Mức độ tự tin về sinh con của thai phụ tại Bệnh viện A Thái Nguyên

Mục tiêu: Mô tả mức độ tự tin về sinh con của thai phụ tại Bệnh viện A Thái Nguyên năm 2019 - 2020 và xác định một số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện từ tháng 10/2019 - 5/2020 trên 195 thai phụ mang thai từ tuần thứ 35 đến 41 được tiên lượng sinh đường âm đạo. Nghiên cứu phỏng vấn đối tượng nghiên cứu bằng phiếu tự điền “sự tự tin về sinh con của thai phụ (Childbirth selfefficacy inventory - CBSEI- 32)” có chỉnh sửa cho phù hợp. Kết quả: Sự tự tin về sinh con của đối tượng nghiên cứu ở mức độ trung bình (52,8 ± 8,5), tổng điểm 80. Sự tự tin về sinh con của thai phụ có mối tương quan với các biến độc lập là: sự lo sợ về sinh con (p = 0,001); kiến thức về sinh con, sự hỗ trợ xã hội và kết quả mong đợi (p < 0,001).="" kết="" luận:="" sự="" tự="" tin="" về="" sinh="" con="" của="" thai="" phụ="" tại="" bệnh="" viện="" a="" thái="" nguyên="" ở="" mức="" trung="" bình,="" cần="" có="" các="" biện="" pháp="" can="" thiệp="" để="" cải="" thiện="" giúp="" thai="" phụ="" có="" đủ="" tự="" tin="" để="" sinh="">

pdf 5 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Mức độ tự tin về sinh con của thai phụ tại Bệnh viện A Thái Nguyên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mức độ tự tin về sinh con của thai phụ tại Bệnh viện A Thái Nguyên

Mức độ tự tin về sinh con của thai phụ tại Bệnh viện A Thái Nguyên
136
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
10. World Health Organization (2001), 
Occupational health – A mannual for 
primary health care workers, World Health 
Organization.
11. Amadhila J and Marieta J (2017). 
Knowledge and practices among registered 
nurses on occupational hazards in 
Onandjokwe Health District: Oshikoto 
region, Namibia. Journal of Hospital 
Administration, 6(4), pp. 46-51.
12. Awan A, Afzal M, Majeed I, et al. 
(2017). Assessment of Knowledge, Attitude 
and Practices regarding Occupational 
Hazards among Nurses at Nawaz Sharif 
Social Security Hospital Lahore Pakistan. 
Saudi J. Med. Pharm. Sci,3(6), pp. 622-630.
13. Hu S. X, Luk A. L and Smith G. D 
(2015).The effects of hazardous working 
conditions on burnout in Macau nurses. 
International Journal of Nursing Sciences, 
2(1), pp. 86-92.
MỨC ĐỘ TỰ TIN VỀ SINH CON CỦA THAI PHỤ TẠI BỆNH VIỆN A THÁI NGUYÊN
Phạm Thị Vân Anh1, Nguyễn Thị Hải Yến1
1Trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả mức độ tự tin về sinh 
con của thai phụ tại Bệnh viện A Thái 
Nguyên năm 2019 - 2020 và xác định một 
số yếu tố liên quan. Đối tượng và phương 
pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang được thực hiện từ tháng 10/2019 - 
5/2020 trên 195 thai phụ mang thai từ tuần 
thứ 35 đến 41 được tiên lượng sinh đường 
âm đạo. Nghiên cứu phỏng vấn đối tượng 
nghiên cứu bằng phiếu tự điền “sự tự tin 
về sinh con của thai phụ (Childbirth self-
efficacy inventory - CBSEI- 32)” có chỉnh 
sửa cho phù hợp. Kết quả: Sự tự tin về 
sinh con của đối tượng nghiên cứu ở mức 
độ trung bình (52,8 ± 8,5), tổng điểm 80. 
