Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam
Tóm tắt: Trong những năm gần đây, hệ thống ngân hàng phát triển mạnh về bề
rộng và được củng cố theo chiều sâu, năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương
mại (NHTM) phần nào được cải thiện. Tuy nhiên, những gì diễn ra trên thị trường
tài chính Việt Nam đã bộc lộ nhiều yếu kém về vốn, quy mô, chất lượng dư nợ,
cho thấy sức cạnh tranh của các ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền
vững, đặc biệt khi Việt Nam phải dỡ bỏ rào cản hạn chế đối với hoạt động ngân hàng
nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam. Nghiên cứu này sẽ đề cập đến những điểm yếu đó
trên bình diện hệ thống và nhóm các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN),
bao gồm các ngân hàng quốc doanh đã cố phần, nhưng Nhà nước nắm giữ vốn với tý
lệ khống chế.
Bạn đang xem tài liệu "Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam
Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI 55Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 1. Trên bình diện hệ thống a) Quy mô của hệ thống Hiện nay, hệ thống NHTM hoạt động tại Việt Nam có đầy đủ các loại hình ngân hàng, với quy mô khác nhau. Tính đến 31/12/2018, hệ thống này bao gồm 4 ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD), 31 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP), trong đó có 3 NHTMQD đã cổ phần hóa là NHTMCP Công Thương Việt Nam (Vietinbank), NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), NHTMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB), 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài (NHVNNg)và 2 ngân hàng liên doanh (NHLD). Hầu hết các ngân hàng đều có mạng lưới ở các thành phố lớn; một số NHTMCP đã vươn tới những nơi mà trước đây chỉ có sự hiện diện của các NHTMNN. Một số đặc điểm của toàn hệ thống ngân hàng (không tính các NHLD và các NHVNNg) thể hiện trong B. 1. NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM ThS. Vũ Thị Thu Hương * Tóm tắt: Trong những năm gần đây, hệ thống ngân hàng phát triển mạnh về bề rộng và được củng cố theo chiều sâu, năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại (NHTM) phần nào được cải thiện. Tuy nhiên, những gì diễn ra trên thị trường tài chính Việt Nam đã bộc lộ nhiều yếu kém về vốn, quy mô, chất lượng dư nợ, cho thấy sức cạnh tranh của các ngân hàng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững, đặc biệt khi Việt Nam phải dỡ bỏ rào cản hạn chế đối với hoạt động ngân hàng nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam. Nghiên cứu này sẽ đề cập đến những điểm yếu đó trên bình diện hệ thống và nhóm các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), bao gồm các ngân hàng quốc doanh đã cố phần, nhưng Nhà nước nắm giữ vốn với tý lệ khống chế. Từ khóa: Ngân hàng thương mại, tổng tài sản, dư nợ cho vay, năng lực cạnh tranh, GDP Abstract: The banking system has rapidly developed in width and been strengthened in depth, in recent years, the competitive capacity of the commercial banks has somewhat been improved. What has been taking place in Vietnam financial market has , however, exposed a number of weaknesses in capital, scale, quality, debts, which proves that the competitive capacity of these banks hasn’t satisfied the requirements of sustainable development, especially when Vietnam has to lift up the restrictions on foreign banking activities in Vietnam. This study will deal with the weaknesses in the system and in group of state-owned commercial banks including the stated joint-stock banks with the state capital at a controlled rate. Keywords: Commercial bank, total assets, odd debts, competitive