Nhận thức về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa dân chủ trong đảng và dân chủ ngoài xã hội trong xây dựng nền dân chủ và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

TÓM TẮT

Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam, thực hiện dân chủ, tôn trọng và bảo đảm trên thực tế quyền dân chủ và làm chủ của

nhân dân là vấn đề có ý nghĩa sống còn không chỉ đối với Nhà nước mà chúng ta đang xây dựng để

trở thành Nhà nước pháp quyền, đối với việc tăng cường uy tín và mở rộng ảnh hưởng của Đảng

Cộng Sản cầm quyền trong xã hội mà còn là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới

và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết tập trung phân tích tầm quan trọng, ý nghĩa và sự

thúc đẩy lẫn nhau của mối quan hệ giữa dân chủ trong Đảng và dân chủ ngoài xã hội trong xây dựng

nền dân chủ và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

pdf 7 trang phuongnguyen 12780
Bạn đang xem tài liệu "Nhận thức về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa dân chủ trong đảng và dân chủ ngoài xã hội trong xây dựng nền dân chủ và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận thức về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa dân chủ trong đảng và dân chủ ngoài xã hội trong xây dựng nền dân chủ và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Nhận thức về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa dân chủ trong đảng và dân chủ ngoài xã hội trong xây dựng nền dân chủ và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
114
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
NHẬN THỨC VỀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA MỐI QUAN HỆ 
GIỮA DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG VÀ DÂN CHỦ NGOÀI XÃ HỘI 
TRONG XÂY DỰNG NỀN DÂN CHỦ VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP 
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
 Nguyễn Khánh Vân*
TÓM TẮT
Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam, thực hiện dân chủ, tôn trọng và bảo đảm trên thực tế quyền dân chủ và làm chủ của 
nhân dân là vấn đề có ý nghĩa sống còn không chỉ đối với Nhà nước mà chúng ta đang xây dựng để 
trở thành Nhà nước pháp quyền, đối với việc tĕng cường uy tín và mở rộng ảnh hưởng của Đảng 
Cộng Sản cầm quyền trong xã hội mà còn là nhân tố quyết định sự thành công của sự nghiệp đổi mới 
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết tập trung phân tích tầm quan trọng, ý nghĩa và sự 
thúc đẩy lẫn nhau của mối quan hệ giữa dân chủ trong Đảng và dân chủ ngoài xã hội trong xây dựng 
nền dân chủ và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Từ khóa: Dân chủ, Nhà nước pháp quyền, Việt Nam
AWARE OF THE IMPORTANCE OF THE RELATIONSHIP BETWEEN 
DEMOCRACY IN THE PARTY AND DEMOCRACY OUT OF THE SOCIAL IN 
BUILDING DEMOCRACY AND SOCIALIST LEGAL STATE IN VIETNAM
ABSTRACT
In terms of a single party ruling and building the Socialist State of Vietnam, the implementation 
of democracy, respect and assurance of the real democratic and mastery of the people are the 
essential matters not only for the government which we are building to become the State of Law, for 
strengthening prestige and expanding the influence of the ruling Communist Party in society; but also 
a factor determining the success of the innovation and socialist construction in Vietnam. The article 
focuses on analyzing importance, the meaning and the mutual impetus of the relationship between 
democracy in the Party and democracy outside the society in building democracy and the socialist 
rule-of-law state in Vietnam.
Keywords: democracy, State of Law, rule-of-law state, Vietnam
* TS. GV. Đại học kinh tế, TP.Hồ Chí Minh. Email: khanhvan@ueh.edu.vn
 Điện thoại : 0918.328.589
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Một đặc điểm quan trọng và nổi bật của hệ 
thống chính trị nước ta trong thời kỳ Đổi mới là 
chế độ chính trị nhất nguyên và một đảng duy 
nhất cầm quyền, không đa nguyên, đa đảng, 
càng không có đảng đối lập. Đặc điểm này 
chẳng những thể hiện tính đặc thù của nền chính 
trị nước ta so với chính thể tư sản ở nhiều nước 
trên thế giới mà còn tác động trực tiếp tới việc 
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới 
115
Chính sách phát triển nền “Kinh tế số”...
hệ thống chính trị ở nước ta, nhất là trong điều 
kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường, mở 
cửa và hội nhập quốc tế.