Sự tự tin về sinh con của thai phụ có mối 
tương quan với các biến độc lập là: sự lo sợ 
về sinh con (p = 0,001); kiến thức về sinh 
con, sự hỗ trợ xã hội và kết quả mong đợi 
(p < 0,001). Kết luận: Sự tự tin về sinh con 
của thai phụ tại bệnh viện A Thái Nguyên ở 
mức trung bình, cần có các biện pháp can 
thiệp để cải thiện giúp thai phụ có đủ tự tin 
để sinh thường.
Từ khóa: Sự tự tin về sinh con, thai phụ, 
sự tự tin.
CHILDBIRTH SELF-EFFICACY OF PREGNANT WOMEN AT A THAI NGUYEN HOSPITAL
ABSTRACT
Objective: To describe level of childbirth 
self-efficacy in pregnant women at A Thai 
Nguyen hospital in 2019 - 2020 and factors 
relate to childbirth self-efficacy. Method: 
Người chịu trách nhiệm: Phạm Thị Vân Anh
Gmail: [email protected]
Ngày phản biện: 25/9/2020
Ngày duyệt bài: 09/10/2020
Ngày xuất bản: 05/11/2020
Cros- sectional study from October 2019 
to May 2020, among 195 pregnancies 
between 35 and 41 weeks possible to 
give birth by vaginal delivery. Preganants 
were asked to complete a modification 
Childbirth self-efficacy inventory (CBSEI- 
32) questionnaire. Results: Results 
showed that childbirth self-efficacy was 
correlated with fear of childbirth, knowledge, 
maternal support and expected outcome 
at p -value < 0,05. Conclusion: Childbirth 
137
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
self-efficacy of pregnance at Thai Nguyen 
hospital is at medium level, and interventions 
are needed to help pregnant women having 
confident to give birth by vaginal delivery
Keywords: Self-efficacy, pregnant, 
childbirth self-efficacy. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chuyển dạ là một hiện tượng sinh lý tự 
nhiên mà kết quả là thai và các phần phụ 
của thai được đưa ra khỏi buồng tử cung 
qua đường âm đạo của người mẹ và là 
thời điểm đánh dấu sự kết thúc của quá 
trình thai nghén [1]. Với hầu hết thai phụ thì 
chuyển dạ được xem là một trong những 
thử thách khó khăn và nguy hiểm nhất mà 
họ phải đối mặt trong cuộc đời. Vậy nên 
không phải thai phụ nào cũng tự tin rằng 
mình có đủ khả năng để vượt qua. Sự thiếu 
tự tin về sinh con của thai phụ là một trong 
những nguyên nhân góp phần dẫn tới tỷ lệ 
phẫu thuật lấy thai đang gia tăng ở nhiều 
quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. 
Theo kết quả cuộc điều tra về sức khoẻ bà 
mẹ và sơ sinh, thu thập trên 290.610 ca 
sinh nở trên toàn cầu cho thấy tỷ lệ phẫu 
thuật lấy thai trung bình là 25,7% [8]. Ở Việt 
Nam, trong 6 tháng đầu năm 2012 tại Bệnh 
viện Trung ương Thái Nguyên tỷ lệ phẫu 
thuật lấy thai là 45,1% [2]. Theo thống kê 
của bệnh viện này trong năm 2016 tại khoa 
Sản đã có 3600 ca thai phụ sinh con, trong 
đó phẫu thuật lấy thai là 58%, 28% đẻ khó 
và 14% đẻ thường.
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế 
giới (WHO) tốt nhất tỉ lệ phẫu thuật lấy thai 
nên từ 5 - 10%. Khi tỉ lệ này vượt trên 15% 
thì không có nhiều lợi ích hơn cho mẹ và 
con. Như vậy, một vấn đề cấp thiết đang 
được đặt ra là phải khống chế tỷ lệ phẫu 
thuật lấy thai bằng cách khuyến khích các 
thai phụ cố gắng sinh một cách tự nhiên. 
Sự tự tin về sinh con của thai phụ là một 
trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng 
tới quyết tâm sinh đường âm đạo của thai 
phụ và kết quả của cuộc sinh [6]. Hơn nữa, 
có bằng chứng cho thấy sự tự tin về sinh 
con là một yếu tố tâm lý xã hội có thể cải 
thiện được thông qua các can thiệp [3]. 
