Nghiên cứu các sự cố thường gặp và giải pháp khắc phục khi thi công cọc ly tâm ứng suất trước

TÓM TẮT:

Cọc bê tông ly tâm ứng suất trước là cọc được chế tạo với bê tông mác cao từ 60Mpa đến

85 Mpa trong nhà máy, với dây chuyền công nghệ cao. Mặc dù được thiết kế, tính toán

và công tác chuẩn bị thi công kỹ lưỡng, nhưng các sự cố khi thi công vẫn có thể xảy ra

do các nguyên nhân chủ quan và khách quan. Trên cơ sở thực tế thi công, bài báo đưa

ra một số sự cố thường gặp và giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng của công

trình khi sử dụng phương án cọc ly tâm ứng suất trước.

pdf 9 trang phuongnguyen 4020
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu các sự cố thường gặp và giải pháp khắc phục khi thi công cọc ly tâm ứng suất trước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu các sự cố thường gặp và giải pháp khắc phục khi thi công cọc ly tâm ứng suất trước

Nghiên cứu các sự cố thường gặp và giải pháp khắc phục khi thi công cọc ly tâm ứng suất trước
68 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
NGHIÊN CỨU CÁC SỰ CỐ THƯỜNG GẶP VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 
KHI THI CÔNG CỌC LY TÂM ỨNG SUẤT TRƯỚC
Trần Thị Phương Lan
Khoa Xây Dựng
Email: lanttp@dhhp.edu.vn
Ngày nhận bài: 19/3/2019
Ngày PB đánh giá: 19/4/2019
Ngày duyệt đăng: 29/4/2019
TÓM TẮT: 
Cọc bê tông ly tâm ứng suất trước là cọc được chế tạo với bê tông mác cao từ 60Mpa đến 
85 Mpa trong nhà máy, với dây chuyền công nghệ cao. Mặc dù được thiết kế, tính toán 
và công tác chuẩn bị thi công kỹ lưỡng, nhưng các sự cố khi thi công vẫn có thể xảy ra 
do các nguyên nhân chủ quan và khách quan. Trên cơ sở thực tế thi công, bài báo đưa 
ra một số sự cố thường gặp và giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng của công 
trình khi sử dụng phương án cọc ly tâm ứng suất trước.
Từ khóa: Cọc ống bê tông ly tâm ứng suất trước, nứt dọc, gãy ngang thân, chối giả, mặt bích, 
sức chịu tải, nghiêng lệch, phá hoại.
A STUDY ON THE FREQUENTLY-PROBLEMED PROBLEMS AND 
SOLUTIONS TO REMOVE WHEN APPLICATION OF PRIORITY REPARATIONS
ABSTRACT: The prestressed centrifugal concrete pile is a pile made of high grade 
concrete from 60Mpa to 85 Mpa in a factory, with a high technology line. Although 
designed, calculated and carefully prepared, the construction problems can still occur 
due to subjective and objective reasons. Based on the actual construction, the article 
presents some common problems and solutions to improve the quality of the project 
when using prestressed centrifugal pile plan.
Keywords: Pre-stressed centrifugal concrete pipe piles, longitudinal cracks, horizontal 
fractures, rejection of false, flanges, load-bearing capacity, tilting deviation, sabotage.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Với điều kiện thực tế xây dựng hiện 
nay đại đa số các công trình đều sử dụng 
phương án cọc bê tông cho xử lý nền đất 
nhất là cọc ống bê tông ly tâm ứng suất trước. 
Bằng các ứng dụng công nghệ hiện đại vào 
thi công cọc bê tông ly tâm ứng suất trước 
đã đạt hiệu quả cao hơn cọc bê tông thông 
thường với những ưu điểm vượt trội.
Ưu điểm:
- Cọc được sản xuất trong nhà máy 
bằng quy trình khép kín nên chất lượng cọc 
69TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 34, tháng 05 năm 2019
ổn định, dễ kiểm soát khi thi công và đảm 
bảo chất lượng.
- Do bê tông ứng suất trước nên cọc bê 
tông ly tâm ứng suất trước sẽ không bị biến 
dạng, bị nứt trong quá trình vận chuyển, lắp 
dựng và sử dụng.
