trong nghiên cứu: Bảng 1 Bảng tổng hợp các yếu tố đầu vào - đầu ra Các yếu tố Đơn vị tính Nghiên cứu trước Đầu vào Tài sản cố định ròng K = Nguyên giá tài sản cố định - Hao mòn lũy kế Triệu đồng T. T. H. Nguyen & Le (2018), Eva (2018), K. Q. Nguyen (2016), Huynh (2015), Inès (2013), H. V. Nguyen (2008) Lao động L = Tổng chi phí lương Triệu đồng T. T. H. Nguyen và Le (2018), Eva (2018), Gamachis (2016), Huynh (2015) Tiền gửi huy động D = Tiền gửi khách hàng + Tiền gửi của tổ chức tín dụng khác Triệu đồng T. T. H. Nguyen và Le (2018), T. T. T. Nguyen (2017), K. Q. Nguyen (2016), Eva (2018), Gamachis (2016), Huynh (2015) Đầu ra Thu nhập hoạt động (Y) Thu nhập lãi Y1 Triệu đồng T. T. H. Nguyen và Le (2018), Phan và Tran (2017), Huynh (2015) Thu nhập ngoài lãi Y2 Triệu đồng T. T. H. Nguyen và Le (2018), ), Phan và Tran (2017), Huynh (2015) Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu của nhóm nghiên cứu 26 Nguyễn M. Kiều, Nguyễn N. T. Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(8), 22-40 3.1.1. Mô hình ước lượng hiệu quả kỹ thuật bằng phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên (SFA) Với phương pháp SFA, việc xác định hàm sản xuất cụ thể và mang tính đặc trưng, tổng quát cho hoạt động của đối tượng nghiên cứu là vấn đề quan trọng nhất. Do đó, nghiên cứu sẽ tiến hành thực hiện kiểm định thống kê tỷ số hợp lý LR-test (generalised log-likehood ratio test) để kiểm định dạng hàm phù hợp. Hai dạng hàm được xem xét là hàm sản xuất Cobb-Douglas và hàm Translog. Ngoài ra, tỷ số này còn được dùng để kiểm định có hay không phi hiệu quả kỹ thuật và phi hiệu quả kỹ thuật thay đổi bất biến theo thời gian. (1) Kiểm định dạng hàm sản xuất: Ước lượng hàm ước lượng hàm sản xuất Cobb-Douglas dạng: lnYit = α0 + α1lnKit + α2lnLit + α3lnDit + vit - uit (1) Ước lượng hàm ước lượng hàm sản xuất Translog dạng: lnYit = α0 + α1lnKit + α2lnLit + α3lnDit + + β1lnKitLit + β2lnKitDit + β3lnLitDit + λ1lnK2it + λ2lnL2it + λ3lnD2it + vit - uit (2) Trong đó: lnYit: Logarit tự nhiên của giá trị gia tăng hoặc doanh thu thuần của ngân hàng i năm t. lnKit: Logarit tự nhiên vốn ròng của ngân hàng i năm t. lnLit: Logarit tự nhiên lao động của ngân hàng i năm t. Giả thuyết Ho được đưa ra như sau: Hàm sản xuất Cobb-Douglas phù hợp với bộ dữ liệu hay H0: β1 = β2 = β3 = λ1 = λ2 = λ3 = 0. Thống kê kiểm định LR-test sẽ tuân theo phân phối Chi bình phương hỗn hợp với bậc tự do df = 6. Nếu giá trị LR-test lớn hơn giá trị tới hạn với mức ý nghĩa ... Hệ số P-value Hệ số P-value Cons 0,355 0,445 3,514 1,048 0,683 0,584 LnAssets 0,006 0,644 -0,089 -0,031 -0,004 0,017 ROA 7,892 0,000 7,521 1,621 7,215 1,585 NPL -0,172 0,834 -1,084 0,861 -0,461 -0,827 DLR -0,307 0,826 -1,493 1,366 -0,854 1,359 ETA 0,810 0,079 0,644 0,531 1,026 0,475 Prob>F 0,000 0,000 0,000 R-squared 0,241 0,075 0,228 Nguồn: Kết quả xử lý từ dữ liệu điều tra Nguyễn M. Kiều, Nguyễn N. T. Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(8), 22-40 35 Bảng 13 Kết quả hồi quy lần thứ nhất với biến phụ thuộc là TE_DEA Tên biến Pooled OLS FEM REM Hệ số P-value Hệ số P-value Hệ số P-value Cons 0,896 0,000 1,499 0,364 0,896 0,145 LnAssets 0,002 0,677 -0,016 0,011 0,002 0,004 ROA -0,462 0,360 -0,681 0,564 -0,462 0,503 NPL 0,207 0,420 0,014 0,300 0,207 0,255 DLR 0,358 0,412 -0,087 0,475 0,358 0,436 ETA 0,086 0,550 -0,040 0,185 0,086 0,143 Prob>F 0,702 0,265 0,702 R-squared 0,020 0,002 0,020 Nguồn: Kết quả xử lý từ dữ liệu điều tra Để lựa chọn mô hình phù hợp, nghiên cứu lần lượt tiến