Sự tự tin quyết định mức độ cố gắng, 
sự nỗ lực, kiên trì của thai phụ trong quá 
trình sinh con và đóng vai trò quan trọng 
trong việc hỗ trợ thai phụ để kiểm soát các 
hành vi trong quá trình chuyển dạ [9]. Bên 
cạnh đó, sự tự tin thấp và sự lo sợ sinh con 
là những yếu tố nguy cơ làm xuất hiện các 
triệu chứng rối loạn stress sau sinh. Mặt 
khác, sự tự tin đã được xác định là yếu tố 
ảnh hưởng đến sự hài lòng của thai phụ về 
chính trải nghiệm sinh con của họ và về sự 
hỗ trợ của cán bộ y tế [4].
Vì vậy, nhằm tìm hiểu mức độ tự tin về 
sinh con của thai phụ chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu: “Mức độ tự tin về sinh con của 
thai phụ tại Bệnh viện A Thái Nguyên” với 
mục tiêu: Mô tả mức độ tự tin về sinh con 
của thai phụ tại Bệnh viện A Thái Nguyên 
năm 2019 - 2020 và xác định một số yếu tố 
liên quan.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tượng nghiên cứu
* Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Thai phụ mang thai đơn, tử 35 - 41 tuần
- Thai phụ có khả năng sinh đường âm 
đạo.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Có khả năng nghe, nói, đọc, viết, hiểu 
Tiếng Việt.
*Tiêu chuẩn loại trừ:
- Có tiền sử mổ lấy thai cũ. 
- Có các vấn đề về sức khỏe, yếu tố tiên 
lượng không tốt cho tình trạng của mẹ và 
thai.
2.2. Thời gian và địa điểm
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10 năm 
2019 đến tháng 5 năm 2020.
Thời gian thu thập số liệu : Từ tháng 12 
năm 2019 đến tháng 4 năm 2020.
Địa điểm nghiên cứu: Phòng khám Sản 
- Bệnh viện A Thái Nguyên.
138
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt 
ngang.
- Cỡ mẫu: 195 thai phụ.
- Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu 
toàn bộ.
2.4. Chỉ tiêu nghiên cứu: 
- Đặc điểm nhân khẩu học: tuổi, dân tộc, 
tôn giáo, tình trạng hôn nhân, sống cùng ai, 
trình độ học vấn, nghề nghiệp, địa chỉ.
- Sự tự tin về sinh con của thai phụ
- Những yếu tố liên quan đến sự tự tin về 
sinh con của thai phụ. 
2.5. Phương pháp thu thập số liệu: 
Phỏng vấn bằng bộ câu hỏi tự điền.
2.6. Bộ công cụ: Nghiên cứu sử dụng 
thang đo sự tự tin về sinh con của thai phụ 
- Childbirth self-efficacy inventory (CBSEI- 
32). Bộ công cụ gồm các phần: Thông tin 
chung về đối tượng nghiên cứu, sự tự tin về 
sinh con, thông tin về sự lo sợ khi sinh con, 
kiến thức về sinh con, kết quả việc tự thực 
hiện và đánh giá sự hỗ trợ xã hội.
2.7. Xử lý số liệu: Theo phương pháp 
thống kê y học, sử dụng phần mềm SPSS 
20.0.
3. KẾT QUẢ 
3.1. Đặc điểm chung về đối tượng 
nghiên cứu
Có 195 thai phụ đồng ý tham gia vào 
nghiên cứu, có độ tuổi trung bình là 27,7 
(SD = 5,0) thai phụ trẻ nhất là 18 và nhiều 
tuổi nhất là 43. Hầu hết đối tượng nghiên 
cứu là dân tộc Kinh chiếm 73,3 %, chủ yếu 
đã kết hôn (98,5% ) và sống cùng gia đình 
(99,0 %). Bên cạnh đó có 55,9 % đối tượng 
là ở vùng nông thôn. Thu nhập bình quân 
của đối tượng nghiên cứu là 3,5 triệu (SD 
= 1,1).