- Do bê tông ứng suất trước, kết hợp 
với quay ly tâm đã làm cho bê tông của cọc 
đặc chắc chịu được tải trọng cao, không nứt, 
tăng khả năng chống thấm, chống ăn mòn 
cốt thép, ăn mòn sulphate trong giai đoạn 
khai thác công trình.
- Do sử dụng bê tông và thép cường 
độ cao nên giảm tiết diện bê tông và cốt thép 
dẫn đến trọng lượng cọc giảm thuận lợi cho 
việc vận chuyển, thi công lên hiệu quả kinh 
tế cao hơn cọc thông thường.
- Cọc có chiều dài lớn hơn cọc bê tông 
cốt thép thường nên có ít mối nối hơn.
- Sức chịu tải theo đất nền tăng do: 
Với cùng tiết diện thì cọc tròn có diện tích 
ma sát nhiều hơn cọc vuông vì thế tăng khả 
năng chịu tải.
- Do cọc có hình dạng tròn nên cọc có 
khả năng chịu tải đều.
- Theo Terzaghi tính toán về sức 
kháng mũi của cọc thì. Sức kháng mũi của 
cọc tròn tăng so với cọc vuông vì tăng hệ số 
từ 0,4 lên 0,6.
- Việc sử dụng bê tông cường độ cao 
sẽ làm giảm kích thước ngang của cấu kiện, 
giảm trọng lượng của cấu kiện, sẽ làm tăng 
hiệu quả kinh tế, kỹ thuật.
- Có độ cứng lớn hơn do đó có độ 
võng và biến dạng bé hơn.
Nhược điểm:
- Khả năng chịu cắt của cọc tương 
đối kém.
- Khả năng chịu tải trọng do đập kém.
- Cọc chỉ nên được ứng dụng tại 
những địa điểm có điều kiện địa chất tương 
đối ổn định mềm có thể đóng ép trực tiếp 
được, nhưng vùng có lớp đá phong hóa hoặc 
cát chặt phải dùng biện pháp khoan dẫn.
- Kinh phí đầu tư nhà máy lớn.
Tuy nhiên thực tế thi công các cọc ống 
BTCT ƯST đang diễn ra ở nước ta đã gặp phải 
một số bất ổn, do rất nhiều nguyên nhân từ 
phía các đơn vị tư vấn khảo sát, tư vấn thiết kế, 
nhà thầu và năng lực cũng như tay nghề của tổ 
thợ có thể làm cho kết cấu công trình làm 
việc không như mong muốn của người thiết 
kế, như tình trạng cọc bị gãy, nứt dọc, vỡ đầu, 
nghiêng lệch trên mặt bằng, liên kết không tốt 
với kết cấu bên trên, cọc đã ép đến độ sâu thiết 
kế mà áp lực chưa đạt, cọc chưa ép đến độ sâu 
thiết kế mà áp lực đã đạt
Bài báo này đề cập chi tiết đến các vấn 
đề trên, đi sâu vào phân tích nguyên nhân, từ 
đó đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục các 
sự cố có thể xảy ra trong quá trình thi công.
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Các sự cố thường gặp khi thi công cọc 
ly tâm ứng suất trước
2.1.1. Cọc bị nứt dọc theo thân
Trong quá trình ép cọc, thấy có hiện 
tượng cọc bị nứt dọc theo thân cọc, các 
khe nứt này rộng ra khi lực ép tăng dần, 
nước bên trong trào ra theo các khe nứt 
này mỗi khi búa nện vào đầu cọc.
70 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Hình1: Vết nứt dọc (nhìn bên ngoài và bên 
trong lòng cọc)
(Nguồn: Công trình xây dựng 654-
656 Huỳnh Tấn Phát-TP HCM)
2.1.2. Cọc bị vỡ đầu trong quá trình ép cọc
Hiện tượng này thường gặp phổ biến, 
sau khi cọc đã ép sâu vào nền, mức độ vỡ 
từ nhẹ (chỉ bị vỡ một phần bê tông đầu cọc) 
đến nặng (toàn bộ đầu cọc vỡ nát, thậm chí 
bung cả vòng thép tấm đầu cọc).