capacity * Chuyên viên phòng Quản lý – Đào tạo Trường ĐH KD&CN HN NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý 56Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 Số liệu trên đây cho chúng ta thấy hai vấn đề: Thứ nhất, quy mô vốn chủ sở hữu của hệ thống ngân hàng Viêt Nam là rất khiêm tốn, chiếm hơn 6% trên tổng nguồn vốn. Có ý kiến cho rằng vốn tự có của ngân hàng không phải là vấn đề mấu chốt quyết định đối với năng lực cạnh tranh của các NHTM. Khi tham khảo ý kiến này với nhiều chuyên gia ngành ngân hàng, hầu như không ai đồng tình. Các chuyên gia cho rằng nguồn lực tài chính đó của ngân hàng có vai trò lớn, nếu không nói nó là quyết định, đối với khả năng cạnh tranh của bất cứ ngân hàng nào. Về mặt lý thuyết, điều này đã được chứng minh. Giả định, nếu có hai ngân hàng A và B với các số liệu cân đối như B. 2. Bảng 1. Quy mô tổng giá trị tài sản, vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ và dư nợ của toàn hệ thống ngân hàng 2016 2017 2018 Các tiêu chí Số tuyệt Tốc độ Số tuyệt Tốc độ Số tuyệt Tốc độ đối, tăng, đối, tăng, đối, tăng, nghìn tỷ % nghìn tỷ % nghìn tỷ % Tổng tài sản 7.385 41,2 8.598 16,4 9.418 9,5 Vốn chủ sở hữu 483 10,0 545 12,8 606 11,2 Vốn/Tổng tài sản, % 6,5 6,3 6,4 Vốn điều lệ 348 5,1 361 3,7 416 15,2 Dư nợ 5.337 18,2 6.509 18,2 7.420 14,0 Dư nợ/Tổng tài sản, % 72 75 80 Nguồn: sbv.gov.vn, cafef.vn và tính toán của tác giả Báng 2. Các số liệu cấn đối của ngân hàng A và ngân hàng B, tỷ đồng Ngân hàng A Ngân hàng B Tài sản Có Tài sản Nợ Tài sản Có Tài sản Nợ Dự trữ 70 Vốn chủ sở hữu 3.000 Dự trữ 80 Vốn chủ sở hữu 2.000 Cho vay 9.930 Vốn huy động 7.000 Cho vay 9.920 Vốn huy động 8.000 - Ngân hàng A (vốn chủ sở hữu 3.000 tỷ) có khả năng trội hơn ngân hàng B (vốn chủ sở hữu 2.000 tỷ). Vốn chủ sở hữu lớn hơn có thể: đầu tư trang bị công nghệ, mở rộng mạng lưới phân phối sản phẩm, thu hút nhân tài, nhân lực có trình độ chuyên môn nghiệp vụ (khi có cơ hội lựa chọn, người ta thường sẽ lựa chọn ngân hàng có nguồn lực tài chính nội tại mạnh hơn), phát triển khách hàng, mở rộng sản phẩm và dịch vụ, - Ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn có khả năng duy trì và chống đỡ mọi rủi ro tốt hơn ngân hàng có vốn chủ sở hữu ít hơn. Giả sử mọi điều kiện khác là như nhau hoặc không có sự can thiệp của cơ quan bảo hiểm tiền gửi, hỗ trợ từ Ngân hàng Trung ương, từ các tổ chức tín dụng khác, nếu hai ngân hàng bị thất thoát vốn trong kinh doanh là 2.000 tỷ, thì ngân hàng B sẽ “cạn vốn chủ sở hữu”, trong khi ngân hàng A vẫn còn 1.000 tỷ. (ngân Nguồn: Giả định của tác giả Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI 57Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 hàng có trách nhiệm phải hoàn trả lại cho chủ nợ vốn huy động của nền kinh tế). Thứ hai, tương quan tổng tài sản, dư nợ của hệ thổng với tổng sản phẩm quốc nội GDP. - Tỷ lệ tổng tài sản/GDP của Việt Nam khá cao, con số này trong hai năm gần đây xấp xỉ 170%, Tỷ lệ này ở các nước cũng không giống nhau. Ví dụ: Nhật Bản là 238%; Hy Lạp – 182%; Mỹ – 105%; những nước đang phát triển thấp hơn Việt Nam rất nhiều như Ai Cập – 103%, Mông Cổ – 84%, Brazil – 83% (ndh.vn). Nếu so sánh Việt Nam với các nước, Việt Nam có thể thấp hơn một số nước, như Nhật Bản hay Mỹ, nhưng nếu phân tích về điều kiện kinh tế, có thể thấy tỷ lệ này của Việt Nam là tương đối cao. Nếu kinh tế vĩ mô biến động, hệ thống ngân hàng rất dễ bị ảnh hưởng tiêu cực. Tỷ lệ tổng tài sản/GDP cũng cho thấy mức độ phụ thuộc của nền kinh tế vào khu vực ngân hàng và chứng tỏ vốn cho nền kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc vào khu vực ngân hàng. Khi khu vực ngân hàng không thực hiện được