Công cuộc đổi mới ở nước ta đã trải qua một 
tiến trình hơn 30 nĕm. Dân chủ chẳng những là 
mục tiêu mà còn là động lực của đổi mới. Trong 
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 
Đổi mới mà Đảng và nhân dân ta đạt được có 
thành tựu về dân chủ, về thực hiện dân chủ và 
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đại hội XI của Đảng (1/2011) đã nhấn mạnh 
đặc biệt tới dân chủ, coi dân chủ là giá trị hàng 
đầu trong hệ mục tiêu của đổi mới, “dân giàu, 
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, vĕn 
minh”. Hệ mục tiêu này được Đảng ta khẳng 
định là đặc trưng tổng quát của xã hội - xã hội 
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng dưới sự lãnh 
đạo của Đảng.
Đại hội XI còn đạt được một bước tiến mới 
trong nhận thức lý luận về dân chủ khi khẳng 
định rằng, dân chủ phải được thể chế hóa, gắn 
liền dân chủ với pháp luật, với kỷ luật, kỷ cương, 
xã hội. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân 
dân, vì nhân dân là nhằm thực hiện dân chủ, đảm 
bảo tôn trọng và phát huy quyền làm chủ thực 
chất của nhân dân. Thực hiện dân chủ bằng sức 
mạnh của nhà nước pháp quyền cũng là để thực 
hiện những quyền cơ bản của con người (nhân 
quyền) và của công dân (dân quyền), trong đó 
bao gồm cả quyền kinh tế, quyền dân sự, quyền 
chính trị - xã hội. Đó là quyền lao động, quyền 
được có việc làm, quyền được học tập. Những 
quyền ấy là thể hiện quyền được sống, quyền tự 
do, quyền phát triển, được mưu cầu hạnh phúc 
trong một xã hội dân chủ và con người làm chủ 
như Hồ Chí Minh đã từng nói.
Dân chủ không chỉ là ý thức mà còn là nĕng 
lực; ý thức về quyền và địa vị làm chủ, về nghĩa 
vụ, trách nhiệm của người chủ xã hội và nhất là 
nĕng lực thực hành dân chủ của mỗi người. Vì 
thế, qua thực tiễn vận động dân chủ hóa trong 
30 nĕm đổi mới, Đảng ta đã đề ra chủ trương và 
quyết sách xây dựng xã hội dân chủ, ra sức đổi 
mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ 
thống chính trị các cấp, từ trung ương tới cơ sở, 
nhất là ra sức xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng 
cao hiệu lực quản lý Nhà nước đồng thời đổi 
mới phương thức hoạt động của Mặt trận, của 
các đoàn thể quần chúng đó là những đảm bảo 
chính trị, pháp lý và xã hội để thực hiện dân chủ 
thực chất, phát huy vai trò làm chủ thực chất của 
người dân, khắc phục triệt để dân chủ hình thức 
và tình trạng vi phạm quyền dân chủ, làm chủ 
của người dân, nhất là ở cơ sở. Đây là bước tiến 
trong nhận thức lý luận dân chủ và cũng là bước 
tiến trong thực tiễn thực hành dân chủ ở nước ta. 
Trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa 
và thực hành dân chủ, chúng ta phải thường 
xuyên giải quyết mối quan hệ giữa dân chủ 
trong Đảng và dân chủ ngoài xã hội sao cho đạt 
được những yêu cầu cơ bản sau đây:
Thứ nhất, làm cho dân chủ trong Đảng góp 
phần nâng cao nĕng lực lãnh đạo và sức chiến 
đấu của Đảng, phát huy vai trò tiên phong, 
gương mẫu của cán bộ đảng viên và của các 
tổ chức Đảng trong việc xây dựng Đảng trong 
sạch, vững mạnh, thúc đẩy dân chủ trong xã hội 
phát triển. 