3.2. Sự tự tin về sinh con của thai phụ
Bảng 1. Điểm sự tự tin về sinh con của thai phụ đo lường 
bằng bộ công cụ CBSEI- 32 (n = 195)
Trung bình Độ lệch chuẩn
Khoảng điểm 
thực tế
Khoảng điểm 
giới hạn
Sự tự tin 52,8 8,5 31 77
Kết quả mong đợi 55,2 8,8 39 73
Nhận xét: Bảng số liệu cho thấy điểm sự tự tin về sinh con của thai phụ ở mức độ trung 
bình với điểm trung bình là 52,8 (SD = 8,5). Trong đó điểm thấp nhất là 31 và điểm cao 
nhất là 77. Bên cạnh đó điểm trung bình kết quả mong đợi của đối tượng nghiên cứu là 
52,8 (SD = 8,8) điểm thấp nhất là 39 và cao nhất là 73/80 điểm.
Bảng 2. Phân loại mức độ tự tin (n = 195)
Phân loại mức độ tự tin SL TL %
Mức độ tự tin thấp (30 - 47) 50 25,6
Mức độ tự tin trung bình (48 - 61) 112 57,4
Mức độ tự tin cao (62 - 79) 33 16,9
Tổng số 195 100
Nhận xét: Từ bảng trên cho thấy có 50 thai phụ có điểm sự tự tin về sinh con từ 30 - 47 
điểm được đánh giá là mức độ tự tin thấp, 112 thai phụ có điểm tự tin từ 48 đến 61 điểm 
được đánh giá là mức độ tự tin trung bình và 33 thai phụ có điểm sự tự tin từ 62 điểm trở 
lên được đánh giá là tự tin mức độ cao.
139
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
Bảng 3. Một số yếu tố liên quan đến sự tự tin về sinh con của thai phụ
 Sự tự tin mong đợi SL Điểm trung bình p (ANOVA)
Kết quả về việc tự thực hiện 55 9,2 ± 3,53 0,000
Sự lo sợ về sinh con 18 31,5 ± 5,28 0,001
Kiến thức về sinh con 30 4,0 ± 1,14 0,000
Sự hỗ trợ xã hội 31 57,8 ± 7,77 0,000
Kết quả mong đợi 17 55,3 ± 8,89 0,000
Nhận xét: Sự tự tin về sinh con của thai phụ có mối tương quan với các biến độc lập 
là: sự lo sợ về sinh con (p = 0,001); kết quả việc tự thực hiện, kiến thức về sinh con, sự 
hỗ trợ xã hội và kết quả mong đợi (p = 0,000).
4. BÀN LUẬN
Khi so sánh với các kết quả từ những 
nghiên cứu khác thì thấy rằng điểm sự tự 
tin của các thai phụ trong nghiên cứu này 
tương đương với nhóm đối tượng trong 
nghiên cứu của Ip năm 2008 tại Hồng Kông 
Trong nghiên cứu này điểm sự tự tin của 
nhóm bà mẹ sinh con lần đầu là 95,52± 
23,25 trên tổng điểm 160 và điểm sự tự tin 
của nhóm bà mẹ đã sinh con là 107,16 ± 
22,33 [5]. Các nhóm đối tượng trong những 
nghiên cứu này đều là những thai phụ có 
tiên lượng về tình trạng sức khỏe tốt có 
khả năng sinh con đường âm đạo điều này 
tương đồng với các thai phụ trong nghiên 
cứu của chúng tôi.
