Một số ý kiến về chất lượng Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

TÓM TẮT

Vấn đề chất lượng Báo cáo tài chính (BCTC) đã được trình bày, nghiên cứu ở nhiều tài liệu

và các công trình nghiên cứu nhưng chỉ tập trung vào doanh nghiệp nói chung, chủ yếu là doanh

nghiệp lớn và các công ty niêm yết. Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thì việc nghiên cứu

còn rải rác, chưa có hệ thống và chưa có tính chuyên biệt. Bài viết này tập trung tìm hiểu đánh giá

chất lượng báo cáo tài chính các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay và đưa ra một số

giải pháp để góp phần nâng cao chất lượng BCTC DNNVV nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng

của các đối tượng khác nhau trong điều kiện nền kinh tế phát triển và hội nhập sâu rộng.

pdf 12 trang phuongnguyen 10060
Bạn đang xem tài liệu "Một số ý kiến về chất lượng Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số ý kiến về chất lượng Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Một số ý kiến về chất lượng Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
3Một số ý kiến . . .
Kinh tế - Xã hội 
MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM
Võ Vĕn Nhị * 
Trần Thị Thanh Hải **
TÓM TẮT
Vấn đề chất lượng Báo cáo tài chính (BCTC) đã được trình bày, nghiên cứu ở nhiều tài liệu 
và các công trình nghiên cứu nhưng chỉ tập trung vào doanh nghiệp nói chung, chủ yếu là doanh 
nghiệp lớn và các công ty niêm yết. Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) thì việc nghiên cứu 
còn rải rác, chưa có hệ thống và chưa có tính chuyên biệt. Bài viết này tập trung tìm hiểu đánh giá 
chất lượng báo cáo tài chính các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay và đưa ra một số 
giải pháp để góp phần nâng cao chất lượng BCTC DNNVV nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng 
của các đối tượng khác nhau trong điều kiện nền kinh tế phát triển và hội nhập sâu rộng.
Từ khóa: Chất lượng báo cáo tài chính, doanh nghiệp nhỏ và vừa
SOME OPINION ABOUT THE FINANCIAL REPORT QUALITY OF SMALL 
AND MEDIUM ENTERPRICES IN VIETNAM
ABSTRACT
The inancial reporting quality issue has been a controversial topic for many years. 
However,most of the debate has focused on large and listed companies rather than small and 
medium-sized enterprises (SMEs). The purpose of this paper is to seeks to provide an overview of 
the quality of SMEs’ inancial reporting in recent times. The study gives some solutions that will 
contribute to enhance the quality of SME inancial reporting. As a result, it helps to better satisfy 
the need of users in the context of quick development and deep intergration of Vietnamese economy.
Keywords: inancial report quality, small and medium sizes enterprices
* PGS.TS. Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh
** ThS. GV. Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh
1. Đặc điểm của Doanh nghiệp nhỏ và 
vừa (DNNVV) và thông tin trình bày trên 
Báo cáo tài chính (BCTC DNNVV) 
DNNVV ở Việt Nam được định nghĩa: 
là cơ sở kinh doanh đã đĕng ký kinh doanh 
theo quy định pháp luật, được chia thành ba 
cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng 
nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương 
tổng tài sản được xác định trong bảng cân 
đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao 
động bình quân nĕm (tổng nguồn vốn là 
tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
4Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
Quy mô
Khu vực
Doanh nghiệp 
siêu nhỏ Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao động Tổng nguồn vốn
Số 
lao động
Tổng 
nguồn vốn
Số 
lao động
I. Nông, lâm nghiệp 
và thủy sản
10 người trở 
xuống
20 tỷ đồng 
trở xuống
từ trên 10 
người đến 
200 người
từ trên 20 
tỷ đồng đến 
100 tỷ đồng
từ trên 200 
người đến 
300 người
II. Công nghiệp và 
xây dựng 
10 người trở 
xuống
20 tỷ đồng 
trở xuống
từ trên 10 
người đến 
200 người
từ trên 20 
tỷ đồng đến 
100 tỷ đồng
từ trên 200 