Thứ hai, làm cho dân chủ trong Đảng và dân 
chủ ngoài xã hội phát triển sâu rộng, lành mạnh, 
tạo ra môi trường xã hội, dư luận xã hội và áp 
lực xã hội đủ mạnh để chống quan liêu, tham 
nhũng, đề cao tính công khai, minh bạch, tĕng 
cường trách nhiệm giải trình của cá nhân và tổ 
chức được dân chủ ủy quyền để thực hiện quyền 
lực của dân, vì mục đích phục vụ dân và bảo vệ 
dân, không biến dân chủ thành “quan chủ” như 
Hồ Chí Minh đã nói.
Thứ ba, thực hiện dân chủ trong Đảng và dân 
chủ ngoài xã hội tác động và thúc đẩy lẫn nhau, 
cùng hướng tới xây dựng nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa, củng cố vững chắc mối quan hệ mật thiết 
giữa Đảng với dân, giữa dân với Đảng. Đây là 
116
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đảm bảo quan trọng nhất để Đảng giữ vững vai 
trò lãnh đạo và cầm quyền, để chế độ bền vững, 
nhân dân thực sự là chủ và làm chủ, Nhà nước 
thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Như vậy, thực hiện dân chủ trong Đảng và 
dân chủ ngoài xã hội đều vì mục tiêu dân chủ. 
Đảng và dân cùng thực hành dân chủ sẽ tạo ra 
động lực cho sự phát triển xã hội, nói như Hồ 
Chí Minh, “thực hành dân chủ rộng rãi sẽ là 
chiếc chìa khóa vạn nĕng để giải quyết mọi khó 
khĕn”. Trách nhiệm của Đảng, tính tiền phong 
gương mẫu của cán bộ đảng viên cùng với tính 
chủ động tích cực của quần chúng trong việc 
thực hiện dân chủ, từ dân chủ trong Đảng đến 
dân chủ ngoài xã hội sẽ làm cho dân chủ phát 
triển, đoàn kết trong Đảng trong dân và đồng 
thuận xã hội được tĕng cường. Đây là sức mạnh 
chính trị và tinh thần đảm bảo cho kinh tế và 
vĕn hóa phát triển, đưa sự nghiệp đổi mới tới 
thắng lợi, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ 
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa tới thành công.
2. DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG THÚC ĐẨY 
DÂN CHỦ NGOÀI XÃ HỘI
Đảng lãnh đạo và cầm quyền đối với Nhà 
nước và xã hội nên vai trò của Đảng rất lớn và 
trách nhiệm của Đảng rất nặng nề. Một Đảng 
duy nhất lãnh đạo và cầm quyền như Đảng ta 
thì vai trò của Đảng càng lớn và trách nhiệm của 
Đảng càng nặng nề hơn. Đó là vai trò dẫn dắt cả 
dân tộc và xã hội tiến hành đổi mới, thực hiện lý 
tưởng và mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa 
xã hội, cụ thể và trực tiếp hơn là thực hiện mục 
tiêu của đổi mới với “Mười chữ vàng” tiêu biểu: 
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, vĕn 
minh”.
Muốn thực hiện được vai trò to lớn và trách 
nhiệm nặng nề đó, Đảng phải trong sạch vững 
mạnh và có trí tuệ khoa học sáng suốt, có bản 
lĩnh chính trị vững vàng. Đó là điều kiện cần 
chứ chưa đủ. Đảng phải luôn ngang tầm với 
nhiệm vụ và thường xuyên liên hệ mật thiết với 
nhân dân, gần dân để vì dân. Đảng tồn tại chỉ vì 
dân, đấu tranh vì lợi quyền của dân, làm cho Tổ 
quốc được độc lập, dân tộc được tự do và nhân 
dân được hưởng hạnh phúc. Ba giá trị cốt lỗi 
đó, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là khát vọng 
thiêng liêng cả cuộc đời của Hồ Chí Minh, của 
cả dân tộc, của mỗi người dân. Đảng có trọng 
trách lãnh đạo toàn dân thực hiện.