Hình 2 :Cọc bị vỡ đầu sau khi đóng ép
(Nguồn: Công trình xây dựng 654-
656 Huỳnh Tấn Phát-TP HCM)
2.1.3. Cọc bị nghiêng lệch quá mức cho 
phép trong quá trình đóng cọc
Trường hợp này thường xảy ra đối với 
các cọc được tổ hợp từ nhiều phân đoạn trong 
quá trình đóng, càng về giai đoạn cuối của quá 
trình đóng cọc càng lệch nhiều, cả về tọa độ 
đầu cọc trên mặt bằng và về độ nghiêng của 
trục cọc có thể làm cọc gẫy ngang thân như 
trong hình vẽ này.
Hình 3: Cọc bị gẫy ngang thân khi ép
(Nguồn: Khu nhà ở - văn phòng - dịch 
vụ Goldmark City)
2.1.4. Cọc gặp vật cản
- Đang ép cọc xuống bình thường, chưa 
đạt được độ sâu thiết kế bỗng nhiên xuống 
chậm hẳn lại hoặc không xuống.
- Cọc bị dịch chuyển trong mỗi hành 
trình ép.
- Ép cọc vào tầng đá nghiêng, mũi cọc bị 
chạy nghiêng đi. Có thể là do gãy cọc hoặc là 
cọc bị nghiêng chệch rồi gãy.
2.1.5. Hiện tượng chối giả
Cọc chưa đạt tới độ sâu thiết kế (thường 
còn rất cao) mà lực ép của cọc đã đạt lực ép 
thiết kế thậm chí vượt lực thiết kế.
Sự cố này thường xảy ra với các vùng 
địa chất mà mũi cọc chống vào lớp cát chặt 
hoặc chặt vừa có chỉ số SPT thường từ 24 búa 
chở lên ở độ sâu lớn hơn ≥ 30, các lớp phía 
trên là đất yếu, sau khi thi công cọc xong xây 
dựng công trình lên quan trắc vẫn thấy lún.
71TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 34, tháng 05 năm 2019
2.1.6. Cọc bị phá hoại do vượt quá khả 
năng chịu tải
Cọc chịu mômen quá lớn gây nên 
hiện tượng gẫy cọc hoặc chịu lực dọc lớn 
gây nên lún công trình trong giai đoạn sử 
dụng. Sự cố này thường xảy ra với các vùng 
địa chất là sét cứng với mật độ ép cọc dày 
và tải trọng đóng ép cao khi đóng ép xong 
cây cọc kiểm tra thấy bình thường, sau khi 
đóng ép một lượng cọc lớn khác xuống thì 
cọc này thấy bị nứt gãy thân cọc ở phần giữa 
và mối nối thân cọc.
2.2. Nguyên nhân và giải pháp khắc phục
2.2.1. Cọc bị nứt dọc theo thân
- Nguyên nhân:
Hiện tượng này thường gặp ở các 
cọc có mũi hở, thân cọc chìm trong nước 
hoặc trong quá trình thi công nước rò rỉ 
vào lòng cọc ở các mối nối không đủ kín. 
Trường hợp này cho thấy cốt đai xoắn cấu 
tạo trong cọc không đủ khả năng chịu tác 
động của các ngàm kẹp của Robot do lực 
kẹp cọc quá cao hoặc do trong quá trình 
sản xuất ván khuôn cọc không kín khít lên 
khi quay ly tâm cọc bị mất nước xi măng 
tạo thành các khe rỗng không chịu được 
lực lên khi ép bị phá hoại.
- Giải pháp:
+ Trong quá trình sản xuất phải kiểm 
tra độ hở của ván khuôn nếu hở phải dùng 
đệm thêm vào ván khuôn cho kín tránh cho 
cọc bị mất nước xi măng.
+ Điều chỉnh lực kẹp cọc cho phù hợp 
với từng loại cọc (trên mỗi Robots ép cọc 
đền có van điều chỉnh lưu lượng dầu và van 
điều chỉnh áp lực dầu cho mỗi bộ phận của 
máy) và thử đi thử lại vài lần nếu thấy được 
mới tiến hành ép cọc.
