Nghiên cứu kết quả ngắn hạn của phương pháp can thiệp mạch vành qua da và nội khoa bảo tồn trong điều trị nhồi máu cơ tim cấp trên bệnh nhân rất cao tuổi

Đặt vấn đề: Nhồi máu cơ tim cấp là một trong những nguyên nhân nhập viện thường gặp ở người rất cao

tuổi. Tuy nhiên, trên thực tế lâm sàng, nhóm bệnh nhân này ít được điều trị can thiệp mạch vành qua da

(CTMVQD) theo các khuyến cáo bởi chứng cứ về lợi ích của phương pháp này so với điều trị nội khoa bảo tồn

còn ít, chưa rõ ràng.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ các biến cố tim mạch nặng (tử vong do mọi nguyên nhân, tử vong do tim

mạch, nhồi máu cơ tim, đột quỵ và xuất huyết nặng) ngắn hạn (nội viện và tại thời điểm 6 tháng) của

phương pháp CTMVQD kết hợp với nội khoa và nội khoa bảo tồn trong điều trị nhồi máu cơ tim cấp trên

bệnh nhân rất cao tuổi.

pdf 8 trang phuongnguyen 40
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu kết quả ngắn hạn của phương pháp can thiệp mạch vành qua da và nội khoa bảo tồn trong điều trị nhồi máu cơ tim cấp trên bệnh nhân rất cao tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu kết quả ngắn hạn của phương pháp can thiệp mạch vành qua da và nội khoa bảo tồn trong điều trị nhồi máu cơ tim cấp trên bệnh nhân rất cao tuổi

Nghiên cứu kết quả ngắn hạn của phương pháp can thiệp mạch vành qua da và nội khoa bảo tồn trong điều trị nhồi máu cơ tim cấp trên bệnh nhân rất cao tuổi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 22
NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ NGẮN HẠN CỦA PHƯƠNG PHÁP CAN THIỆP 
MẠCH VÀNH QUA DA VÀ NỘI KHOA BẢO TỒN TRONG ĐIỀU TRỊ 
NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP TRÊN BỆNH NHÂN RẤT CAO TUỔI 
Nguyễn Văn Tân*,**, Nguyễn Quốc Khoa*** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Nhồi máu cơ tim cấp là một trong những nguyên nhân nhập viện thường gặp ở người rất cao 
tuổi. Tuy nhiên, trên thực tế lâm sàng, nhóm bệnh nhân này ít được điều trị can thiệp mạch vành qua da 
(CTMVQD) theo các khuyến cáo bởi chứng cứ về lợi ích của phương pháp này so với điều trị nội khoa bảo tồn 
còn ít, chưa rõ ràng. 
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ các biến cố tim mạch nặng (tử vong do mọi nguyên nhân, tử vong do tim 
mạch, nhồi máu cơ tim, đột quỵ và xuất huyết nặng) ngắn hạn (nội viện và tại thời điểm 6 tháng) của 
phương pháp CTMVQD kết hợp với nội khoa và nội khoa bảo tồn trong điều trị nhồi máu cơ tim cấp trên 
bệnh nhân rất cao tuổi. 
Đối tượng - phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ, tiến cứu và không can thiệp được thực hiện 
đa trung tâm. Trong thời gian từ tháng 6 năm 2017 đến tháng 6 năm 2018, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 
275 bệnh nhân rất cao tuổi (≥ 80 tuổi) bị nhồi máu cơ tim cấp nhập viện điều trị nội trú tại 4 khoa tim mạch của 4 
bệnh viện ở thành phố Hồ Chí Minh. Tất cả bệnh nhân được chia thành 2 nhóm điều trị: nội khoa kết hợp 
CTMVQD (n=142) và nội khoa bảo tồn đơn thuần (n=133). 
Kết quả: Tỷ lệ tử vong nội viện ở nhóm bệnh nhân chỉ được điều trị nội khoa đơn thuần cao hơn so với bệnh 
nhân được điều trị CTMVQD (18,05% so với 8,45%; p=0,018). Tỷ lệ tử vong do tim mạch và nhồi máu cơ tim 
tái phát tại thời điểm 6 tháng cũng cao hơn ở nhóm bệnh nhân chỉ được điều trị nội khoa bảo tồn (15,04% so với 
8,45%; p=0,002 và 15,79% so với 3,52%; p=0,001). Biến cố đột quỵ và xuất huyết nặng khác biệt không ý nghĩa 
giữa 2 phương pháp điều trị (p<0,05). 
Kết luận: Can thiệp mạch vành qua da kết hợp với điều trị nội khoa làm giảm được tỷ lệ tử vong nội 
viện và tỷ lệ tử vong do tim mạch, nhồi máu cơ tim tái phát tại thời điểm 6 tháng so với điều trị nội khoa bảo 
tồn đơn thuần. 
Từ khóa: nhồi máu cơ tim cấp, rất cao tuổi, can thiệp mạch vành qua da, nội khoa bảo tồn 
ABSTRACT 
THE SHORT-TERM OUTCOMES OF PERCUTANEOUS CORONARY INTERVENTION VERSUS 
CONSERVATIVE STRATEGY IN THE VERY ELDERLY PATIENTS WITH ACUTE MYOCARDIAL 
INFARCTION 
Nguyen Van Tan, Nguyen Quoc Khoa. 