Điều đó đòi hỏi Đảng phải ra sức thực hiện 
và phát huy dân chủ trong Đảng và thúc đẩy dân 
chủ ngoài xã hội phát triển để tạo ra sức mạnh, 
tập hợp lực lượng, gây dựng phong trào sâu rộng 
trong xã hội. Dân chủ trong Đảng phải thấm sâu 
vào từng tổ chức Đảng ở cơ sở, từng cán bộ 
đảng viên, trong các quan hệ giữa tổ chức với tổ 
chức, giữa con người với con người trong toàn 
Đảng. Có phát huy cao độ dân chủ thì mới phát 
huy được nhiệt tình, sáng kiến, lòng hĕng hái và 
ý thức trách nhiệm của mỗi người, nhờ đó, các 
cơ quan lãnh đạo của Đảng, các cấp ủy mới tập 
hợp được đầy đủ thông tin, phân tích và đánh giá 
đúng tình hình, để ra phương hướng và giải pháp 
sát thực tế, đem lại kết quả, hiệu quả thiết thực, 
hợp với lòng dân. Dân chủ trong Đảng phải làm 
cho mọi Đảng viên có ý thức, có nhu cầu và có 
trách nhiệm đối với mọi công việc của Đảng, bắt 
đầu từ các chi bộ ở cơ sở, góp sức làm nên sức 
mạnh của toàn Đảng.
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ 
Chí Minh đặc biệt quan tâm đến dân chủ trong 
Đảng từ việc thảo luận, tranh luận trong sinh 
hoạt Đảng. Mọi đảng viên phải được quyền và 
thực hiện đúng quyền của mình, nói thẳng, nói 
thật, nói hết ý kiến của mình về những vấn đề 
mà tổ chức Đảng nêu ra, kể cả đóng góp ý kiến, 
đề xuất sáng kiến, kiến nghị vào các chủ trương, 
đường lối, Nghị quyết của Trung ương. Có tôn 
trọng thảo luận dân chủ thì mới có cơ sở cho 
những quyết định của tập trung được đúng đắn, 
không quan liêu, không phạm khuyết điểm sai 
lầm. Do đó, thực hiện dân chủ trong Đảng luôn 
luôn phải chú ý tới mối quan hệ giữa đảng viên 
với cấp ủy, giữa cá nhân với tập thể, giữa quyền 
tự do cá nhân với những quy định của tổ chức, 
117
Chính sách phát triển nền “Kinh tế số”...
của kỷ luật theo điều lệ Đảng. Đó chính là quan 
hệ giữa dân chủ với tập trung, giữa tập thể lãnh 
đạo với cá nhân phụ trách. Các nhà kinh điển, 
từ Mác – Ĕng ghen đến Lênin đều nhấn mạnh 
tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh 
nhiều hơn vào dân chủ tập trung. Tuy cả hai cách 
diễn đạt đó, tập trung dân chủ và dân chủ tập 
trung đều giống nhau về bản chất nhưng cũng 
có những điểm khác nhau về sắc thái và mức độ. 
Điều quan trọng là ở chỗ, phải xử lý đúng đắn 
mối quan hệ giữa dân chủ với tập trung, giữa tập 
trung với dân chủ. Theo đúng nghĩa lành mạnh 
của nó, dân chủ là cơ sở xuất phát, là mục đích 
còn tập trung là phương thức, phương tiện, điều 
kiện thực hiện nguyên tắc này. Đây là nguyên 
tắc tổ chức, là nguyên tắc chính trị cốt tử của 
Đảng. Nhờ đó, Đảng mới là một tổ chức cách 
mạng, một Đảng chiến đấu, Đảng hành động, 
muôn người như một người. Phá vỡ, từ bỏ tập 
trung dân chủ như sai lầm của Goóc Ba Chốp và 
Đảng Cộng Sản Liên Xô thời cải tổ đã dẫn đến 
tình trạng nguy hiểm làm rối loạn tổ chức, biến 
Đảng thành một câu lạc bộ bàn suông, không 
hành động, kết cuộc là tan vỡ Đảng và cải tổ 
thất bại.