tốt chức năng dẫn vốn, thì nền kinh tế tất yếu sẽ bị suy giảm mạnh và ngược lại, hệ thống ngân hàng dễ bị tổn thương khi kinh tế vĩ mô bất ổn. - Tổng dư nợ/GDP cũng dao động ở mức 115-135%. Khi tỷ lệ tín dụng trên GDP cao thì sự ổn định của hệ thống tài chính nói riêng và của nền kinh tế nói chung sẽ trở nên nhạy cảm hơn với những biến động về lãi suất. Một sự gia tăng nhỏ của lãi suất có thể khiến nghĩa vụ trả lãi gia tăng đáng kể và tính bền vững của nền kinh tế bị suy giảm,... Thêm vào đó, tỷ lệ tín dụng trên GDP cao không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với việc khu vực sản xuất được cấp vốn nhiều hơn, mà có thể biểu hiện ở việc dòng vốn chảy vào các thị trường tài sản, như chứng khoán, bất động sản, do đó dễ dẫn tới bong bóng giá tài sản. Một khi bong bóng bất động sản xì hơi, hệ thống ngân hàng sẽ khủng hoảng, có thể dẫn đến sụp đỗ, không còn điều kiện để cạnh tranh. b. Nợ quá hạn/nợ xấu trong hệ thống Nợ xấu kìm hãm năng lực hoạt động, làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các NHTM. Do nợ xấu, nhiều ngân hàng “dậm chân” tại chỗ. Ngân hàng Trung ương bắt buộc phải mua lại một số ngân hàng “0 đồng”. Theo báo cáo tổng hợp kết quả năm 2017 của Tổng kiểm toán Nhà nước, nợ xấu của ngân hàng Dầu khí Toàn cầu là 2.800 tỷ đồng, chiếm 59,32% dư nợ; ngân hàng Đại Dương – 14.234 tỷ, chiếm 72,25% dư nợ, ngân hàng Xây dựng Việt Nam – 18.073 tỷ (của khách hàng, chưa kể của các tổ chức tài chính, tổ chức tín dụng) thì nợ xấu của khách hàng (chưa bao gồm các tổ chức tài chính và tổ chức tín dụng), chiếm 95% dư nợ. Tổng kiểm toán Nhà nước cũng cho rằng thực trạng tài chính của các ngân hàng “0 đồng” không được cải thiện, hoạt động kinh doanh tiếp tục thua lỗ lớn. Bảng 3. Tương quan của hệ thống ngân hàng với nền kinh tế Năm Tổng tài sản, Dư nợ, GDP, Tổng tài sản/ Tổng dư nợ/ nghìn tỷ nghìn tỷ nghìn tỷ GDP, % GDP, % 2016 7.385 5.337 4.667 158 114 2017 8.598 6.509 5.008 172 130 2018 9.418 7.428 5.535 170 134 Nguồn: NHNN, Tổng cục Thống kê và tính toán của tác giả NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý 58Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 Theo B. 4, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống các NHTM các năm 2016-2018 đã giảm đáng kể. Trong điều kiện bình thường, có thể thấy tỷ lệ nợ xấu khá thấp (dưới 3%). Tuy nhiên, nếu theo con số tuyệt đối, thì nợ xấu của ngân hàng lại đang tăng lên, nhanh nhất vào năm 2018. Từ những vấn đề nêu trên, có thể thấy rằng cần tăng cường quản trị ngân hàng nói chung, và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng, nếu không NHTM Việt Nam sẽ “thua” ngay trên sân nhà trong tiến trình hội nhập. Vấn đề không chỉ nằm trong năng lực cạnh tranh của ngân hàng, mà còn tác động đến năng lực cạnh tranh quốc gia. 2. Năng lực cạnh tranh của nhóm các ngân hàng thương mại nhà nước Để có cái nhìn cụ thể về năng lực cạnh tranh của NHTM Việt Nam, tác giả bài viết đã khảo sát năng lực cạnh tranh của nhóm các NHTMNN, bao gồm các ngân hàng Nhà nước sở hữu 100% vốn và các NHTMQD đã cổ phần mà Nhà nước góp vốn với tỷ lệ khống chế, không kể các ngân hàng “0 đồng”. Đó là các ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngoại Thương Việt Nam (VCB) và Công Thương Việt Nam (Vietinbank). Việc khảo sát thực hiện theo 4 tiêu chí: tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, tổng dư nợ tín dụng và chất lượng tài sản Có (thông qua chất lượng nợ), vị thế của các ngân hàng trong bảng xếp hạng của thế giới. a) Tổng tài sản, vốn chủ sở hữu, tổng dư nợ tín dụng và nợ quá hạn Có dấu hiệu tích cực là nhóm các NHTMNN đều tăng trưởng ở cả ba tiêu chí, không có ngân hàng nào sụt