Phân lập và nhận diện vi khuẩn phân giải nitrat trong dưa cải muối chua (Brassica juncea Coss)
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành thu thập các mẫu dưa cải (Brassica juncea Coss) tại chợ Thủ
Đức – Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó xác định hàm lượng nitrat theo ngày ủ chua bằng phương
pháp so màu với Natri salixylat. Từ 10 mẫu dưa cải khác nhau được thu thập tại chợ tiến hành
phân lập, tuyển chọn vi khuẩn có khả năng phân giải nitrat trên môi trường đặc trưng Giltay chứa
cơ chất là KNO3, kết hợp với kiểm tra các đặc tính sinh hóa của các chủng phân lập được, kết
quả thí nghiệm cho thấy hàm lượng nitrat của 10 mẫu dưa cải trên thị trường cho thấy hàm lượng
nitrat không đạt tiêu chuẩn có hàm lượng 2.000 – 5.000 mg/kg theo quy định của Tổ chức Y tế
thế giới (WHO) ở các ngày thứ nhất, hai và ba trong thời gian lên men và chỉ tiêu đạt tiêu chuẩn
sau 4 và 5 ngày lên men. Quá trình phân lập vi sinh phản nitrat đã sàng lọc được 6 dòng vi khuẩn
có khả năng khử nitrat trên môi trường Giltay và tuyển chọn 2 dòng vi khuẩn có khả năng khử
nitrate cao khi nuôi cấy trên môi trường dịch thể nitrat. Kết quả khảo sát hàm lượng nitrat trong
dưa cải ở các mẫu bổ sung vi khuẩn M1, M2 cho thấy hàm lượng nitrate thấp hơn so với những
mẫu không bổ sung vi khuẩn. Tiến hành giải trình tự, so sánh và phân tích phả hệ thư mục di
truyền phát sinh loài theo phương pháp Neighbor-joining xác định loài vi khuẩn có khả năng
chuyển hóa nitrate là Bacillus aryabhattai.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân lập và nhận diện vi khuẩn phân giải nitrat trong dưa cải muối chua (Brassica juncea Coss)
12 Võ T. X. Hương và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 62(5), 12-22 PHÂN LẬP VÀ NHẬN DIỆN VI KHUẨN PHÂN GIẢI NITRAT TRONG DƯA CẢI MUỐI CHUA (Brassica juncea Coss) VÕ THỊ XUÂN HƯƠNG1, TRƯƠNG PHƯỚC THIÊN HOÀNG1 NGUYỄN NGỌC BẢO CHÂU2, NGUYỄN BẢO QUỐC1,* 1Trường Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh 2Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh *Email: baoquoc@hcmuaf.edu.vn (Ngày nhận: 31/07/2018; Ngày nhận lại: 07/10/2018; Ngày duyệt đăng: 15/10/2018) TÓM TẮT Nghiên cứu được tiến hành thu thập các mẫu dưa cải (Brassica juncea Coss) tại chợ Thủ Đức – Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó xác định hàm lượng nitrat theo ngày ủ chua bằng phương pháp so màu với Natri salixylat. Từ 10 mẫu dưa cải khác nhau được thu thập tại chợ tiến hành phân lập, tuyển chọn vi khuẩn có khả năng phân giải nitrat trên môi trường đặc trưng Giltay chứa cơ chất là KNO3, kết hợp với kiểm tra các đặc tính sinh hóa của các chủng phân lập được, kết quả thí nghiệm cho thấy hàm lượng nitrat của 10 mẫu dưa cải trên thị trường cho thấy hàm lượng nitrat không đạt tiêu chuẩn có hàm lượng 2.000 – 5.000 mg/kg theo quy định của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ở các ngày thứ nhất, hai và ba trong thời gian lên men và chỉ tiêu đạt tiêu chuẩn sau 4 và 5 ngày lên men. Quá trình phân lập vi sinh phản nitrat đã sàng lọc được 6 dòng vi khuẩn có khả năng khử nitrat trên môi trường Giltay và tuyển chọn 2 dòng vi khuẩn có khả năng khử nitrate cao khi nuôi cấy trên môi trường dịch thể nitrat. Kết quả khảo sát hàm lượng nitrat trong dưa cải ở các mẫu bổ sung vi khuẩn M1, M2 cho thấy hàm lượng nitrate thấp hơn so với những mẫu không bổ sung vi khuẩn. Tiến hành giải trình tự, so sánh và phân tích phả hệ thư mục di truyền phát sinh loài theo phương pháp Neighbor-joining xác định loài vi khuẩn có khả năng chuyển hóa nitrate là Bacillus aryabhattai. Từ khóa: Bacillus aryabhattai; Cải muối chua; Vi khuẩn phân giải nitrate. Isolation and identification of the denitrifying bacteria from fermented cabbage (Brassica juncea Coss) ABSTRACT The study was conducted to evaluate the nitrate