Rút kinh nghiệm bài học phải trả giá đau đớn 
đó, trong Đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, 
Đảng ta luôn chú trọng phát huy dân chủ một 
cách có tổ chức, có lãnh đạo. Dân chủ và tập 
trung phải đảm bảo tĕng cường sự thống nhất 
về quan điểm, tư tưởng, ý chí, hành động trong 
toàn Đảng. Về lý luận, không tách rời, đối lập 
dân chủ với tập trung, cũng không tuyệt đối hóa 
tập trung mà xem nhẹ hay phủ nhận dân chủ. 
Cần tránh hai khuynh hướng sai lầm rất dễ xảy 
ra làm biến dạng tập trung dân chủ, đó là tập 
trung quan liêu và tự do vô chính phủ. Dân chủ 
cần có tập trung nghĩa là dân chủ có lãnh đạo, 
có định hướng, có sự cần thiết của cơ quan lãnh 
đạo và người lãnh đạo.
Tập trung phải trên cơ sở của dân chủ, vì dân 
chủ nghĩa là mỗi quyết định của lãnh đạo phải 
thể hiện sự tôn trọng ý chí chung của tập thể, 
phải phản ánh đúng nguyện vọng chính đáng 
của tập thể đảng viên và quần chúng, không độc 
đoán chuyên quyền. Trong tập thể lãnh đạo phải 
thi hành đúng nguyên tắc, phải theo đúng thẩm 
quyền và trách nhiệm, cũng không lợi dụng chức 
quyền mà lộng quyền và lạm quyền.
Theo Lênin, thảo luận thì chung còn trách 
nhiệm thì riêng, riêng tới từng người một. 
 Hồ Chí Minh nêu rõ, thảo luận tập thể, lãnh 
đạo tập thể là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập 
trung. Kết hợp tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ 
trách là dân chủ tập trung.
Muốn cho dân chủ cũng như tập trung trở nên 
đúng đắn, không bị biến dạng, cần rất nhiều điều 
kiện. Những điều kiện chủ yếu là:
- Mỗi cán bộ đảng viên phải nâng cao học 
vấn, học thức để có hiểu biết đúng - sai, bản 
chất - hiện tượng, chân lý và sai lầm đồng thời 
phải trau dồi vĕn hóa, nhất là vĕn hóa đạo đức, 
vĕn hóa chính trị và vĕn hóa pháp luật. Biết lắng 
nghe, không áp đặt người khác, biết tôn trọng ý 
kiến của người khác, bình đẳng trong thảo luận, 
tranh luận. Đó là trọng sự thật, chân lý và đạo lý 
- những chuẩn mực của vĕn hóa dân chủ. 
- Thống nhất về nguyên tắc, xuất phát từ 
động cơ, mục đích chính đáng, vì lợi ích chung 
của cách mạng, của Đảng, của nhân dân. Không 
làm bất cứ điều gì phương hại tới sự nghiệp cách 
mạng. Đó là sự trong sáng, vô tư, khách quan 
mà Hồ Chí Minh gọi là phải quang minh chính 
đại.
- Cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy phải 
gương mẫu, phải đề cao trách nhiệm, có dũng 
khí dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. 
- Phải công khai, minh bạch thông tin.
- Phải lắng nghe ý kiến của quần chúng, nhất 
là các ý kiến phê bình. Phải biết học dân, hỏi 
dân, gần dân, hiểu dân và tin dân thì mới lãnh 
đạo được dân. Đó là chỉ dẫn sâu sắc về cách 
lãnh đạo dân chủ của Hồ Chí Minh.