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 22-29 
Background: Acute myocardial infarction (AMI) is frequent causes of hospital admission in the very 
elderly. However, this population is less likely to receive treatment with percutaneous coronary intervention 
(PCI) according to current guidelines because the benefits and disadvantages of PCI versus medical 
treatment are still uncertain. 
*Bộ môn Lão khoa – Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh **Bệnh viện Thống Nhất TP. Hồ Chí Minh 
***Khoa Nội tim mạch, Bệnh viện 30/4 – Bộ Công An 
Tác giả liên lạc: TS. Nguyễn Văn Tân ĐT: 0903739273 Email: nguyenvtan10@ump.edu.vn 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 23 
Objective: To determine the rate of major adverse cardiac events (all-cause death, cardiovascular death, 
myocardial infarction, stroke and major bleeding) in hospital and at 6 months of PCI versus conservative strategy 
in treatment of acute myocardial infarction in the very elderly patients. 
Methods: This was a cohort, prospective and multicenter study. From June 2017 to June 2018, we 
enrolled 275 patients (≥ 80 years old) with AMI treated at department of Cardiovascular and Intervention of 
Ho Chi Minh city’s Thong Nhat hospital, department of interventional cardiology of Ho Chi Minh 
University medical center, department of cardiology of Cho Ray hospital and department of cardiology of 
30/4 Police hospital. All patients were divided into 2 groups, those who underwent a conservative treatment 
(n=133) and those who underwent PCI (n=142). 
Results: In-hospital mortality were significant higher in the conservative group than those PCI group 
(18.05% vs 8.45%, p = 0.018). The 6-month cardiovascular mortality and recurrent AMI were still significant 
higher in the in the conservative group than those PCI group (respectively, 5.04% vs 8.45%, p=0.002; 15.79% vs 
3.52%, p=0.001). The two strategies did not differ in term of stroke and major bleeding. 
Conclusions: In treatment of AMI in the very elderly patients, PCI was superior to conservative strategy in 
the reduction of in-hospital mortality and 6-month cardiovascular mortality as well as recurrent AMI. 
Key words: acute myocardial infarction, very elderly patients, percutaneous coronary intervention, 
conservative treatment 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nhồi máu cơ tim cấp (NMCTC) là nguyên 
nhân chính gây nên tử vong và tàn tật ở người 
rất cao tuổi (trên 80 tuổi) với tỷ lệ khoảng 50%(10). 
Người cao tuổi và rất cao tuổi hiện chiếm một tỷ 
lệ lớn trong số bệnh nhân nhập viện vì hội 
chứng vành cấp(1). Tuổi thọ của dân số thế giới 
nói chung và Việt Nam nói riêng ngày càng 
tăng. Điều này sẽ dẫn tới tỷ lệ người rất cao tuổi 
bị NMCTC ngày càng tăng trong tương lai. 
Trong những thập niên gần đây, tỷ lệ tử 
vong do NMCTC đã giảm bởi những tiến bộ 
mới trong điều trị, như là can thiệp mạch vành 
qua da (CTMVQD), thuốc mới. Tái tưới máu 
mạch vành bằng phương pháp can thiệp qua da 
đã được chứng minh làm cải thiện tiên lượng 
sống còn cũng như các biến cố tim mạch nặng 
trên bệnh nhân bị hội chứng mạch vành cấp. 
Tuy nhiên, phần lớn những bằng chứng lợi ích 
này chủ yếu trên nhóm bệnh nhân (BN) không 
quá cao tuổi (trung bình 65 tuổi) bởi hầu hết các 
nghiên cứu lâm sàng chính đã không bao gồm 
hoặc bao gồm rất ít nhóm bệnh nhân cao tuổi và 
rất cao tuổi (trên 80 tuổi)(9). 
Theo hướng dẫn của Hội Tim Châu Âu, 
Hội Tim Hoa Kỳ và Trường môn Tim Hoa Kỳ, 
những bệnh nhân bị hội chứng mạch vành cấp 
phải được điều trị nội khoa tối ưu và đánh giá 
cho chiến lược điều trị tái tưới máu xâm lấn 
như là CTMVQD. Chiến lược điều trị này 
giống nhau cho người cao tuổi và không cao 
tuổi. Tuy nhiên, trên thực tế, những bệnh nhân 
rất cao tuổi bị NMCTC lại ít được CTMVQD 
theo các hướng dẫn trên như nhóm bệnh nhân 
trẻ hơn vì tình trạng bệnh lý đi kèm cũng như 
bằng chứng về lợi ích còn tương đối ít và mức 
độ chứng cứ còn chưa đủ mạnh(2,11,12). Do đó, 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm 
đánh giá kết quả ngắn hạn của phương pháp 
CTMVQD và nội khoa bảo tồn trong điều trị 
NMCTC trên bệnh nhân rất cao tuổi. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tất cả BN ≥ 80 tuổi bị NMCTC nhập viện 
điều trị tại Khoa Tim mạch Cấp cứu và Can 
thiệp Bệnh viện Thống Nhất, Khoa Tim mạch 
Can thiệp Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí 
Minh, Khoa Nội Tim mạch Bệnh viện Chợ Rẫy 
và Khoa Nội Tim mạch Bệnh viện 30/4 trong 
khoảng thời gian từ tháng 06 năm 2017 đến 
tháng 06 năm 2018 thỏa tiêu chuẩn nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
BN ≥ 80 tuổi, được chẩn đoán nhồi máu cơ 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 24
tim cấp theo định nghĩa toàn cầu lần thứ 3 về 
nhồi máu cơ tim(14). 