reduction in fermented mustard cabbage and determine the nitrate level during the fermentation process. A total of 10 samples of fermented mustard cabbage were collected from some retailers at Thu Duc market. The samples were used to determine the nitrate concentration using color compared with sodium salicylate. Then we isolated and cultured the strains of nitrate-reducing bacteria in a specific Giltay medium containing KNO3, as well as testing biochemical characteristics. The cabbage was fermented with additional nitrate-decomposing bacteria and the nitrate concentration was compared with the control treatment. The experimental results showed that the nitrate level of the 10 collected Võ T. X. Hương và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 62(5), 12-22 13 samples of fermented cabbage varied between 2.000 – 5.000mg/kg, exceeding the allowable level of the World Health Organization (WHO), during the three first days of the fermentation. The standard indicators were achieved after 4 and 5 days of the fermentation. In this study, we isolated at least 6 bacterial strains capable of reducing nitrate in a Giltay medium and selected two bacterial strains from others. The results of sequencing, identification and phylogenetic analysis based on NJ method showed that two strains of denitrifying bacteria are Bacillus aryabhattai. Keywords: Bacillus aryabhattai; Denitrifying bacteria; Fermented cabbage. 1. Đặt vấn đề Dưa cải muối chua là một loại rau lên men truyền thống ở Việt Nam từ cải bẹ dưa muối (Brassica juncea Coss), hệ vi sinh khuẩn acid lactic trong loại rau lên men này bị ảnh hưởng bởi các quá trình lên men khác nhau và điều kiện môi trường, (Chao và cộng sự, 2013). Đối với các loại rau cải thường sử dụng phân đạm urê để chăm bón, quá trình lên men sẽ khiến hàm lượng nitrat có trong rau bị khử thành nitrite. Quá trình lên men nitrat trong mô thực vật chuyển thành nitrite, nồng độ nitrite tăng theo thời gian, tăng cao trong vài ngày đầu và giảm dần khi dưa đã vàng và tăng cao trở lại khi dưa bị hư hỏng (Spoelstra, 1985; Park and Cheigh, 1992). Số lượng nhiều nitrat tiêu thụ gián tiếp qua thực phẩm có thể gây hại cho sức khỏe (Leszczynska và cộng sự, 2009; Chan, 2011). Trong hệ thống tiêu hóa, nitrat có thể chuyển đổi thành nitrit do đó phản ứng với các amin sản xuất các hợp chất N-nitroso như Nitrosamin có khả năng gây ung thư ở dạ dày (Yordanov và cộng sự, 2001; Santamaria, 2006). Nitrit còn là một trong những chất chuyển biến oxyhemoglobin thành chất không hoạt động được gọi là Methemoglobin làm giảm quá trình vận chuyển oxy trong máu (Greer and Shannon, 2005; Lê Thị Kim Tiến và Nguyễn Văn Ly, 2012). Đặc biệt, rau lên men nằm trong danh sách của tổ chức Y tế thế giới cảnh báo có chất gây ung thư (World Health Organization, 2012). Quá trình lên men lactic trong rau quả muối chua là kết quả hoạt động của một số vi khuẩn và một số nấm men, ví dụ như trong bắp cải hoạt động mạnh là Bacillus brassicae fermentati, Lactobacillus brevis, Leuconostoc mesenteroides, Luteimonas cucumeris và Lactobacillus pentoaceticus. Quá trình lên men lactic còn có thể gây ra bởi B. leichmani, B. beyerincki, B. ventricoccus và một số vi sinh vật khác. Các vi sinh vật lactic có hoạt động khác nhau nên cường độ lên men lactic của sản phẩm phụ thuộc vào hệ vi sinh vật có trong đó. Dạng của hệ vi sinh vật cũng ảnh hưởng tới tính chất đặc trưng của sản phẩm cuối cùng của quá trình phân hủy đường (Quách Đĩnh và cộng sự, 2008). Quy trình lên men làm dưa cải muối chua bán ra thị trường ở Việt Nam được thực hiện khác nhau tuỳ theo vùng, miền, và nếu sản phẩm bán trên thị trường được lên men không đúng quy trình sẽ gây nguy hiểm đến sức khoẻ của con người. Do đó, việc loại bỏ hoặc làm giảm nitrat trong thực phẩm trước khi đưa vào sử