+ Theo 22TCN 289-02 – điều 7.6.9. 
có nêu “Để giảm áp lực thủy động bên 
trong cọc ống,cần hút nước ra khỏi lòng cọc 
bằng các bơm sâu hoặc các phương pháp 
khác. Cho phép sử dụng phương pháp giảm 
áp lực thủy động bằng cách truyền khí nén 
vào phần dưới của cột nước trong lòng cọc 
ống, có áp lực 0,6 đến 0,8MPa.
Tuy nhiên, thực hiện các biện pháp 
này khá khó khăn trong khi đang đóng cọc. 
Tác giả kiến nghị các giải pháp sau:
1. Thay mũi cọc hở bằng mũi cọc kín 
để nước không thể vào trong lòng cọc trong 
quá trình đóng cọc (giải pháp này phải can 
thiệp vào thiết kế, có thể cần tính toán kiểm 
tra lại chiều dài cọc thiết kế hoặc sức chịu 
tải của cọc theo đất nền), đồng thời kiểm tra 
độ kín nước của các mối nối cọc.
2. Trong trường hợp vẫn sử dụng mũi 
cọc hở, theo kinh nghiệm nên bố trí lỗ trên 
thân cọc với đường kính tối thiểu 30mm để 
giảm áp lực thủy dộng trong lòng cọc đồng 
thời bố trí máy bơm hút nước trong lòng cọc 
trong khi đóng hạ cọc. Bên cạnh các lưu ý 
về biện pháp thi công thì chất lượng của các 
vật liệu chế tạo cọc như thành phần bê tông, 
đường kính sợi thép căng, số lượng sợi thép 
căng, lực căng, v.v, quy trình dưỡng hộ cọc 
cũng cần phải được quan tâm kiểm soát.
3. Sau khi dựng cọc xuống nền (nhưng 
chưa đóng) thì tiến hành lấp đầy lòng cọc 
(bằng các vật liệu thích hợp) để không cho 
nước chiếm chỗ. Giải pháp này phù hợp với 
điều 7.4.8. và 7.4.9. của 22TCN 289-02 [4].
72 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
4. Tăng khả năng chịu lực của cốt 
đai (tăng đường kính cốt đai hoặc tăng dày 
bước đai,).
2.2.2. Cọc bị vỡ đầu trong quá trình ép cọc
- Nguyên nhân:
Vỡ đầu cọc khi đóng là hiện tượng 
phổ biến không những của cọc ống BTCT 
ƯST mà còn của tất cả các loại cọc BTCT, 
tuy nhiên qua phân tích từ thực tế cấu tạo 
cọc và giải pháp thi công hạ cọc, nhận thấy 
ở cọc ống BTCT ƯST có một số đặc điểm 
riêng nên dễ bị vỡ đầu hơn, mặc dù bê tông 
và cốt thép của chúng có cường độ cao hơn 
so với cọc BTCT thông thường nhiều:
+ Bề dày không lớn so với đường 
kính ngoài, đường kính ngoài của cọc càng 
lớn thì kết cấu cọc thuộc loại càng mỏng 
(tham khảo ở bảng 1). Đường kính ngoài 
càng lớn thì ma sát hông và sức kháng mũi 
càng lớn, dẫn đến sức chịu tải của cọc theo 
đất nền lớn.
+ Do trong quá trình ép cọc dùng cọc 
dẫn ép dẫn cọc xuống đất người vận hành 
cẩu thả không căn chỉnh hai mặt đầu cọc 
dẫn và cọc ép tiếp xúc hết vào nhau làm cho 
cọc chịu lực không đều gây ra vỡ đầu cọc.
+ Đầu cọc không có cấu tạo đặc biệt 
để chịu ứng suất phát sinh do lực ép bị lệch 
tâm ngoài vòng thép tấm quanh miệng cọc. 
Tuy nhiên vòng thép này có chiều cao 
(theo phương trục cọc) không lớn (khoảng 
150-200mm) so với phạm vi ảnh hưởng của 
lực xung kích nên hiệu quả không cao. Mặt 
khác thiếu các chi tiết neo để liên kết vòng 
thép này vào phần bê tông cọc nên nhiều 
trường hợp vòng thép bị tách ra khỏi phần 
be tông trong quá trình thi công cũng như 
khai thác.