BN được điều trị nội khoa bảo tồn đơn thuần 
hay nội khoa kết hợp CTMVQD. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
BN có bệnh lý ác tính kèm theo. 
BN bị tử vong ngay tại thời điểm nhập 
viện hoặc được điều trị tái tưới máu mạch 
vành bằng tiêu sợi huyết hoặc phẫu thuật bắc cầu 
mạch vành. 
Phương pháp nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu 
Đoàn hệ, tiền cứu và không can thiệp. 
Kỹ thuật lấy mẫu 
Lấy mẫu thuận tiện. 
Các bước tiến hành lấy số liệu 
Chúng tôi ghi nhận thông tin về bệnh sử, 
lâm sàng, cận lâm sàng, thuốc điều trị và biến cố 
tim mạch nặng của BN tại thời điểm nhập viện 
và trong quá trình nằm viện theo mẫu bệnh án 
nghiên cứu: tuổi, giới, yếu tố nguy cơ tim mạch, 
suy yếu, tiền căn bệnh tim mạch, phân độ Killip 
lúc nhập viện, tử vong. 
BN được điều trị nội khoa đơn thuần hoặc 
nội khoa kết hợp CTMVQD tùy vào nguyện 
vọng bệnh nhân/thân nhân và bác sĩ điều trị. 
Chúng tôi theo dõi BN để ghi nhận biến cố 
tim mạch nặng bằng cách theo dõi tại phòng 
khám hoặc gọi điện thoại sau xuất viện 1 tháng, 
3 tháng và 6 tháng. 
Định nghĩa các biến số nghiên cứu 
Các biến cố tim mạch nặng: tử vong do mọi 
nguyên nhân, tử vong do tim mạch, nhồi máu cơ 
tim, đột quỵ và xuất huyết nặng theo định nghĩa 
của ACC/AHA về các biến cố tim mạch trong 
nghiên cứu lâm sàng năm 2014(7). 
Phương pháp và phân tích số liệu 
Các số liệu trong nghiên cứu được phân 
tích và xử lý bằng phần mềm STATA 13.0. Kết 
quả được mô tả dưới dạng tần số, tỷ lệ % đối 
với các biến định tính. Đối với các biến định 
lượng mô tả bằng trung bình (TB) ± độ lệch 
chuẩn (ĐLC) (có phân phối chuẩn), trung vị 
(TV) và khoảng tứ phân vị (KTPV) 25%-75% 
(có phân phối không chuẩn); kiểm định chi 
bình phương để xác định mối liên quan giữa 2 
biến số định tính (nếu có một ô có vọng trị < 5 
chiếm tỷ lệ > 20% hoặc có ô có vọng trị < 1 thì 
dùng phép kiểm định Fisher); kiểm định t-test 
để xác định mối liên quan giữa 2 biến trung 
bình. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi trị 
số p < 0,05 với độ tin cậy 95%. 
KẾT QUẢ 
Trong khoảng thời gian nghiên cứu, chúng 
tôi thu nhận được 275 bệnh nhân thỏa tiêu chí 
chọn mẫu tại 4 khoa tim mạch của 4 bệnh viện 
khác nhau ở TP. Hồ Chí Minh; trong đó có 133 
bệnh nhân được điều trị nội khoa bảo tồn 
(NKBT) và 142 BN được CTMVQD. Một số đặc 
điểm lâm sàng, cận lâm sàng và thuốc điều trị 
của 2 nhóm bệnh nhân theo phương pháp điều 
trị được trình bày trong các bảng 1-3. 