- Một điều kiện rất quan trọng có tính pháp lý 
- chính trị, thể hiện thành tính Đảng là, mỗi cán 
118
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
bộ đảng viên trong Đảng, từ người lãnh đạo cao 
nhất đến mỗi đảng viên bình thường, không giữ 
chức vụ đều phải nghiêm chỉnh chấp hành điều 
lệ Đảng, các quy định và các chế tài (19 điều 
đảng viên không được làm) của Đảng. Không có 
bất cứ một ngoại lệ nào. Kỷ luật Đảng là nghiêm 
minh, không có vùng cấm. Trong điều kiện chỉ 
có một Đảng, lại hoạt động trong khuôn khổ Nhà 
nước pháp quyền mà pháp luật là tối thượng, 
thì cán bộ đảng viên phải gương mẫu chấp hành 
pháp luật. Đảng phải tôn trọng Nhà nước cũng 
như Nhà nước phải hoạt động theo đúng quan 
điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, thể chế 
hóa quan điểm, đường lối của Đảng thành luật 
pháp và chính sách. Đảng phải hoạt động trong 
khuôn khổ pháp luật, mọi quyết định của Đảng 
phải hợp hiến, hợp pháp, không để xảy ra tình 
trạng vi hiến. Chỉ như vậy, Đảng mới củng cố 
được uy tín và ảnh hưởng của mình. Về mặt 
thực tiễn, dân chủ trong Đảng phải chú trọng 
trên tất cả các mặt, các nội dung xây dựng Đảng, 
phải khuyến khích phê bình, đề cao tự phê bình, 
có tình có lý, thấu lý đạt tình, có tính đồng chí 
thương yêu lẫn nhau, biết thành thật sửa chữa 
khuyết điểm sai lầm. Phải xử lý đúng các nguyên 
tắc thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng 
cấp trên, toàn Đảng phục tùng Nghị quyết Đại 
hội và lãnh đạo của Trung ương. Quyền bảo lưu 
ý kiến phải được tôn trọng, không thành kiến, 
định kiến với người có ý kiến khác. Đồng thời, 
đề cao ý thức chấp hành Nghị quyết, không làm 
trái Nghị quyết, không truyền bá quan điểm cá 
nhân trái với Nghị quyết làm phương hại đến 
sự thống nhất tư tưởng, ý chí, hành động trong 
Đảng, làm suy yếu Đảng. Phải dân chủ không 
chỉ trong sinh hoạt Đảng mà còn phải cải cách 
chế độ bầu cử trong Đảng để chọn đúng người 
Tài - Đức vào các cơ quan lãnh đạo, không hình 
thức chủ nghĩa, xem xét kỷ luật trong Đảng phải 
dân chủ và nghiêm minh. Những quyết định sai 
lầm phải được sửa chữa công khai, phải ràng 
buộc trách nhiệm đối với cá nhân và tập thể về 
những quyết định sai lầm đó. Đặc biệt là phải áp 
dụng chế độ chất vấn trong Đảng, giáo dục và 
thực hiện vĕn hóa xin lỗi, vĕn hóa từ chức, giáo 
dục đạo đức, danh dự, lòng tự trọng trong Đảng, 
nhất là kiên quyết xử lý tham nhũng, thoái hóa, 
biến chất trong Đảng theo tinh thần Nghị quyết 
Trung ương 4 khóa XI vừa qua. Phải thường 
xuyên động viên và tạo mọi điều kiện để nhân 
dân hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua Mặt 
trận và các đoàn thể của mình giám sát, tư vấn, 
phản biện và kiểm tra Đảng, nhất là hành vi và 
hoạt động của cán bộ đảng viên, công chức, viên 
chức. Thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh, dựa 
vào dân mà xây dựng Đảng, thực sự trọng dân 
và trọng pháp là một nội dung quan trọng của 
dân chủ trong Đảng.
Làm được như vậy, dân chủ trong Đảng sẽ 
thúc đẩy dân chủ ngoài xã hội. Nhân dân thường 
nhìn vào việc làm và cách ứng xử của cán bộ 
đảng viên để cảm nhận và đánh giá về Đảng.