dụng là rất cần thiết. Nghiên cứu nhằm mục đích phân lập, tuyển chọn và định danh các dòng vi khuẩn phân giải được hàm lượng nitrat có trong dưa muối chua và ứng dụng chúng để lên men dưa muối chua tại chợ Thủ Đức, TP.HCM. 2. Vật liệu và Phương pháp 2.1. Vật liệu - Nguyên liệu: 10 mẫu dưa cải mới muối chua trong vòng 24h sử dụng trong nghiên cứu được thu mua ngẫu nhiên tại một số địa điểm ở chợ Thủ Đức. - Hóa chất: Chất chuẩn KNO3: sấy khan không lẫn nitrite, nước cất, Natri salixilat, H2SO4 đậm đặc, C4H4KNaO6.4H2O, NaOH. - Môi trường nuôi cấy và phân lập: Môi 14 Võ T. X. Hương và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 62(5), 12-22 trường Giltay; môi trường O/F (môi trường phát hiện khả năng oxy hóa hoặc lên men glucose); môi trường VP-MR (môi trường phát hiện các sản phẩm acid từ quá trình chuyển hóa glucose); môi trường urea (phát hiện enzyme urease); môi trường phenol red lactose broth (khả năng lên men lactose); môi trường nutrient agar (thử khả năng di động). - Phương pháp nhuộm Gram, khử nitrat, di động, Oxidase, hoạt tính catalase, lên men glucose, lên men lactose, sử dụng citrate, sinh indole, tan chảy gelatinenase. - Hóa chất ly trích DNA, thực hiện phản ứng và chạy điện di sản phẩm PCR. Dung dịch đệm TE Buffer (pH=8), CH3COONa 3M, cồn 99%, Ethanol 70%, nước cất khử ion. PCR buffer 0,5 X, Gotaq green Master Mix (Promerga, USA) MgCl2 2 mM, Mỗi dNTP 200µM, mồi xuôi 0,5µM, mồi ngược 0,5µM, Taq DNA polymerase 1 IU, Agarose 1%, TBE (Tris borate EDTA) (pH=8) 0,5 X, thuốc nhuộm Blue gel loading buffer 6x. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Thu thập mẫu Cách tiến hành: 10 mẫu dưa cải được mua về để trong hũ nhựa 1 lít đã được vô trùng. Mỗi mẫu dưa cải đem phân tích được lặp lại 3 lần và khảo sát hàm lượng nitrat liên tục trong 5 ngày sau khi ủ chua 1 ngày theo phương pháp so màu với natrisalicylate. 2.2.2. Khảo sát hàm lượng nitrat trong mẫu dưa cải muối chua bằng phương pháp so màu với Natri salicylate Hợp chất nitrat trong mẫu phản ứng với Natri salixylate trong môi trường axit cho một phức có màu vàng của muối axit nitrosalixylic. Sau đó đo độ hấp thụ quang ở bước sóng 410 nm. Phương pháp xác định theo TCVN 4562-88. 2.2.3. Phân lập, tuyển chọn và kiểm tra chủng vi khuẩn có khả năng chuyển hóa nitrat trong dưa cải muối chua Lấy 10 mẫu dưa cải đã được thu mua, pha loãng các mẫu nước dưa cải ở các nồng độ 102, 10-3, 10-4, 10-5 bằng nước cất vô trùng. Cho 15ml môi trường thạch đặc trưng Giltay đã tiệt trùng vào đĩa petri. Dùng micropipet hút 0,1ml mẫu nước dưa cải pha loãng 10-5 dàn đều trên mặt thạch bằng que gạt thủy tinh vô trùng. Sau đó ủ ở nhiệt độ 37oC trong vòng 24 giờ. Chọn lọc những khuẩn lạc tròn, có màu trắng sữa, đục, có khả năng mọc trên môi trường nuôi cấy, tiến hành cấy phân lập và làm thuần cũng trên môi trường Giltay (Nguyễn Hoài Hương, 2009). Các chủng sau khi được làm thuần và được hoạt hóa trên môi trường thạch nghiêng ủ ở nhiệt độ phòng trong thời gian 18-24 giờ. Sau đó, thực hiện nhuộm Gram và thử khả năng khử nitrat bộ test NO3. Lựa chọn 2 chủng vi khuẩn có khả năng chuyển hóa nitrat cao nhất. Các chủng vi khuẩn có khả năng chuyển hóa nitrat trên môi trường Giltay, được nuôi cấy trong môi trường dịch thể nitrat, lần lượt thực hiện các thử nghiệm sinh hóa: thử nghiệm di động, catalase, oxydase, thử nghiệm O/F, lên men lactose, len men glucose, thử nghiệm citrate, indole, VP, gelatine, thử nghiệm urea. Việc kiểm tra thêm các đặc tính sinh hóa khác sẽ giúp ích cho việc định danh các chủng phân lập được. Vi khuẩn sẽ được phân loại dựa theo khoá phân loại của Bergey, 1957. 2.2.4. Bổ sung vi khuẩn vào quy trình muối chua dưa cải và xác định hàm lượng nitrat trong mẫu dưa cải bằng phương pháp so màu với natrisalicylate Thí nghiệm được bố trí nhằm đánh giá khả năng khử nitrat trong dưa cải của các chủng phân lập được. Các nghiệm thức được bố trí trong hũ nhựa 1 lít, mỗi hũ chứa 500g dưa cải. Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức (NT): 3 nghiệm thức có bổ sung vi khuẩn chuyển hóa nitrat và một nghiệm thức đối chứng, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần. Thông qua quá trình khảo sát quy trình muối chua dưa cải ở quanh khu chợ Thủ Đức đồng thời tham khảo các tài liệu liên quan. Tiến hành muối chua dưa cải với thời gian thử nghiệm là 5 ngày. Nghiệm thức 1 (ĐC): muối dưa cải không Võ T. X. Hương và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 62(5), 12-22 15 bổ sung vi khuẩn. Nghiệm thức 2: bổ sung 1ml (106 - 107 cfu/ml) canh trường chủng M1. Nghiệm thức 3: bổ sung 1ml (106 - 107 cfu/ml) canh trường chủng M2. Nghiệm thức 4: bổ sung kết hợp 0,5 ml canh trường chủng M1 và 0,5ml canh trường chủng M2 có mật độ khoảng 106 - 107 cfu/ml. Cách tiến hành: Môi trường dịch thể nitrat (Trần Linh Thước, 2002) được chuẩn bị trong 2 bình tam giác 250ml với 100ml môi trường/bình và được hấp khử trùng ở 121oC trong 20 phút. Cấy chủng M1 và M2 từ ống thạch nghiêng vào môi trường đã chuẩn bị, mang đi lắc ở nhiệt độ 37oC với tốc độ lắc 100 vòng/phút trong 48 giờ. Canh trường vi khuẩn sau 48 giờ nuôi cấy thu dịch dùng để bổ sung vào các nghiệm thức đồng thời xác định mật độ vi khuẩn tại thời điểm sau 48h. - Phương pháp xác định hàm lượng nitrat sau khi muối chua dưa cải bằng phương pháp so màu với natrisalycilate theo TCVN 4562- 88, tiến hành khảo sát liên tục trong 5 ngày. - Phương pháp đánh giá các thông số môi trường thí nghiệm: tiến hành đo pH 1 lần/ngày vào lúc 8 giờ bằng máy đo pH. Mẫu dưa cải được đánh giá vào 2 thời điểm sau ngày lên men thứ nhất và thứ năm để xác định lượng acid tổng số bằng phương pháp chuẩn độ Therne. - Xác định mật độ tế bào vi khuẩn chuyển hóa nitrat ở ngày thứ nhất và thứ năm sau khi muối dưa. 2.3. Phương pháp phân tích 2.3.1. Xác định hàm lượng nitrat trong dưa cải muối chua Công thức xác định hàm lượng nitrate dựa vào phương trình đường chuẩn nitrate bằng phương pháp quang phổ UV-Vis. Hàm lượng nitrat trong 1 kg dưa cải được tính theo công thức như sau (mg/kg): Cx nồng độ NO3- tính theo đường chuẩn (mg/l); Vđm1 là thể tích định mức - 400ml; Vđm2 là thể tích định mức khi cho thuốc thử - 13ml; K độ pha loãng – 20; m khối lượng mẫu phân tích - 50g; n là thể tích hút mẫu để đo OD, 5ml. 2.3.2. Định danh vi khuẩn bằng kỹ thuật sinh học phân tử Tách chiết DNA vi khuẩn bằng phương pháp đun sôi: Mẫu vi khuẩn được nuôi cấy tăng sinh ở nhiệt độ 37oC trong 24 giờ. Sau đó hút 1ml tăng sinh vi khuẩn cho vào ống tube eppendorf 1,5ml ly tâm 8000 vòng/phút trong 3 phút, loại bỏ dịch nuôi cấy thu kết tủa. Sau đó thêm 300µl TE buffer, votex để trộn đều tế bào vi khuẩn. Cho vào nồi nước đang sôi ở 100oC trong vòng 15 phút. Sau đó sốc nhiệt ở - 20oC trong 5 phút và ly tâm 13000 vòng/phút trong 5 phút. Tiếp tục hút 200µl dung dịch nổi phía trên cho vào ống tube 1,5ml mới, cho thêm 20µl CH3COONa, 600µl Etanol 70% ủ trong tủ - 20oC trong 1 đến 2 giờ. Ly tâm 13000 vòng/phút, bỏ dịch nổi để khô trong 10 phút ở nhiệt độ phòng. Cuối cùng cho thêm 50µl TE buffer hoặc nước cất khử ion. Bảo quản mẫu DNA ở - 20oC. Phản ứng tiến hành với cặp mồi không chuyên biệt nhằm khuếch đại vùng gen 16SrRNA16S-rRNA-F(5′-AGAGTTTGATC CTGGCTCAG-3');16S-rRNA-R(5′-AAGG AGGTGATCCAGCCGCA-3′) (Rezaee và cộng sự, 2010). Thực hiện phản ứng PCR với tổng thể tích 25µl: 1,25µl primer-F; 1,25µl primer-R; 1µl mẫu DNA; 12,5µl GoTaq polymerase vào ống tube PCR. Bổ sung thêm 9µl nước cất khử ion. Tất cả đều được trộn đều trước khi thực hiện phản ứng PCR. Quy trình chạy phản ứng PCR theo chương trình luân nhiệt như sau: 95oC trong 4 phút, sau đó lặp lại 30 chu kỳ với các bước như sau: Biến tính 95oC trong 30 giây, bắt cặp mồi ở 53oC trong 30 giây, tổng hợp DNA ở 72oC trong 1 phút. Cuối cùng phản ứng duy trì ở 72oC trong 5 phút. Bảo quản ở 4oC. Sản phẩm PCR được điện di trên gel agarose 1%, trong dung dịch đệm TBE buffer 0,5 X ở 100V, 90 mA trong 20 phút. Trộn đều mẫu và loader với tỉ 16 Võ T. X. Hương và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 62(5), 12-22 lệ: 0,5µl loadingdye buffer 6X và 5µl sản phẩm PCR vào trong các giếng của gel và được chụp bằng máy đọc và chụp ảnh gel MultiDa-lt Digital Imaging System. Thang chuẩn 100 bp được mua từ công ty Fermentas. Sản phẩm PCR vùng 16S-rRNA được gửi giải trình tự tại công ty First Base, Malaysia. Trình tự của sản phẩm PCR được so sánh với trình tự 16S rRNA của các loài vi khuẩn Bacillus khác trên ngân hàng gen bao gồm: B.firmus (HQ397586.1); B. thuringiensi ... mẫu phân tích. Thông thường người tiêu dùng đều sử dụng dưa cải trong khoảng 48 hoặc 72 giờ lên men. Như vậy, khả năng người tiêu dùng bị ngộ độc hoặc mắc bệnh rất cao nếu ăn liên tục dưa cải Võ T. X. Hương và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 62(5), 12-22 17 trong thời gian đó, do đó khuyến cáo mọi người nên bắt đầu sử dụng dưa cải vào thời điểm sau 96 giờ hoặc 120 giờ lên men. Nhưng điều này lại không có khả thi vì dưa cải sau khi lên men 48 giờ đến 72 giờ đã đạt được độ chua, giòn, màu sắc đặc trưng của sản phẩm muối chua. Sau 96 giờ đến 120 giờ lên men mà hàm lượng nitrat nằm ở mức an toàn thì chất lượng cảm quan của sản phẩm lại không tốt, dưa quá chua hoặc không còn mùi thơm đặc trưng. Vì vậy, phân lập chủng vi khuẩn chuyển hóa nitrat để bổ sung vào dưa cải muối chua làm giảm hàm lượng nitrat trong dưa cải là một điều cần thiết. 3.2. Kết quả phân lập, tuyển chọn và kiểm tra chủng vi khuẩn có khả năng chuyển hóa nitrat trong dưa cải muối chua Từ 10 mẫu dưa cải thu thập được ở các địa điểm tại chợ Thủ Đức tiến hành phân lập và đếm các chủng vi khuẩn chuyển hóa nitrat trên môi trường Giltay với cơ chất KNO3 và ủ 24 giờ ở nhiệt độ phòng. Dựa vào đặc điểm khuẩn lạc đã phân lập được 6 chủng vi khuẩn khử nitrat trên môi trường Giltay từ 10 mẫu dưa cải. Các chủng phân lập được ký hiệu thứ tự M1, M2, M3, M4, M5, M6. Đặc điểm các khuẩn lạc phân lập trên môi trường Giltay. Bảng 1 Đặc tính các khuẩn lạc phân lập trên môi trường Giltay Chủng phân lập Đặc điểm khuẩn lạc M1 Màu trắng đục, tròn, rìa răng cưa không đều, có tâm M2 Màu trắng sữa, tròn, bề mặt lồi, bóng, ướt M3 Màu trắng đục, tròn nhỏ, lồi M4 Màu trắng sữa, nhỏ, lồi M5 Màu trắng đục, tròn dẹp, có vòng đậm màu trên bề mặt, khô M6 Màu trắng sữa, lồi, rìa khuẩn lạc không đều Hầu hết các khuẩn lạc phân lập trên môi trường Giltay đều có màu trắng sữa hoặc trắng đục, tròn lồi hoặc dẹp, thể hiện sự phong phú của các chủng vi khuẩn chuyển hóa nitrat (Nguyễn Thị Tuyền và cộng sự, 2009). Bảng 2 Đặc điểm nhuộm Gram của các mẫu được phân lập Chủng Gram Hình thái Kích thước M1 + Que 1,5 – 2 M2 + Que 1 – 1,5 M3 - Que 1 – 1,5 M4 + Que 1 – 1,5 M5 - Cầu 0,5 – 1 M6 - Que 0,5 – 1 18 Võ T. X. Hương và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 62(5), 12-22 Kết quả nhuộm Gram 6 chủng vi khuẩn khử nitrat trên môi trường Giltay cho thấy các chủng vi khuẩn M3, M6 có đặc điểm là trực khuẩn Gram (-), ba chủng M1, M2 và M4 là trực khuẩn Gram (+) và M5 là cầu khuẩn Gram (-). b (a) (b) (c) Hình 2. Kết quả nhuộm Gram. (a) trực khuẩn Gram +; (b) cầu khuẩn Gram -; (c) trực khuẩn Gram – (độ phóng đại 100x) Nhằm tìm ra chủng có khả năng khử nitrat cao nhất để bổ sung vào dưa cải, tiến hành sàng lọc bằng phản ứng khử nitrat với bộ test NO3. Sau khi nuôi cấy trên môi trường dịch thể nitrat trong 24 giờ, thử khả năng khử nitrat của 6 chủng bằng bộ test NO3 Sera dựa trên nguyên tắc so màu. Khi cho thuốc thử vào canh khuẩn nhận thấy hai