Bảng 1: Đặc điểm tiền căn, yếu tố nguy cơ tim mạch theo phương pháp điều trị 
 NKBT (n = 133) CTMVQD (n = 142) p 
Tuổi (năm, trung vị) 84 (81:88) 83 (80:87) 0,018 
Nữ, n(%) 76 (57,14) 72 (50,70) 0,284 
Hiện hút thuốc lá, n(%) 37 (27,82) 16 (11,27) 0,001 
Tăng huyết áp, n(%) 97 (72,93) 91 (64,08) 0,115 
Rối loạn lipid máu, n(%) 101 (75,94) 99 (69,72) 0,247 
Đái tháo đường, n(%) 35 (26,32) 44 (30,99) 0,392 
Bệnh thận mạn, n(%) 52 (39,10) 33 (23,24) 0,004 
Nhồi máu cơ tim cũ, n(%) 26 (19,55) 14 (9,86) 0,023 
Đặt stent mạch vành, n(%) 7 (5,26) 9 (6,34) 0,704 
Suy tim, n(%) 52 (39,10) 18 (12,68) <0,001 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 25 
 NKBT (n = 133) CTMVQD (n = 142) p 
Bệnh mạch máu não, n(%) 20 (15,04) 14 (9,86) 0,192 
Rung nhĩ mạn, n(%) 12 (9,02) 3 (2,11) 0,012 
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, n(%) 19 (14,29) 16 (11,27) 0,453 
Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng tại thời điểm nhập viện theo phương pháp điều trị 
 NKBT (n=133) CTMVQD (n = 142) p 
NMCTC có ST chênh lên, n(%) 22 (16,5) 42 (29,58) 0,011 
NMCT cấp không ST chênh lên, n(%) 111 (83,46) 100 (70,42) < 0,05 
Killip I, n(%) 64 (48,12) 105 (73,94) < 0,001 
Killip ≥ 2, n(%) 69 (51,88) 37 (26,06) < 0,05 
Phân suất tống máu thất trái 44,46 ± 15,75 50,21 ± 15,04 0,002 
Độ lọc cầu thận ước lượng (mL/ph) 53,7 (38,2 : 65) 55,9 (46 : 72) 0,05 
Hematocrite (%) 35,5 (31,2 : 39,5) 36,85 (33,4 : 39,1) 0,15 
Hemoglobin (g/dL) (TV và KTPV) 11,9 (10,3 : 13,1) 12,2 (11,1 : 13,3) 0,048 
TIMI cho NMCT cấp không có ST chênh lên (TB ± ĐLC) 4 ± 0,97 4,11 ± 0,84 0,42 
TIMI cho NMCT cấp ST chênh lên (TB ± ĐLC) 9,13 ± 2,28 7,82 ± 1,5 0,006 
Điểm GRACE (TB ± ĐLC) 167,43 ± 23,33 163,45 ± 20,57 0,13 
Viêm phổi, n (%) 49 (36,84) 21 (14,79) < 0,001 
Suy thận cấp, n (%) 29 (21,8) 13 (9,15) 0,004 
Suy yếu, n (%) 97 (72,93) 75 (52,82) 0,001 
Bảng 3: Thuốc dùng trong quá trình nằm viện theo phương pháp điều trị 
 NKBT (n=133) CTMVQD (n=142) p 
Aspirin, n(%) 126 (94,74) 142 (100) 0,006 
Ticagrelor, n(%) 5 (3,76) 37 (26,06) <0,001 
Clopidogrel, n(%) 126 (94,74) 141 (99,3) 0,027* 
Kháng đông uống, n(%) 5 (3,76) 3 (2,11) 0,326* 
Statin, n(%) 116 (87,22) 137 (96,48) 0,005 
Ức chế bê-ta, n(%) 37 (33,94) 54 (41,54) 0,229 
Chẹn kênh Canxi, n(%) 19 (14,29) 18 (12,68) 0,696 
UCMC, n(%) 100 (75,19) 121 (85,21) 0,037 
Nitrate, n(%) 117 (87,97) 104 (73,24) 0,002 
Kháng Aldosterone, n(%) 43 (32,33) 40 (28,17) 0,452 
Lợi tiểu quai, n(%) 47 (35,34) 29 (20,42) 0,006 
Enoxaparin, n(%) 112 (84,21) 136 (95,77) 0,001 
*Kiểm định Fisher 
Tuổi trung bình của nghiên cứu chúng tôi là 
83 (nhỏ nhất là 80 tuổi và cao nhất là 99 tuổi). So 
với nhóm BN được CTMVQD, BN chỉ được điều 
trị nội khoa bảo tồn có tuổi cao hơn (p=0,018). 
Ngoài ra, BN chỉ được điều trị nội khoa đơn 
thuần cũng có tỷ lệ hiện hút thuốc lá, bệnh thận 
mạn, nhồi máu cơ tim cũ, suy tim và rung nhĩ 
mạn cao hơn (tất cả p < 0,05). 
So với nhóm BN được CTMVQD, BN chỉ 
được điều trị nội khoa bảo tồn có tỷ lệ NMCTC 
không có ST chênh lên, tỷ lệ viêm phổi, suy thận 
cấp, suy yếu, phân loại Killip ≥ 2 lúc nhập viện 
và điểm TIMI cho NMCT cấp ST chênh lên cao 
hơn với tất cả p đều < 0,05. Thêm vào đó, nhóm 
BN chỉ được điều trị nội khoa đơn thuần cũng có 
phân suất tống máu thất trái, độ lọc cầu thận ước 
lượng và hemoglobin lúc nhập viện thấp hơn 
một cách có ý nghĩa thống kê. 