Do đó, toàn Đảng phải ra sức thực hành dân 
chủ theo gương sáng của Hồ Chí Minh, theo 
phương châm mà Người chỉ dẫn: Nói ít, làm 
nhiều, lời nói đi đôi với việc làm, một tấm gương 
sống còn quý hơn hàng trĕm bài diễn vĕn, làm 
điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân, làm cho 
dân tin, dân ủng hộ, dân giúp đỡ, dân yêu mến, 
dân bảo vệ. Đó là kết quả và thước đo tin cậy 
nhất về uy tín và ảnh hưởng của Đảng, về trình 
độ dân chủ trong Đảng. 
Trong thời gian vừa qua, tự phê bình và phê 
bình trong Đảng đã bước đầu đem lại những 
chuyển biến tích cực để chống suy thoái. Đảng 
đã công khai xin lỗi dân về những khuyết điểm 
sai lầm và quyết tâm sửa chữa. Quốc hội đã công 
khai các kết quả đánh giá mức độ tín nhiệm các 
chức vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn, trên tất 
cả các phương tiện thông tin đại chúng.Trung 
ương, trong các hội nghị gần đây đã thực hiện 
hoạt động chất vấn. Đó là những bước tiến rõ 
rệt về dân chủ. Từng bước một, niềm tin của dân 
với Đảng đang được củng cố. Đó là bằng chứng 
cho thấy tác dụng của dân chủ.
119
Chính sách phát triển nền “Kinh tế số”...
3. DÂN CHỦ NGOÀI XÃ HỘI VỪA PHẢN 
ÁNH VỪA THÚC ĐẨY DÂN CHỦ TRONG 
ĐẢNG, GÓP PHẦN XÂY DỰNG XÃ HỘI 
DÂN CHỦ VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
Trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm 
quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 
còn đang xây dựng, hệ thống chính trị còn đang 
phải nổ lực đổi mới, việc chú trọng phát huy 
dân chủ của xã hội, đề cao tiếng nói dân chủ và 
quyền làm chủ của người dân trở nên rất quan 
trọng và cần thiết.
Như đã nói ở trên, dân chủ trong Đảng thúc 
đẩy dân chủ ngoài xã hội, cũng như vậy, dân chủ 
xã hội phụ thuộc, tùy thuộc một phần lớn từ dân 
chủ trong Đảng. Song mặt khác, mỗi bước tiến 
của dân chủ xã hội vừa phản ánh tác dụng, hiệu 
ứng của dân chủ trong Đảng đồng thời lại thúc 
đẩy, đòi hỏi dân chủ trong Đảng phải ngày càng 
tốt hơn, thực chất hơn.
Dân chủ xã hội gắn liền với dân chủ của 
người dân ở cơ sở, dân chủ ở từng địa phương, 
dân chủ của mọi giai cấp, tầng lớp, của các giai 
tầng, các nhóm xã hội, các dân tộc, các tôn giáo. 
 Đảng cầm quyền đưa ra các quyết định có 
tầm chiến lược đối với sự phát triển của đất 
nước, tới cuộc sống của người dân, tới tương 
lai và triển vọng của cả dân tộc. Dân chủ trong 
Đảng làm cho các quyết định đó trở nên đúng 
đắn, không mắc sai lầm. vì vậy, Đảng cũng phải 
lắng nghe, tiếp thu những ý kiến xây dựng của 
dân. Nhà nước quản lý bằng pháp luật để thực 
hiện những quyền và lợi ích của dân. Nhà nước 
thực hiện các chính sách để phát triển sức dân. 
Nhân dân làm chủ thông qua lãnh đạo của Đảng 
và quản lý của Nhà nước. Dân chủ xã hội chính 
là thực hiện dân chủ đại diện và dân chủ trực 
tiếp. Ở cơ sở xã, phường, thị trấn và mọi cơ 
sở là tế bào của xã hội đều có quy chế và pháp 
lệnh dân chủ cơ sở. Ở các cộng đồng dân cư 
(Thôn, Làng, Ấp, Bản.) còn có hoạt động tự 
quản. Nếu các hình thức dân chủ đó được thực 
hiện đồng bộ và triệt để thì dân chủ xã hội sẽ có 
những bước tiến rõ rệt. 
Thành tựu dân chủ xã hội sẽ tác động vào dân 
chủ trong Đảng, Nhà nước và xã hội nói chung. 