giảm. Vốn chủ sở hữu tăng khá nhanh, đặc biệt là trong năm 2018. Nguyên nhân là do các ngân hàng đang đối mặt với áp lực tăng vốn chủ sở hữu để nâng tỷ lệ an toàn vốn (CAR). Theo Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, CAR của các ngân hàng này đã tiệm cận mức 9%, nếu áp dụng Basel II, CAR sẽ giảm xuống dưới 8%. Để đảm bảo CAR theo chuẩn Basel II thì các ngân hàng buộc phải tăng vốn chủ sở hữu. Bảng 4. Tương quan của nợ xấu của ngân hàng với tổng dư nợ Các tiêu chí Đơnvị tính 2016 2017 2018 Tổng dư nợ Nghìn tỷ 5.337 6.509 7.420 Nợ xấu Nghìn tỷ 131 130 142 Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ % 2,46 1,99 1,91 Nguồn: NHNN và tính toán của tác giả Bảng 5. Tổng tài sản, vốn chủ sở hữu và tổng dư nợ tín dụng của nhóm các ngân hàng thương mại nhà nước 2016 2017 2018 Các tiêu chí Số tuyệt Số tuyệt Tốc độ Số tuyệt Tốc độ đối, đối, tăng, đối, tăng, nghìn tỷ nghìn tỷ % nghìn tỷ % Tổng tài sản 3.745.370 4.485.542 19,8 4.833.948 7,8 Vốn chủ sở hữu 197.192 213.616 8,3 242.906 13,7 Dư nợ tín dụng 2.636.136 3.137.991 19,0 3.520.897 12,2 Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTMNN và tính toán của tác giả Kinh tế - Quản lý NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI 59Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 Tuy nhiên, B. 5 cho thấy một loạt vấn đề tiềm ẩn gây rủi ro, làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các NHTMNN. - Tốc độ tăng tổng tài sản và dư nợ cho vay đang chậm lại. Tính đến năm 2018, tốc độ tăng tổng tài sản của các ngân hàng này chưa bằng ½ so với năm 2017. Theo Ngân hàng Trung ương, khối các NHTMNN có tốc độ tăng tài sản thấp nhất hệ thống. Cụ thể: tính đến năm 2018, theo báo cáo tài chính của các ngân hàng, thì Agribank có tốc độ tăng tài sản cao nhất (11,2%), tiếp đến là BIDV (9,2%), Vietinbank (6,3%) và thấp nhất là VCB (3,7%), tuy năm 2017 cao nhất trong nhóm (31,4%). Tương tự, tốc độ tăng dư nợ cho vay cũng sụt giảm nhanh trong năm 2018, thấp nhất là Vietinbank, chỉ tăng 6,1%, cao nhất là VCB và Agribank, cùng đạt 14,6%. Điều này cho thấy sự tăng trưởng khá “bấp bênh” của nhóm các NHTMNN, vì chưa tận dụng được lợi thế về tiềm lực tài chính để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, có dấu hiệu tụt lại sau trong quá trình cạnh tranh giữa các ngân hàng. - Năm 2017, tốc độ tăng vốn chủ sở hữu chậm hơn so với tốc độ tăng tài sản. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến CAR, có nghĩa là các ngân hàng đang có nguy cơ bị mất an toàn vốn, rủi ro có khả năng xảy ra. Bảng 6. Tình hình nợ của các ngân hàng Tình trạng nợ Đơn vị tính 2016 2017 2018 Nợ nhóm 1 Tỷ đồng 2.474.747 2.961.322 3.369.769 Nợ nhóm 2 Tỷ đồng 72.738 58.640 65.535 Nợ nhóm 3 Tỷ đồng 11.712 10.162 11.025 Nợ nhóm 4 Tỷ đồng 6.520 13.682 13.133 Nợ nhóm 5 Tỷ đồng 25.590 23.439 30.641 Nợ quá hạn Tỷ đồng 116.560 105.923 120.234 Nợ xấu Tỷ đồng 43.822 47.283 54.799 Tỷ lệ nợ quá hạn % 4,42 3,38 3,41% Tỷ lệ nợ xấu % 1,66 1,34 1,56 Nguồn: tác giả tổng hợp và tính toán từ báo cáo tài chính của các ngân hàng Mặc dù vẫn ở ngưỡng an toàn, nhưng không thể khẳng định rằng tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu của các ngân hàng này thấp được. Tính đến cuối năm 2018, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu của các NHTMNN đột ngột tăng cao so với cùng kỳ năm ngoái. Đặc biệt dễ dàng nhận thấy, nợ nhóm 5 – nợ có khả năng mất vốn khá cao, thậm chí cao hơn nhiều so với nợ nhóm 2 và 3, đồng nghĩa với việc các ngân hàng hoàn toàn có thể mất số tiền này khi không thu hồi được nợ. Nợ nhóm 5 cũng là nhóm nợ phải trích lập dự phòng rủi ro với tỷ lệ là 100%. Khi không thu được nợ, ngân hàng phải