So với nhóm BN chỉ được điều trị nội khoa 
bảo tồn, BN được CTMVQD có tỷ lệ sử dụng 
thuốc aspirin, clopidogrel, ticagrelor, statin, ức 
chế men chuyển, và enoxaparin cao hơn (tất cả p 
< 0,05). Ngược lại, nhóm BN được điều trị nội 
khoa bảo tồn có tỷ lệ sử dụng thuốc nitrate và lợi 
tiểu quai cao hơn (p< 0,05) 
Tỷ lệ các biến cố tim mạch nặng nội viện và 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 26
tại thời điểm theo dõi 6 tháng của 2 nhóm bệnh 
theo phương pháp điều trị được tóm tắt trong 
bảng 4 và 5. 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 2 
nhóm điều trị về các biến cố tim mạch nội viện: 
tái nhồi máu cơ tim, đột quỵ não, xuất huyết 
nặng (tất cả p > 0,05). Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong 
nội viện ở nhóm BN chỉ được điều trị nội khoa 
bảo tồn cao hơn so với nhóm được CTMVQD 
(18,05% so với 8,45%; p = 0,018). Biến cố gộp (tử 
vong, tái nhồi máu cơ tim, đột quỵ não, xuất 
huyết nặng) ở nhóm BN chỉ được điều trị nội 
khoa bảo tồn cũng cao hơn nhóm BN được 
CTMVQD (25,56% so với 10,56%; p = 0,001). 
Bảng 4: Tỷ lệ biến cố tim mạch nặng nội viện theo phương pháp điều trị 
 NKBT (n=133) CTMVQD (n=142) p 
Tái nhồi máu cơ tim, n(%) 6 (4,51) 2 (1,41) 0,121* 
Đột quỵ, n(%) 2 (1,5) 0 0,14* 
Xuất huyết nặng, n(%) 3 (2,26) 2 (1,41) 0,47 
Tử vong, n(%) 24 (18,05) 12 (8,45) 0,018 
Biến cố gộp **, n(%) 34 (25,56) 15 (10,56) 0,001 
*Kiểm định Fisher ** Tử vong, tái nhồi máu cơ tim, đột quỵ não, xuất huyết nặng 
Bảng 5: Tỷ lệ biến cố tim mạch nặng tại thời điểm 6 tháng theo phương pháp điều trị 
 NKBT (n=133) CTMVQD (n=142) p 
Tái nhồi máu cơ tim, n(%) 21 (15,79) 5 (3,52) 0,001 
Đột quỵ, n(%) 1 (0,75) 2 (1,41) 0,53* 
Xuất huyết nặng, n(%) 2 (1,5) 2 (1,41) 0,67* 
Tử vong do tim, n(%) 20 (15,04) 6 (4,23) 0,002 
Biến cố gộp**, n(%) 43 (32,33) 19 (13,38) <0,001 
*Kiểm định Fisher, 
**Tử vong do mọi nguyên nhân, tử vong do tim mạch, tái nhồi máu cơ tim, đột quỵ não, xuất huyết nặng 
So với điều trị nội khoa bảo tồn, CTMVQD 
làm giảm được tỷ lệ tử vong do tim mạch (4,24% 
so với 15,04%; p = 0,002), tái nhồi máu cơ tim 
(3,52% so với 15,79%; p = 0,001) và biến cố gộp 
(13,38% so với 32,33%; p<0,001) tại thời điểm 6 
tháng. Tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân, đột 
quỵ não và xuất huyết nặng không có sự khác 
biệt có ý nghĩa giữa 2 chiến lược điều trị (p>0,05). 
BÀN LUẬN 
Đặc điểm mẫu bệnh nhân nghiên cứu theo 
phương pháp điều trị 
Bệnh nhân rất cao tuổi bị NMCTC thường ít 
được điều trị tái tưới máu xâm lấn theo các 
khuyến cáo so với nhóm bệnh nhân trẻ hơn 
(trung bình 65 tuổi) bởi tuổi cao và nhiều bệnh lý 
đi kèm (như là suy tim, suy thận, suy yếu, viêm 
phổi). Đặc điểm yếu tố nguy cơ tim mạch, 
bệnh cảnh lâm sàng và một số giá trị cận lâm 
sàng trong nghiên cứu chúng tôi cũng tương tự 
một số nghiên cứu về hiệu quả của can thiệp 
mạch vành qua da so với nội khoa bảo tồn trên 
bệnh nhân cao tuổi và rất cao tuổi bị hội chứng 
vành cấp. Nhóm bệnh nhân chỉ được điều trị nội 
khoa bảo tổn thường có tuổi cao hơn, nhiều bệnh 
lý đi kèm và bệnh cảnh lâm sàng lúc nhập viện 
nặng hơn, nguy cơ cao hơn so với nhóm bệnh 
nhân được CTMVQD(4,6,8,13). 
Tỷ lệ biến cố tim mạch nặng nội viện của 2 
nhóm bệnh nhân theo phương pháp điều trị 
Trong nghiên cứu của chúng tôi trên 275 
bệnh nhân ≥ 80 tuổi bị NMCTC có 36 trường 
hợp tử vong (13,09%), đột quỵ não 2 trường 
hợp (0,73%), xuất huyết nặng 5 trường hợp 
(1,82%), nhồi máu cơ tim tái phát 8 trường hợp 
(2,91), sốc tim 2 trường hợp (0,73%) và suy tim 
cấp 13 trường hợp (4,73%). 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, 
so với nhóm bệnh nhân chỉ được điều trị nội 
khoa đơn thuần, nhóm bệnh nhân được 
CTMVQD có tỷ lệ tử vong thấp hơn có ý nghĩa 
(8,45% so với 18,05%; p = 0,018). Sự khác biệt về 
tỷ lệ tử vong nội viện giữa 2 nhóm điều trị trong 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 27 
nghiên cứu của chúng tôi tương tự nghiên cứu 
đoàn hệ tiến cứu của Katsuro Kashima(8) trên 77 
BN ≥ 80 tuổi bị NMCT cấp (12,5% so với 35,5%; p 
= 0,02), phân tích dưới nhóm từ nghiên cứu 
GRACE của Devlin G(4) trên 3.029 BN > 80 tuổi bị 
hội chứng vành cấp (7% so với 11%; p < 0,001, 
phân tích sổ bộ của Gierlotka(6) trên 13.707 BN ≥ 
80 tuổi bị NMCT cấp không ST chênh lên (5% so 
với 14%; p < 0,0001) và nghiên cứu đoàn hệ tiến 
cứu của Yudi (15) trên 101 BN ≥ 85 tuổi bị NMCT 
cấp ST chênh lên (13% so với 32%; p = 0,03). 