Hình 4: Vòng thép đầu cọc chưa có chi tiết 
liên kết vào bê tông đầu cọc
(Nguồn: Công trình xây dựng 654-656 
Huỳnh Tấn Phát-TP HCM)
+ Cấu tạo mũi cọc điển hình của 
các nhà sản xuất cọc ống cũng chưa thật 
sự hợp lý vì đều làm loại mũi bằng (hình 
2.4), không thấy khuyến cáo nên dùng cho 
trường hợp nào, dễ dẫn đến việc đơn vị 
thiết kế nghĩ rằng mũi cọc này thích hợp 
cho mọi trường hợp địa chất. Theo TCXD 
205:1998 “Móng cọc – Tiêu chuẩn thiết 
kế” – điều 3.3.3. thì loại mũi bằng chỉ nên 
dùng trong nền đất sét đồng nhất. Thực tế 
cho thấy mũi cọc loại bằng làm cho việc 
ép cọc khó khăn hơn mũi loại nhọn nhiều 
và đầu cọc dễ bị lệch khỏi phương hạ cọc 
(đây là một nguyên nhân dễ dẫn đến lệch 
cọc sau khi đóng đến độ sâu thiết kế), cọc 
khó xuống khi độ chối nhỏ, lực ép lớn rất 
dễ gây vỡ đầu cọc.
73TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 34, tháng 05 năm 2019
Hình 5: Chi tiết mũi cọc loại bằng của nhà 
sản xuất và thực tế chế tạo
(Nguồn: Cọc bê tông ly tâm Phan Vũ)[5]
- Giải pháp: Ta cần thực hiện những 
việc sau:
+ Chỉ nên dùng lực ép vừa đủ khoảng 
70% theo sức chịu tải vật liệu của cọc để 
hạ cọc, không lựa chọn cọc có đường kính 
nhỏ mà ép sâu dẫn đến độ mảnh lớn (đường 
kính cọc càng lớn thì độ mảnh của thành cọc 
càng lớn).
+ Khi dùng cọc dẫn để ép cọc xuống 
âm mặt đất phải căn chỉnh sao cho mặt cọc 
dẫn và mặt cọc ép phải khít tiếp xúc hết vào 
nhau tránh ép lệch cọc.
+ Cấu tạo lại đầu cọc cho hợp lý hơn 
trong việc chịu các tải xung lực, đảm bảo bê 
tông và thép (thép cốt, thép hình) thành một 
khối thống nhất, khó bị tách rời (như thêm 
các râu thép neo vành thép vào bê tông).
+ Sử dụng đệm đầu cọc thích hợp 
(không quá cứng cũng như không quá mềm).
+ Cấu tạo mũi cọc loại nhọn thay cho 
loại bằng.
Hình 6: Mũi cọc ống loại nhọn
(Nguồn: Cọc bê tông ly tâm Phan Vũ)[5]
2.2.3. Cọc bị nghiêng lệch quá mức cho 
phép trong quá trình đóng cọc
- Nguyên nhân: Những nguyên nhân 
chủ quan gây nghiêng lệch cọc khi đúc 
cọc như mũi cọc bị lệch, trục cọc bị cong, 
mặt phẳng đầu cọc không vuông góc trục 
cọc, gặp rất phổ biến ở các cọc đúc tại 
công trường nhưng hầu như rất ít khi gặp 
ở cọc ống BTCT ƯST vì được đúc tại nhà 
máy trong những điều kiện khá chuẩn. 
Trừ việc đóng cọc trên mái đất nghiêng 
là nguyên nhân khách quan gây nghiêng 
lệch đối với mọi loại cọc (không thể khắc 
phục) thì trong thực tế cọc ống BTCT ƯST 
bị nghiêng lệch chủ yếu là do dùng mũi 
cọc loại bằng và công tác nối cọc thực hiện 
không chuẩn (nối cọc trên giá búa dễ gây 
lệch trục hơn nối trên mặt bằng), phân 
đoạn cọc càng ngắn thì cọc có càng nhiều 
mối nối, khả năng lệch khỏi trục chính của 
cọc càng nhiều.