chủng M1 và M2 có màu nhạt nhất trong 6 chủng, điều này chứng tỏ khả năng khử nitrat 2 chủng này cao hơn so với các chủng còn lại. Hai chủng M1 và M2 được chọn để tiếp tục thực hiện các thử nghiệm sinh hóa. Kết quả được thể hiện trong Bảng 3 như sau: Bảng 3 Một số phản ứng sinh hóa dùng để định danh chủng M1 và M2 Thử nghiệm Kết quả M1 M2 Gram, hình thái dương, hình que dương, hình que Khử nitrate + + Di động + + Oxidase + - Hoạt tính catalase + + Urease + + O/F + + Lên men glucose + + Lên men lactose - - Sử dụng citrate + + Sinh indole - - MR + + VP + - Tan chảy Gelatinenase + + Chú thích: + (dương tính); - (âm tính) Võ T. X. Hương và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 62(5), 12-22 19 Theo Franklin và David (2004) thì nhóm vi khuẩn khử nitrat thường là các vi khuẩn khử: Bacillus, Pseudomonas, Methanomonas, Paracoccus, Spirillum, và Thiobacillus, Achromobacterium, Denitrobacillus, Micrococcus, Xanthomonas đều có khả năng khử nitrat và phản ứng catalase (+). Chủng M1, M2 dương tính với hai phản ứng này, do đó dựa vào đặc điểm hình thái khuẩn lạc có màu trắng đục, tròn, rìa răng cưa không đều, là trực khuẩn Gram (+) thì chủng M1, M2 có thể là Bacillus spp. Dựa theo phương pháp nhận diện các chủng vi sinh vật thì chủng M1, M2 có kết quả sinh hóa: Gram (+), trực khuẩn, khả năng di động (+), Catalase (+), thử nghiệm O/F (+/-), lên men lactose (-) điều này đúng với nghiên cứu của Ray và cộng sự, (2012), Dunca và cộng sự, (2005). 3.3. Bổ sung vi khuẩn vào quy trình muối chua dưa cải và xác định hàm lượng nitrat trong mẫu dưa cải bằng phương pháp so màu với natrisalicylate Các mẫu dưa cải từ các nghiệm thức sau khi được ly trích tiến hành xác định hàm lượng nitrat bằng phương pháp so màu với Natri salicylate. Kết quả được thể hiện ở Bảng 4: Bảng 4 Hàm lượng nitrat trong thời gian lên men Nghiệm Nồng độ nitrat (mg/kg) thức Đối chứng Bổ sung M1 Bổ sung M2 Bổ sung M1, M2 24 giờ 2402,70a 2071,00ab 2312,30a 1850,2b 48 giờ 1641,60a 1382,30b 1254,10b 717,40c 72 giờ 818,38a 554,90b 684,13ab 512,85b 96 giờ 554,92a 442,40b 406,47b 280,90c 120 giờ 267,850a 249,41a 221,03b 227,25b Số liệu trong bảng là giá trị trung bình của 3 lần lặp. Trong cùng một hàng, các giá trị trung bình có ký tự theo sau khác nhau có sự khác biệt ý nghĩa về mặt thống kê (P < 0,05) Kết quả thí nghiệm khảo sát hàm lượng nitrat trong dưa cải được trình bày trong Bảng 4, có ba nghiệm thức có bổ sung vi khuẩn sau 24 giờ lên men vẫn ở nồng độ cao trên 1500 mg/kg, bắt đầu giảm mạnh sau 48 và 72giờ lên men, tiếp tục giảm từ từ vào những thời điểm lên men sau 96 và 120 giờ tiếp theo. Khi chuyển vi khuẩn chuyển hóa nitrate từ môi trường dịch thể nitrate vào quy trình muối chua mới theo truyền thống thì vi khuẩn sẽ phát triển chậm để thích nghi trong khoảng thời gian ngắn (pha lag). Cùng thời gian ấy, vi khuẩn lactic hoạt động mạnh tạo acid lactic cho quá trình lên men đã làm giảm pH, điều này làm giảm mức độ khử nitrat của hai chủng bổ sung vào. Điều này đúng với nghiên cứu của Cavigelli và Robertson (2000), Stensel and Horne (2000). Hàm lượng nitrat của các nghiệm thức bổ sung M1, bổ sung M2, bổ sung kết hợp M1 và M2 giảm nhanh và đạt ngưỡng cho phép ngay tại thời điểm dưa bắt đầu sử dụng được tức sau 48 giờ lên men thì ở mẫu đối chứng hàm lượng nitrat có giảm nhưng vẫn ở mức cao so với ngưỡng cho phép. Điều này chứng tỏ các mẫu có bổ sung vi khuẩn cho kết quả tốt hơn những mẫu không bổ sung vi khuẩn. Đồng thời ở thời điểm này, dưa đã đạt chất lượng cảm quan, có màu vàng, chua dịu và hương thơm đặc trưng lại phù hợp với thời gian các tiểu thương đem bán ra thị trường. Ba nghiệm thức có bổ sung vi khuẩn: M1; M2; M1 và M2 cũng có sự khác biệt về hàm lượng nitrat theo thời gian 24 giờ, 48 giờ, 72 giờ, 96 giờ và 120 giờ. 20 Võ T. X. Hương và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 62(5), 12-22 Nghiệm thức kết hợp cả hai chủng M1, M2 cho hiệu quả cao nhất so với các nghiệm thức bổ sung riêng lẻ từng chủng M1 và M2. Vì vậy, chọn nghiệm thức này để áp dụng cho quy trình muối chua dưa cải có bổ sung vi khuẩn khử nitrat. 