Tỷ lệ đột quỵ não và tái nhồi máu cơ tim 
trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn ở nhóm 
bệnh nhân chỉ được điều trị nội khoa đơn thuần 
so với nhóm bệnh nhân được CTMVQD nhưng 
không có ý nghĩa thống kê (1,5% so với 0; 
p = 0,142 và 4,51% so với 1,41%; p = 0,121). Tuy 
nhiên trong nghiên cứu sổ bộ trên 13.707 BN của 
Gierlotka(6) thì tỷ lệ đột quỵ não và tái nhồi máu 
cơ tim ở nhóm điều trị nội khoa bảo tồn cao hơn 
nhóm được CTMVQD một cách có ý nghĩa (p = 
0,0008). Sự khác biệt này so với kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi có thể do mẫu nghiên cứu của 
Gierlotka lớn (n = 13.707). Kết quả này càng cho 
thấy rõ hơn lợi ích của can thiệp mạch vành qua 
da giúp giảm biến cố đột quỵ và tái nhồi máu cơ 
tim nội viện. 
Trong phân tích dưới nhóm từ nghiên cứu 
GRACE của Devlin G(4) và nghiên cứu sổ bộ của 
Gierlotka(6) cho thấy tỷ lệ xuất huyết nặng xảy ra 
nhiều hơn ở nhóm được CTMVQD so với nhóm 
được điều trị nội khoa bảo tồn một cách có ý 
nghĩa (7% so với 3,4% với p < 0,00001; 2,9% so 
với 1,1% với p < 0,0001). Nhóm bệnh nhân được 
CTMVQD có tỷ lệ sử dụng thuốc kháng tiểu cầu 
(aspirin, clopidogrel, ticagrelor) và không đông 
(enoxaparin) nhiều hơn nhóm bệnh nhân chỉ 
điều trị nội khoa bảo tồn (tất cả p < 0,05); thêm 
vào đó thủ thuật chụp và can thiệp mạch vành 
cũng là yếu tố nguy cơ cho xuất huyết nặng. Tất 
cả những điều này có thể giải thích cho tỷ lệ xuất 
huyết nặng cao hơn ở nhóm bệnh nhân được 
CTMVQD. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của 
chúng tôi, nhóm được CTMVQD lại có tỷ lệ xuất 
huyết nặng thấp hơn nhóm bệnh nhân được 
điều trị nội khoa bảo tồn nhưng không có ý 
nghĩa (1,41% so với 2,26%; p = 0,47). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi còn ghi 
nhận tỷ lệ các biến cố gộp (tử vong, tái nhồi máu 
cơ tim, đột quỵ não, xuất huyết nặng) cao hơn có 
ý nghĩa ở nhóm bệnh nhân được điều trị nội 
khoa đơn thuần so với nhóm bệnh nhân được 
CTMVQD (25,56% so với 10,56%; p = 0,001). Kết 
quả này càng cho thấy lợi ích của phương pháp 
CTMVQD so với nội khoa bảo tồn trong điều trị 
NMCT cấp trên bệnh nhân rất cao tuổi. 
Tỷ lệ biến cố tim mạch nặng tại thời điểm 6 
tháng của 2 nhóm theo phương pháp điều trị 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tại thời 
điểm theo dõi 6 tháng có 34 trường hợp 
(12,36%) tử vong do mọi nguyên nhân, trong 
đó tử vong do tim mạch 26 trường hợp 
(76,47%), nhồi máu cơ tim tái phát 26 trường 
(9,45%), đột quỵ não 3 trường hợp (1,09%) và 
xuất huyết nặng 4 trường (1,45%). 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, so với 
nhóm bệnh nhân được điều trị CTMVQD, nhóm 
bệnh nhân chỉ được điều trị nội khoa đơn thuần 
có tỷ lệ tử vong do tim mạch, nhồi máu cơ tim 
tái phát cao hơn có ý nghĩa (15,04% so với 4,03%; 
p = 0,002 và 15,79% so với 3,52%; p = 0,001). 
Trong nghiên cứu của tác giả Devlin G(4) cũng 
ghi nhận kết quả tương tự với tử lệ tái nhồi máu 
cơ tim cao hơn ở nhóm điều trị nội khoa đơn 
thuần (8,1% so với 5,2%; p=0,03). 