hành kiểm định Hausman, F, Lagrange, kết quả được trình bày lần lượt tại Bảng 14, 15, và 16. Như vậy, dựa vào kết quả cho thấy mô hình ước lượng FEM là phù hợp để kiểm định với biến phụ thuộc là TE_SFA và mô hình ước lượng Pooled OLS là phù hợp để kiểm định với biến phụ thuộc là TE_DEA. Bảng 14 Kết quả kiểm định Hausman Biến phụ thuộc Chi2 (5) Prob > chi2 TE_DEA 9,90 0,078 TE_SFA 23,95 0,000 Nguồn: Kết quả xử lý từ dữ liệu điều tra Bảng 15 Kiểm định F Biến phụ thuộc F (5, 128) Prob > F TE_SFA 12,13 0,000 Bảng 16 Kiểm định Breusch - Pagan Lagrange Multiplier Biến phụ thuộc Chibar2 (01) Prob > chibar2 TE_DEA 0,00 1,000 Nguồn: Kết quả xử lý từ dữ liệu điều tra Tiếp theo, nghiên cứu tiến hành kiểm tra sai phạm trước khi đưa ra kết quả hồi quy cuối cùng. Với kết quả từ Bảng 17 cho thấy đối với biến phụ thuộc TE_SFA, mô hình gặp hiện tượng phương sai sai số thay đổi. Còn đối với biến phụ thuộc là TE_DEA, mô hình gặp cả hiện tượng phương sai sai số thay đổi và tự tương quan của sai số giữa các đơn vị chéo. Do vậy, bài viết sẽ thực hiện hồi quy bằng quy bằng phương pháp GLS để khắc phục khuyết tật này. 36 Nguyễn M. Kiều, Nguyễn N. T. Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(8), 22-40 Bảng 17 Kết quả kiểm định đa cộng tuyến, hiện tượng phương sai thay đổi, tự tương quan Kiểm định Kết quả Kết luận Đa cộng tuyến VIF = 1,59 < 10 Không có hiện tượng đa cộng tuyến Phương sai thay đổi TE_SFA: Prob>chi2 = 0,000 Vi phạm TE_DEA: Prob>chi2 = 0,032 Vi phạm Tự tương quan TE_SFA: Prob>chi2 = 0,967 Không vi phạm TE_DEA: Prob>chi2 = 0,002 Vi phạm Nguồn: Kết quả xử lý từ dữ liệu điều tra Kết quả ước lượng Pooled OLS đối với biến phụ thuộc là TE_DEA ở Bảng 18 và FEM đối với biến phụ thuộc là TE_SFA được trình bày ở Bảng 19. Cả hai mô hình đều có giá trị p-value đều là 0,000 chứng tỏ các hệ số hồi quy đồng thời bằng không đều bị bác bỏ ở mức ý nghĩa 5%. Nghĩa là mô hình trên phù hợp với nghiên cứu. Bảng 18 Kết quả ước lượng hồi quy lần hai với biến phụ thuộc là TE_SFA TE_SFA Hệ số Sai số chuẩn z P>|z| Độ tin cậy 95% Hệ số chặn 0,090 0,377 0,24 0,811 -0,649 0,829 LnAssets 0,014 0,011 1,28 0,202 -0,008 0,036 ROA 8,459*** 1,391 6,08 0,000 5,732 11,186 NPL 0,766 0,615 1,24 0,213 -0,440 1,972 DLR -0,746 1,062 -0,70 0,483 -2,828 1,336 ETA 0,810** 0,366 2,21 0,027 0,093 1,527 Prob > chi2 0,000 Wald chi2 (5) 82,10 Nguồn: Kết quả xử lý từ dữ liệu điều tra Bảng 19 Kết quả ước lượng hồi quy lần hai với biến phụ thuộc là TE_DEA TE_DEA Hệ số Sai số chuẩn z P>|z| Độ tin cậy 95% Hệ số chặn 0,834*** 0,087 0,54 0,000 0,663 1,005 LnAssets 0,003 0,002 1,40 0,163 -0,001 0,008 ROA -0,568 0,406 -1,40 0,162 -1,362 0,227 NPL 0,430** 0,201 2,14 0,032 0,037 0,823 DLR 0,600 0,749 0,80 0,423 -0,867 2,068 ETA 0,136* 0,071 1,92 0,055 -0,003 0,274 Prob > chi2 0,000 Wald chi2 (5) 38,56 Ghi chú: *, ** và *** lần lượt là các mức ý nghĩa thống kê 10%, 5% và 1% Nguồn: Kết quả xử lý từ dữ liệu điều tra Nguyễn M. Kiều, Nguyễn N. T. Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(8), 22-40 37 4.2.