3.4. Kết quả định danh bằng kỹ thuật sinh học phân tử Quy trình tách chiết DNA tổng số của vi khuẩn mẫu M1, M2 từ dưa cải muối chua được ly trích bằng phương pháp đun sôi (Costa và ctv., 2010), cho kết quả tách chiết ổn định, lượng DNA tinh sạch với tỉ lệ 260/280 = 1,9 (tỉ lệ 260/280 = 1,8 – 2 là thích hợp). Sau đó, tiến hành thực hiện phản ứng PCR và điện di sản phẩm PCR mẫu DNA của M1, M2. Kết quả cho thấy rằng có sự hiện diện gen 16S rRNA của các chủng vi khuẩn chuyển hóa nitrate lần lượt là M1, M2. Chủng vi khuẩn chuyển hóa nitrat M1 được định danh bằng phương pháp giải trình tự cho tiểu phần ribosome 16S. Trình tự được tra cứu trên ngân hàng gen của NCBI thông qua chương trình BLAST và dựa vào sự tương đồng trong trình tự của đoạn gen để định danh đến loài. Kết quả cho thấy, trình tự DNA 16S của chủng M1 khi đối chiếu với trình tự gen của chủng Bacillus aryabhattai IHB B 7238 16S ribosomal RNA ở ngân hàng gen có độ tương đồng đạt đến 99%. Vì vậy, chủng M1 tương đồng với loài Bacillus aryabhattai. Tương tự như vậy, trình tự DNA 16S của chủng M2 khi đối chiếu với trình tự gen của chủng Bacillus megaterium Jz11 16S ribosomal RNA ở ngân hàng gen có độ tương đồng đạt đến 100%. Vì vậy, chủng M2 tương đồng với loài Bacillus megaterium. Bên cạnh đó, kết quả phân tích phả hệ phân tử trên cây phát sinh loài Neighbor-joining với giá trị bootstrap 1000 lần cho thấy M1 và M2 thuộc giống Bacillus, loài Bacillus aryabhattai (Hình 3). Chủng vi khuẩn Bacillus megaterium, Bacillus aryabhattai được ứng dụng rộng rãi trong công nghệ sinh học, thực phẩm, dược phẩm và các ngành công nghiệp khác như: Bacillus megaterium một loại vi khuẩn sản xuất các enzyme thủy phân amylase, protease, chitanase, phytase v.v... (Alippi và Reynaldi, 2006; Padgham và Sikora, 2007; Vary và cộng sự, 2007). Trong công nghệ sinh học, Bacillus megaterium dùng làm phân bón vi sinh. Bacillus aryabhattai tổng hợp peptide, quản lý chất thải từ các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm khác nhau (Sharma và cộng sự, 2014). subtilis(KP699121.1) tequilensis(HF562894.1) Pseudomonas putida(EU833948.1) vallismortis(KT216619.1) amyloliquefaciens(KR010178.1) methylotrophicus(KT216570.1) licheniformis(KT274776.1) sonorensis(KP296232.1) cereus(KR709243.1) pumilus(KT273321.1) safensis(KP940383.1) drentensis(KM041133.1) infantis(KT719573.1) firmus(HQ397586.1) thuringiensis(KJ000207.1) megaterium(KF419123.1) aryabhattai(KP706808.1) Mu M1 Mu M277 44 100 61 79 100 46 100 98 100 99 98 87 69 66 88 Hình 3. Cây thư mục di truyền phát sinh loài dựa trên trình tự 16S rRNA được xây dựng bằng phần mềm MEGA 6.06, theo phương pháp Neighbor-joining với độ lặp lại là 1000 lần. Võ T. X. Hương và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 62(5), 12-22 21 4. Kết luận Kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy các mẫu dưa cải được thu thập có hàm lượng nitrat không đạt tiêu chuẩn theo quy định của Tổ chức Y tế thế giới. Bên cạnh đó chúng tôi đã phân lập được 6 chủng vi khuẩn chuyển hóa nitrat và tuyển chọn được 2 chủng M1 và M2 có khả năng xử lý nitrat cao nhất trên môi trường Giltay. Kết quả khảo sát hàm lượng nitrat trong dưa cải ở các mẫu bổ sung vi khuẩn M1, M2 cho thấy hàm lượng nitrat thấp hơn so với những mẫu không bổ sung vi khuẩn. Ngoài ra, kết quả định danh bằng kỹ thuật sinh học phân tử bằng bộ kit Promega với 2 chủng M1 và M2 có kích thước tương ứng là 1153 bp 509bp, kết hợp phân tích kết quả truy vấn tự động trên NCBI (Blast) và phân tích phả hệ phân tử trên