Tỷ lệ gộp các biến cố tim mạch nặng (bao 
gồm tử vong do mọi nguyên nhân, tử vong do 
tim mạch, nhồi máu cơ tim tái phát, đột quỵ não 
và xuất huyết nặng) cũng cao hơn có ý nghĩa ở 
nhóm bệnh nhân chỉ được điều trị nội khoa đơn 
thuần so với những bệnh nhân được CTMVQD 
(32,33% so với 13,38%; p < 0,001). 
Devlin G(4) cũng ghi nhận tỷ lệ biến cố gộp 
(bao gồm tử vong do mọi nguyên nhân, nhồi 
máu cơ tim và đột qụy) thấp hơn có ý nghĩa ở 
nhóm được CTMVQD so với bệnh nhân được 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019
Chuyên Đề Nội Khoa 28
điều trị nội khoa bảo tồn (17% so với 25%; 
p < 0,0001). Nghiên cứu của chúng tôi cũng ghi 
nhận tỷ lệ biến cố gộp (bao gồm tử vong do mọi 
nguyên nhân, tử vong do tim mạch, nhồi máu cơ 
tim tái phát, đột quỵ não và xuất huyết nặng) 
thấp hơn có ý nghĩa ở nhóm được CTMVQD 
(19,38% so với 32,33%; p < 0,001). Kết quả này 
một lần nữa cho thấy lợi ích của CTMVQD so 
với điều trị nội khoa đơn thuần trên bệnh nhân 
rất cao tuổi (≥ 80 tuổi) bị nhồi máu cơ tim cấp tại 
thời điểm 6 tháng. 
Nghiên cứu FRISC II(5) nhằm so sánh hiệu 
quả của chiến lược điều trị xâm lấn sớm với nội 
khoa bảo tồn trên bệnh nhân bị HCVC không ST 
chênh lên. Đây là một nghiên cứu tiền cứu ngẫu 
nhiên đa trung tâm tại 58 bệnh viện ở Bắc Âu với 
2.475 bệnh nhân (tuổi trung bình là 66). Kết quả 
cho thấy tại thời điểm 6 tháng, so với nhóm điều 
trị nội khoa bảo tồn, bệnh nhân được điều trị tái 
tưới máu xâm lấn giảm được tỷ lệ tử vong do 
mọi nguyên nhân (p = 0,10). Đây là nghiên cứu 
đầu tiên chứng minh hiệu quả của điều trị tái 
tưới máu xâm lấn so với nội khoa đơn thuần 
trong hội chứng vành cấp không ST chênh lên, 
tuy nhiên thiết kế nghiên cứu lại loại trừ những 
bệnh nhân > 75 tuổi(5). 
Trong nghiên cứu TACTICS-TIMI 18(3) nhằm 
so sánh biến cố tim mạch nặng của chiến lược 
điều trị xâm lấn sớm so với điều trị bảo tồn trên 
bệnh nhân bị HCVC không ST chênh lên có sử 
dụng thuốc ức chế thụ thể IIb/IIIa (tirofiban) tại 
thời điểm 30 ngày và 6 tháng. Tuổi trung bình 
của nghiên cứu này là 62. Trong một phân tích 
dưới nhóm của nghiên cứu TACTICS-TIMI 18 
cho thấy ở nhóm bệnh nhân ≥ 75 tuổi bị HCVC 
không ST chênh lên, so với điều trị nội khoa bảo 
tồn, CTMVQD làm giảm tỷ lệ tử vong do mọi 
nguyên nhân và nhồi máu cơ tim tại thời điểm 6 
tháng với p = 0,02. Điều này không thấy khi 
phân tích trên nhóm bệnh nhân trẻ hơn(3). Mặc 
dù dân số trong nghiên cứu FRISC II và 
TACTICS-TIMI 18 có tuổi trung bình nhỏ hơn 
nghiên cứu của chúng tôi (trung bình 62 – 66 
tuổi), nhưng cũng co thấy so với chiến lược điều 
trị nội khoa đơn thuần, CTMVQD làm giảm tỷ lệ 
tử vong tại thời điểm 6 tháng trên bệnh nhân 
HCVC không ST chênh lên với p < 0,05. 
Kết quả nghiên cứu của Devlin G(4) cho thấy 
nhóm bệnh nhân chỉ được điều trị nội khoa đơn 
thuần có tỷ lệ đột quỵ não cao hơn nhóm được 
CTMVQD nhưng sự khác biệt này không có ý 
nghĩa (3,1% so với 2,2%; p = 0,24). Sự khác biệt 
này tương tự nghiên cứu của chúng tôi tại thời 
điểm 6 tháng (p > 0,05). Tỷ lệ xuất huyết nặng tại 
thời điểm 6 tháng trong nghiên cứu chúng tôi 
không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm 
điều trị nội khoa bảo tồn và CTMVQD, tương tự 
kết quả của tác giả Devlin(4). 