Chính nhân dân làm chủ Nhà nước của mình. 
Do đó, dân chủ do nhân dân thực hiện còn góp 
phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội 
chủ nghĩa.
Đây là một vấn đề rất rộng lớn, bao trùm 
mọi lĩnh vực. Thực hiện dân chủ xã hội là cách 
thức làm cho người dân và cả cộng đồng xã hội 
trưởng thành về dân chủ trong một môi trường 
dân chủ. Muốn vậy, trước mắt và lâu dài phải tập 
trung thực hiện tốt những vấn đề sau:
Một, có đột phá về thể chế, nhất là thể chế hệ 
thống chính trị để thúc đẩy kinh tế tĕng trưởng, 
để cải thiện, nâng cao mức sống của người dân. 
Đồng thời phải đẩy mạnh đổi mới đồng bộ kinh 
tế và chính trị, trước hết là hệ thống chính trị 
các cấp.
Hai, tập trung mọi nỗ lực cả tổ chức, thể chất 
lẫn con người vào cuộc đấu tranh chống quan 
liêu, tham nhũng. Phải phát huy cao độ dân chủ 
trong toàn dân mới chống được tham nhũng. 
Đây là quốc nạn gây tổn hại lớn nhất tới dân chủ 
và lợi ích của người dân. Phải có quốc sách mới 
trị được quốc nạn. Quốc sách đó là Dân chủ - 
Pháp quyền, trừng trị tất cả những kẻ bất liêm, 
bất kể chúng là ai như Hồ Chí Minh nói.
Ba, phải công khai, minh bạch thông tin, nhất 
là trong xét xử, trong trừng trị tham nhũng như 
trừng trị mọi tội ác với nhân dân. Đề cao trách 
nhiệm giải trình.
Bốn, phải bằng chính sách, cơ chế để chĕm 
lo cuộc sống của dân, chống lại mọi mưu mô lợi 
ích nhóm.
Nĕm, nâng cao dân trí, đảm bảo dân quyền, thực 
hành dân chủ trên cơ sở chĕm lo dân sinh. Làm tốt 
dân vận.
4. KẾT LUẬN 
Định hướng chính trị của Nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự lãnh đạo 
của Đảng, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ 
nghĩa xã hội, thực hiện quyền làm chủ của nhân 
120
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
dân. Mục tiêu của thể chế Nhà nước và thể chế 
chính trị nói chumg là Xây dựng và Phát triển 
Dân chủ, đảm bảo cho Nhà nước trong sạch, 
vững mạnh, có hiệu lực và thực quyền, thực sự 
là của dân, do dân, vì dân. Thực hiện dân chủ 
trong Đảng và dân chủ ngoài xã hội tác động 
và thúc đẩy lẫn nhau, cùng hướng tới xây dựng 
nền dân chủ và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa, củng cố vững chắc mối quan hệ mật thiết 
giữa Đảng với dân, giữa dân với Đảng. Đó chính 
là đảm bảo quan trọng nhất để Đảng giữ vững 
vai trò lãnh đạo và cầm quyền, để sự nghiệp đổi 
mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 
thành công, nhân dân thực sự là chủ và làm chủ, 
Nhà nước thực sự là nhà nước của dân, do dân 
và vì dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết Trung ương 7, khóa XI về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong 
tình hình mới
2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, 2, CTQG, H.1995, 
3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, CTQG, H.1995, 
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, CTQG, H.1995,
5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, CTQG, H.1995, 
6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, CTQG, H.1995, 
7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, CTQG, H.1995, 
8. HồChí Minh, Toàn tập, tập 5, CTQG, H.1995, 
9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, CTQG, H.1995,
10. ĐCSVN, Vĕn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, CTQG, H.2011 
11. Vĕn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII của Đảng Cộng sản Việt Nam CTQG, H. 
(1986-2016).

File đính kèm:

  • pdfnhan_thuc_ve_tam_quan_trong_cua_moi_quan_he_giua_dan_chu_tro.pdf