người đến 
300 người
III. Thương mại và 
dịch vụ 
10 người trở 
xuống
10 tỷ đồng 
trở xuống
từ trên 10 
người đến 
50 người
từ trên 10 tỷ 
đồng đến 50 
tỷ đồng
từ trên 50 
người đến 
100 người
Nguồn: Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ
DNNVV ở Việt Nam bao gồm các loại 
hình kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân và cả các 
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các 
doanh nghiệp này luôn đóng góp một phần 
quan trọng vào nguồn thu ngân sách quốc gia, 
tạo ra một lượng việc làm lớn, khai thác và 
huy động mọi tiềm nĕng của các địa phương, 
tạo ra một thị trường cạnh tranh lành mạnh 
hơn. Báo điện tử của chính phủ Việt Nam đầu 
nĕm 2011 còn đưa ra tính toán: Các DNNVV 
đóng góp khoảng 40% GDP và nếu tính cả 
130.000 hợp tác xã và các hộ kinh doanh cá 
thể, mức đóng góp tương đương 60% GDP.
Tuy nhiên, các DNNVV còn một số mặt 
hạn chế. Ở khía cạnh tài chính, có thể thấy 
quy mô tài chính nhỏ, phụ thuộc khá nhiều 
vào vốn vay nên chưa có tính chủ động với 
các chiến lược phát triển lâu dài của doanh 
nghiệp. Thêm vào đó, khuynh hướng các 
doanh nghiệp này thường quản lý theo kinh 
nghiệm, quan hệ hợp tác trong kinh doanh 
còn thiếu và yếu. (Đỗ P.T., 2012)
Doanh nghiệp nhỏ không chỉ đơn giản là 
phiên bản thu nhỏ của một doanh nghiệp lớn 
mà các nghiên cứu cho thấy các DNNVV có 
những điểm khác biệt hẳn so với các doanh 
nghiệp lớn, đặc biệt liên quan đến nguồn lực, 
thị trường, mức độ linh hoạt, lãnh đạo và 
cơ cấu tổ chức.(Banham Heather C., 2010). 
Đặc biệt, DNNVV có những đặc điểm chi 
phối tới việc ban hành các quy định về kế 
toán như: Các doanh nghiệp này thường 
không phải là công ty đại chúng. Đối tượng 
sử dụng thông tin kế toán của các DNNVV 
tập trung vào chủ sở hữu, chủ nợ hiện tại và 
tiềm nĕng. Do vậy nghĩa vụ pháp lý công bố 
thông tin tài chính của các doanh nghiệp này 
có những giới hạn nhất định và đơn giản hơn 
so với các công ty đại chúng quy mô lớn. Bên 
cạnh đó, do các nguồn lực và yêu cầu đặt ra 
đối với công tác kế toán có giới hạn nên việc 
đầu tư vào trang thiết bị, nguồn nhân lực cho 
công tác kế toán ở nhiều DNNVV gặp nhiều 
hạn chế. Ngoài ra, Lĩnh vực kinh doanh của 
các DNNVV thường tập trung vào những 
ngành nghề kinh doanh chính. Các nghiệp 
vụ kinh tế phát sinh trong các doanh nghiệp 
này thường là những nghiệp vụ cơ bản gắn 
liền với hoạt động kinh doanh chủ yếu. Các 
quan hệ kinh tế, tài chính phức tạp thường 
hiếm khi xảy ra. Những đặc điểm này ảnh 
hưởng quan trọng trong tiến trình nghiên 
cứu ban hành, bổ sung và hoàn thiện các vĕn 
bản pháp lý về kế toán cho DNNVV cũng 
như tổ chức công tác kế toán tại các doanh 
nghiệp này.
5Một số ý kiến . . .
Qua quá trình phân tích ở trên, có thể thấy 
DNNVV có những đặc điểm riêng về : Nguồn 
cung cấp tài chính, cách thức tổ chức quản lý, 
đối tượng sử dụng BCTC,điều này dẫn đến 
những điểm khác biệt giữa thông tin trình bày 
trên BCTC của DNNVV so với báo cáo của các 
doanh nghiệp lớn. Nhiều công trình nghiên cứu 
của các tác giả đã cho thấy mối quan hệ này. 
Cressy và Olofsson (1997) đã trích từ nghiên 
cứu của Hughes cũng trong nĕm này rằng tồn 
tại sự khác biệt lớn về tổ chức kế toán giữa các 
doanh nghiệp lớn và DNNVV, chính xác hơn là 
khác biệt về nguồn tài chính của doanh nghiệp 
(entities inances), mà điều này ảnh hưởng trực 
tiếp đến ý kiến của các bên liên quan chủ yếu 
(idea of typical stakeholders) và yêu cầu với 
từng BCTC cụ thể. Theo nghiên cứu của Holmes 
& Nicholls (1989) (về thông tin kế toán ở các 
doanh nghiệp nhỏ nên được lập bởi bản thân 
doanh nghiệp hay kế toán thuê ngoài), trong đó 
nghiên cứu này đã chứng minh được các yếu tố 
như: quy mô doanh nghiệp (business size), số 
nĕm doanh nghiệp hoạt động dưới sự điều hành 
của bộ máy quản lý hiện tại (the number of years 
the business has been operating under existing 
management), lĩnh vực hoạt động (industrial 
sector), và tư duy của chủ doanh nghiệp/ nhà 
quản lý (the education of owner/manager of 