phát mại tài sản để thu hồi nợ, sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp. Xét từng ngân hàng cụ thể, đến 31/12/2018, Agribank vẫn là ngân hàng có nợ quá hạn cao nhất trong nhóm (49,6 nghìn tỷ), tiếp đến là BIDV (18,8 nghìn tỷ). Nguyên nhân phải chăng là việc xử lý nợ xấu còn “trì trệ”, quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng có vấn đề (chính sách và cơ chế quản trị rủi ro của ngân hàng chưa phù hợp), đạo đức vẫn chưa được đề cao sau rất nhiều “đại án”? Nợ xấu lớn ảnh hưởng đến uy tín và tiềm lực tài chính là hai yếu tố làm nên lợi thế cạnh tranh của một ngân hàng. b) Các ngân hàng thương mại nhà nước trên thị trường Từ B. 7, có thể thấy được thị phần của nhóm các NHTMNN tuy vẫn chiếm đa số NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI Kinh tế - Quản lý 60Tạp chí Kinh doanh và Công nghệ Số 04/2019 trong hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam, nhưng đang giảm dần ở tất cả các tiêu chí. Điều này chứng tỏ sức cạnh tranh của nhóm các NHTMNN đang giảm sút nhanh chóng. Rõ nét nhất là tỷ trọng dư nợ trên tổng dư nợ - hoạt động trực tiếp tạo ra thu nhập cho các NHTMNN đang sụt giảm nghiêm trọng. Bảng 7. Thị phần của các ngân hàng thương mại nhà nước % c) Vị trí của các ngân hàng thương mại nhà nước trong khu vực Nhìn chung, các NHTMNN đã có những bước phát triển, nhưng không đồng đều. Chỉ có Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank) nằm trong top 100 của 500 ngân hàng đứng đầu (AB500Rank) khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Các ngân hàng cón lại ở trong top 200/500. Danh sách 500 ngân hàng này được The Asian Banker lựa chọn dựa trên quy mô tài sản và một số tiêu chí khác (niềm tin về khả năng sinh lời lâu dài từ kinh doanh cốt lõi,) là những ngân hàng thuộc loại mạnh nhất (Strength Rank) khu vực. Mặc dù việc xếp hạng đã phần nào được cải thiện, nhưng các NHTMNN Việt Nam vẫn còn thua xa nhiều ngân hàng trong khu vực. 3. Kết luận Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường, chỉ xuất hiện trong điều kiện của kinh tế thị trường. Kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế, quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi ngân hàng. Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm, chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống văn hoá, Mỗi nhân tố thay đổi, dù là nhỏ nhất, cũng đều tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh của ngân hàng. Một NHTM yếu kém có thể trở thành gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh tế và dân chúng, Chính vì vậy, trong kinh doanh, các NHTM vừa phải cạnh tranh để từng bước mở rộng thị phần, giữ vị thế và tăng lợi nhuận. Vấn đề mấu chốt cạnh tranh trong ngân hàng là mỗi ngân hàng cần tạo ra và nâng cao khả năng phát triển, chống đỡ rủi ro, thông qua các trụ cột cơ bản là vốn, chất lượng tài sản, con người, công nghệ thông tin, năng lực huy động vốn, 2016 2017 2018 %/ tài sản 53,6 53,2 51,6 %/Vốn chủ sở hữu 47,4 46,8 44,4 %/Tổng dư nợ 52,9 51,8 47,5 Bảng 8. Vị trí của 4 ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam trong khu vực Vị trí ở Ngân hàng Strength Strength Strength AB500Rank AB500Rank AB500Rank Việt Nam Rank 2016 Rank 2016 Rank 2016 2016 2016 2016 1 VCB 62 48 29 193 188 169 5 Vietinbank 182 124 164 175 163 162 6 Agribank - - 173 - - 156 7 BIDV 253 161 176 253 157 147 Nguồn: The Asian Banker (2016, 2017, 2018) Nguồn: tác giả tính toán từ số liệu NHNN công bố Tài liệu tham khảo 1. sbv.gov.vn 4. plo.vn 2 cafef.vn 5. ndh.vn 3. tapchitaichinh.vn 6. theasianbanker.com Ngày nhận bài: 07/9/2019
File đính kèm:
- nang_luc_canh_tranh_cua_cac_ngan_hang_thuong_mai_nha_nuoc_o.pdf