cây phát sinh loài Neighbor-joining định danh hai sản phẩm M1 và M2 là Bacillus aryabhattai. Do đó, việc mở rộng nghiên cứu ra nhiều khu vực hoặc các tỉnh khác để làm phong phú nguồn vi khuẩn chuyển hóa nitrat phục vụ cho quá trình nghiên cứu và ứng dụng trong lĩnh vực công nghiệp thực phẩm là cần thiết Tài liệu tham khảo Chan T. Y. K., (2011). Vegetable-borne nitrate and nitrite and the risk of methaemoglobinaemia. Toxicology Letters, 200(1-2), 107-108. Chao Shiou-Huei, Ruei-Jie Wu., Koichi Watanabe, & Ying-Chieh Tsai (2013). Diversity of lactic acid bacteria insuan-tsaiandfu-tsai, traditional fermented mustard of Taiwan. International Journal of Food Microbiology, 135, 203–210. Costa K., Navarro J., Shock E.L., Zhang C., Soukup D., & Hedlund B. (2009). Microbiology and geochemistry of great boiling and mud hot springs in the United States Great Basin. Extremophiles, 13, 447- Greer F. R., & Shannon M. D., (2005). American Academy of Pediatrics Committee on Nutrition & American Academy of Pediatrics Committee on Environmental Health. Infant methemoglobinemia: the role of dietary nitrate in food and water. Pediatrics, 116(3), 784-786. Huỳnh Văn Tiền, Cao Ngọc Điệp, Trương Trọng Ngôn (2015). Tối ưu hóa khả năng tổng hợp chất kết tụ sinh học của chủng vi khuẩn Bacillus aryabhattai KG12S và thử nghiệm xử lý nước thải sau Biogas từ trại chăn nuôi heo. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Phần B: Nông Nghiệp, Thủy sản và Công nghệ sinh học, 37(1), 32-41. Lê Thị Kim Tiến và Nguyễn Văn Ly (2012). Phân tích và đánh giá hàm lượng nitrat, nitrit trong một số thực phẩm chế biến lưu hành ở thành phố Huế. Tạp chí khoa học Đại học Huế, tập 74B, 5, 185-191. Leszczynska T., Filipiak-Florkiewicz A., Ciéslik E., & Sikora E., (2009). Effects of some processing methods on nitrate and nitrite changes in cruciferous vegetables. Journal of Food Composition and Analysis, 22(4), 315-321. Nguyễn Hoài Hương (2009). Giáo trình thực hành vi sinh ứng dụng. Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP. Hồ Chí Minh. 22 Võ T. X. Hương và cộng sự. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 62(5), 12-22 Park K. Y., & Cheigh H. S. (1992). Kimchi and nitrosamines. Korean Journal of Food Nutrition, 21, 109-116. Phạm Thị Tuyết Ngân, (2011). Ứng dụng các dòng Bacillus sp. có ích trong nuôi trồng thủy sản. Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. <URL: NewsDetail.aspx?newsId=1097>. Rezaee A., Godini H., Dehestani S.,& Kaviani S. (2010). Isolation And Characterization Of A Novel Denitrifying Bacterium With High Nitrate Removal: Pseudomonas Stutzeri. Iran. J. Environ. Health. Sci. Eng., 7(4), 313-318. Santamaria P. (2006). Nitrate in vegetables: toxicity, content, intake and EC regulation (review). Journal of the Science of Food and Agriculture, 86(1), 10-17. Semanti Ray, & Al. (2012). Bioscience discovery, 3(1), 138-145. Spoelstra S. F. (1985). Nitrate in silage. Grass and Forage Science, 40(1), 1-11. Tamura K., & S. Kumar (2002). Evolutionary distance extimationunder heterogenous substitution patterns among lineages. Molecular Biology and Environment, 19, 1727-1736. Trần Linh Thước (2002). Phương pháp phân tích vi sinh vật trong nước, thực phẩm và mỹ phẩm. Nhà xuất bản giáo dục, TP.HCM, 232 trang. World Health Organization (WHO) (2012). Agents classified by the International Agency for Research on Cancer (IARC) Monographs, list of Classifications by cancer sites with sufficient or limited evidence in humans, Vols 1. Yordanov N. D., Novakova E., & Lubenova S. (2001). Consecutive estimation of nitrate and nitrite ions in vegetables and fruits by electron paramagnetic resonance spectrometry. Analytica Chimica Acta, 437(1), 131-138.
File đính kèm:
- phan_lap_va_nhan_dien_vi_khuan_phan_giai_nitrat_trong_dua_ca.pdf