- Giải pháp: 
+ Khi chọn cấu tạo mũi cọc nếu không 
vì những lý do đặc biệt thì nên dùng mũi cọc 
loại nhọn, về mặt kỹ thuật thì càng nhọn càng 
74 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
tốt (tuy nhiên chi phí lớn).
+ Chiều dài đoạn cọc chọn càng lớn 
càng tốt. Điều này còn giúp rút ngắn thời 
gian hạ cọc, tăng độ tin cậy về khả năng 
chịu lực theo vật liệu của cọc.
+ Khi cọc đã bị xiên, hàn nối đoạn 
tiếp theo có thể đệm thêm mặt bích để giảm 
độ xiên hoặc phải ép xiên theo đoạn trước 
và không cố lắn cho cọc thẳng rồi ép sẽ làm 
cọc bị gẫy ngang thân.
2.2.4. Cọc gặp vật cản
- Nguyên Nhân: Có thể cọc gặp vật 
cản như đá mồ côi, hay một lớp đá mỏng, 
hoặc các vật cản khác trong quá trình san 
lấp mặt bằng không loại bỏ...
- Giải pháp: 
- Giải pháp: Ngừng ép, nhổ cọc lên và 
phá vật cản bằng cách ép một cọc dẫn bằng 
ống thép đầu nhọn, khoan dẫn hoặc nổ mìn 
để vật cản. Sau đó tiếp tục ép cọc tới khi đạt 
yêu cầu. 
Thực tế thì có nhiều cách để kiểm tra 
cọc đã đạt yêu cầu mà đề nghị dừng ép, nếu 
ép cố thì có thể vỡ cọc, mất tim, tốn cọc bù, 
tốn thời gian chờ.
2.2.5. Hiện tượng chối giả
- Nguyên Nhân:
+ Do ép cọc quá nhanh, đất xung qua-
nh cọc bị lèn ép quá chặt gây nên ma sát lớn 
giữa cọc và đất.
+ Hoặc địa chất công trình có xen 
lẫn lớp cát chặt, hoặc lớp sét Laterit Nói 
chung là do sức kháng ở mũi quá lớn.
+ Do mũi cọc mới chỉ chớm chạm 
vào lớp cát chứ chưa ngàm vào lớp cát chặt, 
trong quá trình các cọc khác đã làm đất bị 
chiếm thể tích không kịp thoát nước lỗ rỗng 
đã đẩy cọc chồi.
- Giải pháp: 
+ Tạm ngừng ép trong 2 ngày để đất 
xung quanh cọc nở lại rồi mới tiếp tục ép.
+ Trong thực tế có hiện tượng bó đất, 
đất sau khi bị xáo động quanh thân sẽ giãn 
nở lại gần trạng thái cũ, thời gian chờ càng 
lâu chờ càng tốt. Trường hợp lớp cứng là 
cát, nếu lực ép cao thì nghỉ chừng 30 – 60 
phút sau đó ép tiếp.
+ Khi ép cọc đến lực ép đã quy định 
trước khi đã đạt chiều sâu thiết kế vẫn phải 
ép làm lại 3 lần mỗi lần giữ tải ở lực quy 
định khoảng 3 phút để mũi cọc được ngàm 
sâu vào lớp đất cứng.
Hiện nay các máy Robot ép cọc của 
các đơn vị thi công thường không giữ được 
tải do máy thiết kế không có hệ thống ngắt 
van cấp dầu thủy lực để giữ tải và người thợ 
vận hành cũng không lắm rõ được nguyên 
lý hoạt động của bơm cung cấp dầu áp lực. 
Với kinh nghiệm của tác giả đã đưa ra biện 
pháp khắc phục nhược điểm trên là khi ép 
cọc đến lực ép cần thiết thì điều chỉnh van 
áp lực cấp dầu chính sao cho áp lực chỉ vừa 
đủ với lực cần ép, khi ép cọc đến lực ép đó 
máy sẽ không thể lên được áp lực thêm và 
dừng lại nên có thể giữ được lực theo thời 
gian cần thiết [1].
75TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 34, tháng 05 năm 2019
Hình 7: Hình ảnh van điều chỉnh áp lực ép 
cọc trên máy Robot ép cọc
(Nguồn: Cọc bê tông ly tâm Phan Vũ)[5]
2.2.6. Cọc bị phá hoại do vượt quá khả 
năng chịu tải
- Nguyên nhân:
+ Do cọc đóng ép với tải trọng lớn và 
sâu, mật độ cọc dày nên khi đóng cọc xuống 
đã làm đất xô nén những cây cọc đã đóng trước 
làm gãy thân cọc hoặc bung mối hàn hoặc đứt 
thép, điểm đứt thường tiếp giáp với bích cọc.
+ Do lựa trọn chủng loại cọc chưa đủ 
cứng để kháng được sự dồn đất
+ Do tay nghề công nhân hàn cọc 
chưa tốt hoặc cẩu thả trong công tác hàn 
nối cọc.
- Giải pháp:
+ Không tập trung máy ép cọc quá 
nhiều và ép cọc quá nhanh trên một phần 
vùng ép cọc làm dồn đất dẫn đến xô gãy cọc, 
tập trung nhiều máy ép sẽ làm khu vực này 
chịu thêm nhiều tải trọng cũng tự nén đất 
xuống tạo áp lực dồn đất sang các vùng đất 
đã ép cọc, đất đã bị phá vỡ và chảy dẻo [2].
+ Lựa chọn chủng loại cọc đủ cứng để 
kháng lại lực do dồn đất gây ra (Cọc ly tâm 
hiện nay có 3 loại phân theo khả năng chịu 
lực nén dọc trục và lực chịu uốn của cọc) [2].
+ Lựa chọn thợ hàn có tay nghề cao 
và loại cọc thiết kế mối hàn có bản mã nối 
thêm bên ngoài như hình dưới đây [2].
Hình 8: Hàn nối cọc có bản táp 
 Hình 9: Hàn nối cọc không có bản táp
(Nguồn: Công trình xây dựng triền 
tàu Nhà máy X46/QCHQ[2])
3. KẾT LUẬN
Cọc ống BTCT ƯST ngày càng được 
sử dụng rộng rãi trong nhiều loại công trình. 
Việc hiểu rõ những nguyên nhân gây nên các 
sự cố liên quan đến cấu kiện cọc, đặc biệt là 
trong giai đoạn thi công sẽ giúp chúng ta 
phòng tránh một cách hiệu quả những hiện 
tượng trên. Các biện pháp phòng tránh mà 
tác giả đề xuất chỉ là một số trong rất nhiều 
những giải pháp hợp lý đã và đang được áp 
dụng, xuất phát từ nghiên cứu lý thuyết hoặc 
từ thực tiễn thi công, hoặc kết hợp cả hai.
Qua nghiên cứu lý thuyết và thực tế 
sản xuất thi công cọc bê tông ly tâm ứng 
76 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
suất tác giả bài báo đã đưa ra được các vấn 
đề sau:
- Nêu lên được các hiện tượng xuất 
hiện khi xảy ra các sự cố thường gặp trong 
thực tế sản xuất thi công cọc bê tông ly tâm 
ứng suất trước.
- Phân tích nguyên nhân của các 
sự cố.
- Đề xuất giải pháp khắc phục và 
phòng ngừa các sự cố trong thực tế thi công.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Khúc Văn Ngân (2015), Nghiên cứu giải pháp thi công cho cọc ống ly tâm ứng suất trước 
bằng Robots ép cọc, Luận văn thạc sỹ kỹ thuật, Trường Đại học Dân Lập Hải Phòng.
2. Liên danh Cienco1, Trung Chính, Hồng Hà, Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu 
đô thị mới bắc sông Cấm, Thành phố Hải Phòng.
3. TCXD 205:1998 – Móng cọc – Tiêu chuẩn thiết kế, Việt Nam.
4. 22TCN 289-02 – Qui trình kỹ thuật thi công và nghiệm thu công trình bến cảng, Việt Nam.
5. Thông số kỹ thuật sản phẩm của Công ty CP Đầu tư Phan Vũ, Việt Nam (2009).

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_cac_su_co_thuong_gap_va_giai_phap_khac_phuc_khi_t.pdf