KẾT LUẬN 
Trong chiến lược điều trị nhồi máu cơ tim 
cấp trên bệnh nhân rất cao tuổi, can thiệp mạch 
vành qua da làm giảm được tỷ lệ tử vong nội 
viện (p=0,018) và tỷ lệ tử vong do tim mạch 
(p=0,002), nhồi máu cơ tim tái phát (p=0,001) tại 
thời điểm 6 tháng so với điều trị nội khoa bảo 
tồn đơn thuần. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Alexander KP, Newby LK, Armstrong PW, Cannon CP, Gibler -
WB et al (2007). "Acute coronary care in the elderly, part II: ST-
segment-elevation myocardial infarction: a scientific statement 
for healthcare professionals from the American Heart 
Association Council on Clinical Cardiology: in collaboration 
with the Society of Geriatric Cardiology". Circulation, 115 (19): 
2570-89. 
2. Amsterdam EA, Wenger NK, Brindis RG, Casey DE Jr, Ganiats 
TG et al (2014). "2014 AHA/ACC Guideline for the Management 
of Patients with Non-ST-Elevation Acute Coronary Syndromes: 
a report of the American College of Cardiology/American Heart 
Association Task Force on Practice Guidelines". J Am Coll 
Cardiol, 64 (24): e139-e228. 
3. Bach RG, Cannon CP, Weintraub WS, DiBattiste PM et al (2004). 
"The effect of routine, early invasive management on outcome 
for elderly patients with non-ST-segment elevation acute 
coronary syndromes". Ann Intern Med, 141 (3): 186-95. 
4. Devlin G, Gore JM, Elliott J, Wijesinghe N et al (2008). 
"Management and 6-month outcomes in elderly and very 
elderly patients with high-risk non-ST-elevation acute coronary 
syndromes: The Global Registry of Acute Coronary Events". Eur 
Heart J, 29 (10): 1275-82. 
5. FRISC II Investigators (1999)."Invasive compared with non-
invasive treatment in unstable coronary-artery disease: FRISC II 
prospective randomised multicentre study. FRagmin and Fast 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa 29 
Revascularisation during InStability in Coronary artery disease 
Investigators". Lancet, 354 (9180): 708-15. 
6. Gierlotka M, Gąsior M, Tajstra M, Hawranek M, Osadnik T et al 
(2013). "Outcomes of invasive treatment in very elderly Polish 
patients with non-ST-segment-elevation myocardial infarction 
from 2003-2009 (from the PL-ACS registry)". Cardiol J, 20(1):34-
43. 
7. Hicks KA, Tcheng JE, Bozkurt B, Chaitman BR et al (2015). "2014 
ACC/AHA Key Data Elements and Definitions for 
Cardiovascular Endpoint Events in Clinical Trials: A Report of 
the American College of Cardiology/American Heart 
Association Task Force on Clinical Data Standards (Writing 
Committee to Develop Cardiovascular Endpoints Data 
Standards)". J Am Coll Cardiol, 66 (4):403-69. 
8. Kashima K, Ikeda D, Tanaka H, Yamashita E, Nagayoshi 
S, Yoshishige Y, Tanoue K, Nagano S, Nuruki N, Yoshinaga 
M, Sonoda M (2010). "Mid-term mortality of very elderly 
patients with acute myocardial infarction with or without 
coronary intervention". J Cardiol, 55 (3): 397-403. 
9. Lee PY, Alexander KP, Hammill BG, Pasquali SK, Peterson ED 
et al (2001). "Representation of elderly persons and women in 
published randomized trials of acute coronary syndromes". 
Jama, 286 (6): 708-13. 
10. Mehta RH et al (2001). "Acute myocardial infarction in the 
elderly: differences by age". J Am Coll Cardiol, 38 (3): 736-41. 
11. O'Gara PT, Kushner FG, Ascheim DD, Casey DE Jr, Chung MK, 
de Lemos JA et al (2013). "2013 ACCF/AHA guideline for the 
management of ST-elevation myocardial infarction: executive 
summary: a report of the American College of Cardiology 
Foundation/American Heart Association Task Force on Practice 
Guidelines". J Am Coll Cardiol, 61 (4): 485-510. 
12. Roffi M, Patrono C, Collet JP, Mueller C et al (2016). "2015 ESC 
Guidelines for the management of acute coronary syndromes in 
patients presenting without persistent ST-segment elevation: 
Task Force for the Management of Acute Coronary Syndromes 
in Patients Presenting without Persistent ST-Segment Elevation 
of the European Society of Cardiology (ESC)". Eur Heart J, 
37(3):267-315. 
13. Tegn N, Abdelnoor M, Aaberge L, Endresen K, Smith P et al 
(2016). "Invasive versus conservative strategy in patients aged 
80 years or older with non-ST-elevation myocardial infarction or 
unstable angina pectoris (After Eighty study): an open-label 
randomised controlled trial". Lancet, 387 (10023):1057-1065. 
14. Thygesen K, Alpert JS, Jaffe AS, Simoons ML et al (2012). "Third 
universal definition of myocardial infarction". Circulation, 
126(16): 2020-35. 
15. Yudi MB, Jones N, Fernando D, Clark DJ et al (2016). 
"Management of Patients Aged >/=85 Years With ST-Elevation 
Myocardial Infarction". Am J Cardiol, 118 (1): 44-8. 
Ngày nhận bài báo: 08/11/2018 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/12/2018 
Ngày bài báo được đăng: 10/03/2019 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ket_qua_ngan_han_cua_phuong_phap_can_thiep_mach_v.pdf