Kết quả này có thể được lý giải như sau: 
Tỷ lệ thai phụ tham gia vào các lớp tiền sản 
chiếm tỷ lệ không cao chỉ có 48,6% số thai 
phụ tham gia các lớp học tiền sản và có 
đến 54,4% thai phụ không biết hoặc không 
đưa ra câu trả lời đúng về các hành vi hỗ 
trợ người mẹ vượt qua cuộc chuyển dạ. Khi 
thai phụ không tham gia các lớp học tiền 
sản và không biết về các hành vi hỗ trợ thai 
phụ vượt qua quá trình chuyển dạ thì thai 
phụ khó có thể có được những kiến thức 
cần thiết, những hiểu biết đầy đủ về những 
gì mà thai phụ sẽ phải trải qua trong quá 
trình chuyển dạ cũng như việc thai phụ sẽ 
không biết mình cần phải làm gì để cuộc 
chuyển dạ sắp tới được diễn ra dễ dàng 
hơn. Từ đó thai phụ sẽ cảm thấy không tự 
tin, không tin tưởng vào khả năng của mình.
Trong nghiên cứu này sự tự tin về sinh 
con của thai phụ có mối liên quan với kết 
quả về việc tự thực hiện (p = 0,000). Điều 
này cũng hoàn toàn phù hợp với học thuyết 
về sự tự tin của Bandura. Trong học thuyết 
về sự tự tin, Bandura cho rằng kết quả về 
việc tự thực hiện là một trong những nguồn 
ảnh hưởng đến sự tự tin của con người vì 
mọi người tin rằng khi thực hiện một hành 
động, điều mà họ đã từng thực hiện hoặc 
trong quá khứ họ đã từng làm những điều 
tương tự như vậy một cách thành công thì 
sẽ dễ dàng đạt được thành công hơn khi 
thực hiện một hành vi lần đầu tiên [6].
Sự tự tin về sinh con có mối liên quan 
với sự hỗ trợ xã hội. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi thai phụ đã kết hôn chiếm tỷ lệ 
rất cao 99,0% và sống của gia đình chiếm 
98,6% vậy nên họ nhận được nhiều sự hỗ 
trợ, quan tâm của mọi người trong gia đình. 
Nghiên cứu của Drummon cũng cho kết 
quả tương tự. Những thai phụ nhận được 
sự hỗ trợ ở mức độ cao hơn thì sự tự tin 
cũng cao hơn. Điều này được lý giải dựa 
vào học thuyết của Bandura như sau: trong 
học thuyết của Bandura , yếu tố thứ ba ảnh 
hưởng đến sự tự tin là sự thuyết phục bằng 
lời nói. Khi một người được thuyết phục, 
được động viên, khích lệ rằng họ có khả 
năng để thực hiện hoặc kiểm soát các hành 
động thì họ sẽ cố gắng nhiều hơn để thực 
hiện và duy trì hành vi đó [6].
Khi tự đánh giá về mức độ lo sợ khi sinh 
con thì đa số thai phụ đánh giá là lo sợ trung 
140
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 05
bình chiếm (69,7%) và không có thai phụ 
nào đánh giá ở mức độ rất lo sợ. Về mối 
tương quan giữa sự tự tin và mức độ lo sợ 
thì Bandura [6], [1] đã cho rằng mức độ tự 
tin có thể bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố 
trong đó có các phản ứng cảm xúc sinh lý, 
chúng tác động đến sự tự tin tùy thuộc vào 
đó là cảm xúc mang tính tiêu cực hay tích 
cực. Các cảm xúc tích cực làm tăng cường 
nhận thức về sự tự tin nhưng cảm xúc tiêu 
cực bao gồm sự sợ hãi lại làm giảm sự tự 
tin. Ở nhóm thai phụ có sự lo sợ sinh con quá 
cao thì tiên lượng thai phụ có thể sẽ có một 
trải qua cuộc sinh nở với nhiều khó khăn. 