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu Kết quả phân tích cho thấy các yếu tố thuộc nhóm hiệu quả quản lý như ROA, ETA có tác động mạnh đến hiệu quả kỹ thuật hay hiệu quả hoạt động NHTMCP, cụ thể: Quy mô ngân hàng (tổng tài sản - LnAssets): Nhân tố này không có ý nghĩa thống kê ở cả hai phương pháp với mức ý nghĩa 1%. Tuy nhiên, ở cả hai kết quả quy mô ngân hàng có xu hướng tác động cùng chiều với HQKT, nghĩa là hiệu quả hoạt động của các NHTMCP tại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2018 tăng khi tổng tài sản của các ngân hàng tăng. Các ngân hàng cần cân nhắc kỹ trong việc tăng vốn để mở rộng quy mô hoạt động của mình vì có thể sẽ dẫn đến hiện tượng VRS, đặc biệt là những NHTMCP có tổng tài sản lớn. Lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROA): Kết quả hồi quy cho thấy với biến phụ thuộc là TE_DEA, ROA có mối quan hệ ngược chiều với HQKT, nhưng lại không có ý nghĩa thống kê. Còn đối với biến phụ thuộc là TE_SFA, ROA có mối quan hệ cùng chiều với HQKT và có ý nghĩa thống kê cao. Nghĩa là, nếu tỷ lệ ROA của các NHTMCP tăng thì hiệu quả hoạt động của các ngân hàng tăng. Cụ thể, với các yếu tố khác không thay đổi, tỷ lệ ROA tăng 1% thì HQKT của các NHTMCP tại Việt Nam tăng 8,459% với độ tin cậy 99%. Tỷ lệ nợ xấu (NPL): Kết quả hồi quy cho thấy với biến phụ thuộc là TE_DEA, nếu tỷ trọng nợ xấu trên tổng dư nợ của NHTMCP tăng 1% thì HQKT tăng 0,430%, độ tin cậy 95% trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, ngược với kỳ vọng dấu. Tuy nhiên, mức độ tác động này là rất thấp (0,430%). Bên cạnh đó, với biến phụ thuộc là TE_SFA, tỷ lệ NPL không có ý nghĩa thống kê. Do đó, chưa đủ bằng chứng khoa học mạnh mẽ chứng minh tác động giữa NPL và hiệu quả hoạt động. Tỷ lệ tiền gửi khách hàng trên cho vay (DLR): Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng DLR không có ý nghĩa thống kê với cả hai biến phụ thuộc TE_DEA và TE_SFA ở mức ý nghĩa 1%. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (ETA): Nhân tố này có ý nghĩa thống kê ở cả hai mô hình và có xu hướng tác động tích cực, phù hợp với kỳ vọng dấu. Với biến phụ thuộc là TE_DEA, với độ tin cậy là 90%, trong điều kiện khác không thay đổi, khi tỷ lệ ETA tăng 1% thì HQKT hay hiệu quả hoạt động của NHTMCP tăng 0,136%. Đối với biến phụ thuộc là TE_SFA, trong điều kiện khác không thay đổi và độ tin cậy cao là 95%, ETA tăng 1% thì hiệu quả hoạt động ngân hàng tăng 0,810%. 5. Kết luận Bằng việc sử dụng dữ liệu thu thập của mẫu 19 NHTMCP tại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2018, nghiên cứu đã đưa ra được mức hiệu quả kỹ thuật của 19 ngân hàng này thông qua hai phương pháp chính là phương pháp phân tích bao dữ liệu (DEA) và phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên (SFA). Với phương pháp SFA, giá trị hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng đạt trung bình giai đoạn 2011 - 2018 là 0,677, ngân hàng đạt mức hiệu quả kỹ thuật cao nhất là VPB (0,790), ngân hàng có mức hiệu quả kỹ thuật thấp nhất là STB (0,513); còn đối với phương pháp DEA giá trị hiệu quả trung bình là 0,961; trong đó ngân hàng đạt hiệu quả kỹ thuật cao nhất và thấp nhất lần lượt là ACB (1,000), MBB (1,000), TPB (1,000), VCB (1,000) và LPB (0,901). Nhóm các ngân hàng đạt mức hiệu quả kỹ thuật cao là những ngân hàng luôn tiên phong trong việc áp dụng thay đổi tiến bộ công nghệ, có mức nhận diện thương hiệu trên thị trường cao trong những năm gần đây, đặc biệt là những ngân hàng đã công bố áp dụng thành công chuẩn Basel II trong năm 2019 (ngân hàng ACB, TPB, VCB, MBB, VPB). Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy mô hình Pooled OLS phù hợp với biến phụ thuộc là TE_DEA (hiệu quả kỹ thuật đo lường bằng phương pháp DEA), mô hình REM thích hợp 38 Nguyễn M. Kiều, Nguyễn N. T. Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(8), 22-40 sử dụng với biến phụ thuộc là TE_SFA (hiệu quả kỹ thuật thuật đo lường bằng phương pháp SFA). Các biến phù hợp có thể đại diện cho tổng thể, độ tin cậy cao bao gồm biến ROA, ETA và có tác động cùng chiều đến hiệu quả hoạt động NHTMCP trong giai đoạn 2011 - 2018. Trong đó, ROA có mức độ tác động lớn đến hiệu quả ngân hàng với độ tin cậy cao (khi tăng lợi nhuận trên tổng tài sản thêm 1% thì hiệu quả kỹ thuật tăng 8,459% với độ tin cậy 99% trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi). Bên cạnh đó, chỉ số ETA cũng cho thấy chỉ cần tăng 1% tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, hiệu quả kỹ thuật ngân hàng tăng 0,810% với độ tin cậy 95% trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Do đó, có thể kết luận rằng yếu tố quản lý (thể hiện qua chỉ số ROA và ETA) có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả trong hoạt động của các NHTMCP tại Việt Nam, những ngân hàng nào có chính sách quản lý tốt, sử dụng tài sản kiếm lời hiệu quả, khả năng thanh khoản cao, tỷ lệ an toàn vốn càng cao và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ tiên tiến vào quy trình hoạt động thì hiệu quả hoạt động càng tốt. Tài liệu tham khảo Aigner, D. L., & Chu, S. F. (1968). On estimating the industry production function. The American Economic Review, 4, 826-839. Aigner, D. L., & Schmidt, P. (1977). Formulation and estimation of stochastic frontier production models. Journal of Econometrics, 21-37. Berger, A. N., & Humphrey, D. B. (1997). Efficiency of financial institutions: International survey and directions for future research. European Journal of Operational Research, 98, 175-212. Charnes, A., Cooper, W. W., & Banker, R. D. (1984). Some models for estimating technical and scale inefficiencies in data envelopment analysis. Management Science, 30(9), 1078-1092. Charnes, A., Cooper, W. W., & Rhodes, E. (1978). Mearsuring the efficiency of decision making units. European Journal of Operation Research, 2, 429-444. Chen, C. P., Hu, J. L., & Su, Y. Y. (2006). Owership reform and efficiency of nationwide banks in China. Retrieved Octoter 20, 2019, from beijing06/papers/hu-chen-su.pdf Coelli, D. S. P., O’ Donnell, C. J., & Battese, G. E. (2005). An introduction to efficiency and productivity analysis. Berlin, Germany: Springer Science & Business Media. Eva, H. (2018). Technical efficiency of bank in Central and Eastern Europe. International Journal of Financial Studies, 6(3), 66. Farrell, M. J. (1957). The measurement of productive efficiency. Journal of Royal Statistical Society, 120(3), 253-290. Faello, J. (2015). Understanding the limitations of financial ratios. Academy of Accounting and Financial Studies Journal, Faello, 19(3), 75-85. Gamachis, G. (2016). Technical efficiency and productivity of Ethiopian Commercial Banks: Data encelopment analysis (DEA) approach. International Journal of Scientific and Research Publications, 6, 860-864. Huynh, T. T. P. (2015). Ước lượng hiệu quả hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam [Estimating the business performance of Vietnamese commercial banks]. Tạp chí Khoa học Công nghệ & Thực Phẩm, 7, 51-57. Nguyễn M. Kiều, Nguyễn N. T. Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(8), 22-40 39 Inès, A. (2013). Determinants of Tunisian bank efficiency: A DEA analysis. International Journal of Financial Research, 4(4), 128-139. Kodde, D., & Palm, F. (1986). Wald criteria for jointly testing equality and inequality restrictions. Technology and Investment, 5(2). Koopmans, C. T. (1957). Three essays on the state of economic science. New York, NY: McGraw- Hill Book Company, Inc. Michael, A. (2016). Determinants of bank technical efficiency: Evidence from rural and community banks in Ghana. Cogent Business & Management, 3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. (2018). Danh sách các Ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam [List of joint stock commercial banks in Vietnam]. Retrieved Octorber 21, 2019, from https://www.sbv.gov.vn Nguyen, K. M. (2015). Tài chính doanh nghiệp căn bản [Basic corporate finance]. Hanoi, Vietnam: NXB Tài chính. Nguyen, H. M., & Nguyen, T. C. (2012). Hiệu quả hoạt động của ngân hàng tại các nước Đông Nam Á và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam [Performance of banks in Southeast Asian countries and lessons for Vietnam]. Tạp chí Kinh tế và Chính trị thế giới, 11(199). Nguyen, K. M., & Nguyen, T. T. T. (2019). Ảnh hưởng của mở rộng chi nhánh đến hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng thương mại: Bằng chứng nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam [Effect of branch expansion on commercial banks' performance: empirical evidence in Vietnam]. Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng châu Á, 159. Nguyen, P. N. (2013). Giáo trình phân tích báo cáo tài chính [Textbook analysis of financial statements]. Hanoi, Vietnam: NXB Đại học Kinh tế Quốc dân. Nguyen, H. V. (2008). Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam [Analysis of factors affecting the performance of commercial banks in Vietnam] (Doctoral dissertation, National Economics University, Hanoi, Vietnam). Retrieved October 22, 2019, from https://khotrithucso.com/doc/p/phan-tich-cac-nhan-to- anh-huong-den-hieu-qua-hoat-dong-cua-219234 Nguyen, N. T. (2018). Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam [Analysis of factors affecting the business performance of joint stock commercial banks in Vietnam]. Retrieved October 23, 2019, from https://www.slideshare.net/trongthuy3/de-tai-nhan-to-anh-huong-den-hieu-qua-kinh- doanh-cua-ngan-hang-thuong-mai Nguyen, T. T. T. (2017). Hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên [Operational efficiency of commercial banks in Thai Nguyen province]. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 50(D), 52-62. Nguyen, K. Q. (2016). Xây dựng mô hình DEA đánh giá hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam [Building a DEA model to evaluate the performance of Vietnamese commercial banks]. Tạp chí Tài chính, 2. Nguyen, T. T. H., & Le, V. H. (2018). Phân tích hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam giai đoạn 2011-2016 [Analyzing the performance of the joint stock commercial banking system in Vietnam in the period 2011-2016]. Tạp chí Kinh tế đối ngoại, 103. 40 Nguyễn M. Kiều, Nguyễn N. T. Trang. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(8), 22-40 Pham, T. L., & Chau, H. T. K. (2011). Hiệu quả kỹ thuật của các Ngân hàng thương mại Việt Nam [Technical efficiency of Vietnamese commercial banks]. Tạp chí Công nghệ ngân hàng, 69, 20-26. Phan, N. T. H., & Tran, T. P. (2017). Hiệu quả kinh doanh của các Ngân hàng thương mại Việt Nam sau sáp nhập, hợp nhất, mua lại: Tiếp cận phương pháp DEA [Business performance of Vietnamese commercial banks after mergers, consolidations and acquisitions: DEA approach]. Tạp chí Ngân hàng, 24. Rose, P. S., & Hudgins, S. C. (2008). Bank management and financial services. New York, NY: The McGraw-Hill Companies, Inc.
File đính kèm:
phan_tich_hieu_qua_ky_thuat_cua_cac_ngan_hang_thuong_mai_co.pdf