Điểm kiến thức kết quả của nghiên cứu 
này cũng tương đồng như kết quả nghiên cứu 
của Drummond [7]. Trong nghiên cứu của 
Drummond điểm kiến thức của các thai phụ 
là 4,34 ± 1,87. Tuy nhiên, tỷ lệ thai phụ tham 
gia lớp học tiền sản thì ở nghiên cứu của 
chúng tôi là rất thấp. Điều này có thể được lý 
giải rằng các thai phụ ở trong nghiên cứu của 
chúng tôi phần lớn là ở nông thôn, chủ yếu 
là làm nghề công nhân (26,7%) và nông dân 
(26,2%) vậy nên họ không có đủ điều kiện để 
tham gia các lớp học tiền sản, đồng thời nhiều 
thai phụ cũng cho rằng việc tham dự các lớp 
học tiền sản là chưa thực sự cần thiết. Bên 
cạnh đó, tại các cơ sở y tế công cũng không 
tổ chức nhiều các lớp học tiền sản vào thời 
gian thích hợp để các thai phụ có thể tham 
gia. Khi thai phụ có những kiến thức về sinh 
con, chuyển dạ cũng như các hành vi hỗ trợ 
thai phụ vượt qua cuộc chuyển dạ thì thai 
phụ sẽ biết được cuộc chuyển dạ sắp tới sẽ 
diễn ra như thế nào, những gì mình cần phải 
vượt qua, những khó khăn, biến chứng nào 
thai phụ có thể gặp phải và đồng thời thai phụ 
biết mình cần làm gì để vượt qua, giải quyết 
những khó khăn đó từ đó giúp thai phụ chủ 
động và tự tin hơn về cuộc vượt cạn sắp tới.
5. KẾT LUẬN 
Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự tự 
tin về sinh con của đối tượng nghiên cứu ở 
mức độ trung bình: Mức độ tự tin thấp chiếm 
25,6%; mức độ tự tin trung bình chiếm 57,4%.
Sự tự tin về sinh con của thai phụ có mối 
tương quan với các yếu tố: Đã từng có trải 
nghiệm về sinh con, sự lo sợ về sinh con, 
kiến thức về sinh con, sự hỗ trợ xã hội và 
kết quả mong đợi (p < 0,000)
Với kết quả nghiên cứu trên nhóm 
nghiên cứu đưa ra khuyến nghị: Trong công 
tác chăm sóc người điều dưỡng cần quan 
tâm và có các can thiệp để nâng cao sự 
tự tin cho thai phụ, hướng dẫn và khuyến 
khích thai phụ tham gia các lớp học tiền 
sản, chuẩn bị tâm lý vững vàng cho thai 
phụ trước mỗi cuộc sinh 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn Sản phụ khoa - Trường Đại 
học Y Hà Nội (2005), Sản phụ khoa, Nhà 
xuất bản Y học, Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Đức Hinh 
và Nguyễn Việt Hùng(2013), “Nhận xét 
tình hình mổ lấy thai tại Bệnh viện Đa khoa 
Trung ương Thái Nguyên 6 tháng đầu năm 
2012”, Tạp chí Y học thực hành. tr. 11(893).
3. Tilden L.E, Caughey B.A and Lee 
S.C (2016), “The Effect of Childbirth Self-
Efficacy on Perinatal Outcomes”, Journal of 
Obstetric, Gynecologic & Neonatal Nursing. 
45(4), p. 465-480.
4. Berentson S. J, Scott K. M and Jose P. 
E (2009), “Do self efficacy beliefs predict the 
primiparous labour and birth experience? A 
longitudinal study”, Journal of Reproductive 
and Infant Psychology. 27(4), p. 357-373.
5. Ip WY, Chung T.KH and Tang C.SK 
(2008), “The Chinese Childbirth Self-
Efficacy Inventory: the development of 
a short form”, Journal of clinical nursing. 
17(3), p. 333-340.
6. Bandura A (1977), “Self-efficacy: 
toward a unifying theory of behavioral 
change”, Psychological review. 84(2), p. 191.
7. Hobbs A.J and etc. (2016), “The impact 
of caesarean section on breastfeeding 
initiation, duration and difficulties in the first 
four months postpartum”, BMC Pregnancy 
Childbirth. 16, p. 90.

File đính kèm:

  • pdfmuc_do_tu_tin_ve_sinh_con_cua_thai_phu_tai_benh_vien_a_thai.pdf