a business) có tác động lớn đến việc trình bày 
thông tin kế toán.(được trích bởi Asuman Atik). 
Theo đó, nhìn chung quy định của các quốc gia 
đều cho phép các DNNVV công bố thông tin ít 
hơn các doanh nghiệp lớn nhằm làm giảm gánh 
nặng quản trị cho các chủ doanh nghiệp (Cressy 
& Olofsson, 1997; Collis & Jarvis, 2002).
Với những đặc điểm về quy mô và quản 
lý của DNNVV, dẫn đến thông tin trình bày 
trên BCTC của các doanh nghiệp này nhìn 
chung đơn giản, ngắn gọn hơn. Theo quy 
định hiện nay ở Việt Nam, thông tin trình bày 
trên BCTC của DNNVV trên cơ sở mẫu biểu 
trong quyết định 48/2006/QĐ-BTC có một 
số điểm khác biệt với BCTC của các doanh 
nghiệp nói chung, cụ thể như sau:
Bảng cân đối kế toán:
Bảng cân đối kế toán của DNNVV theo 
Quyết định 48/2006/QĐ-BTC vẫn chứa đựng 
những thông tin về cơ bản giống như bảng 
cân đối kế toán dành cho các doanh nghiệp 
nói chung đã trình bày ở mục 1.1.3, tuy nhiên 
với các doanh nghiệp này bảng cân đối kế 
toán đơn giản, ngắn gọn và ít chỉ tiêu hơn, 
chỉ bao gồm 64 chỉ tiêu.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Nội dung Báo cáo kết quả hoạt động kinh 
doanh của DNNVV tương tự như báo cáo 
này tại các doanh nghiệp nói chung, chỉ khác 
ở chỗ theo quyết định số 15/2006/QĐ-BTC 
báo cáo này gồm 19 chỉ tiêu, trong khi theo 
chế độ kế toán dành cho DNNVV trong quyết 
định 48/2006/QĐ-BTC, báo cáo này rút gọn 
lại còn 16 chỉ tiêu.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Đối với DNNVV, Quyết định 48/2006/
QĐ-BTC cho phép các doanh nghiệp này 
lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ một cách tự 
nguyện chứ không bắt buộc.
Thuyết minh BCTC
Mẫu Bản thuyết minh BCTC cho 
DNNVV theo Quyết định 48/2006/QĐ-BTC 
được thiết kế vẫn khá đầy đủ các mục theo 
như Quyết định 15/2006/QĐ-BTC, tuy nhiên 
nội dung các mục được đơn giản hóa, rút gọn 
hơn so với bản thuyết minh của các doanh 
nghiệp lớn. 
Bảng cân đối tài khoản
Đây là báo cáo được yêu cầu thêm đối 
với DNNVV theo quy định tại quyết định số 
48/2006/QĐ-BTC. Báo cáo này có thể lập 
cho tài khoản cấp 1 hoặc cả tài khoản cấp 1 
6Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
và tài khoản cấp 2, trong đó báo cáo số dư 
đầu nĕm, số phát sinh trong nĕm và số dư 
cuối nĕm của các tài khoản. Bảng cân đối tài 
khoản chỉ gửi cho cơ quan thuế để làm cơ sở 
cho việc kiểm tra số liệu khi quyết toán thuế 
và giúp cho công tác quản lý chặt chẽ hơn.
2. Các đặc điểm chất lượng của Báo 
cáo tài chính (BCTC)
Chất lượng BCTC là vấn đề rất được 
quan tâm, từ các nhà nghiên cứu, soạn thảo 
vĕn bản cho đến chủ doanh nghiệp, người 
làm công tác kế toán và các đối tượng sử 
dụng thông tin khác.
BCTC phải trình bày một cách trung thực 
và hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết 
quả kinh doanh và các luồng tiền của doanh 
nghiệp. Để lập và trình bày BCTC trung thực 
và hợp lý, doanh nghiệp phải lựa chọn và áp 
dụng các chính sách kế toán phù hợp với các 
quy định; Trình bày các thông tin, kể cả các 
chính sách kế toán, nhằm cung cấp thông tin 
phù hợp, đáng tin cậy, so sánh được và dễ hiểu; 
Cung cấp các thông tin bổ sung khi quy định 
trong chuẩn mực kế toán không đủ để giúp cho 
người sử dụng hiểu được tác động của những 
giao dịch hoặc những sự kiện cụ thể đến tình 
hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh 
của doanh nghiệp.(Đoạn 9 & 11 của chuẩn 
mực kế toán 21 “Trình bày BCTC”)
Ngoài ra trong đoạn 12 của chuẩn mực 
này cũng nên rõ: BCTC phải cung cấp được 
các thông tin đáp ứng các yêu cầu sau:
a. Thích hợp với nhu cầu ra các quyết 
định kinh tế của người sử dụng;
b. Đáng tin cậy, khi:
 – Trình bày trung thực, hợp lý tình hình 
tài chính, tình hình và kết quả kinh 
doanh của doanh nghiệp;
 – Phản ánh đúng bản chất kinh tế của 
các giao dịch và sự kiện không chỉ 
đơn thuần phản ánh hình thức hợp 
pháp của chúng; 
 – Trình bày khách quan, không thiên vị; 
 – Tuân thủ nguyên tắc thận trọng; 
 – Trình bày đầy đủ trên mọi khía cạnh 
trọng yếu.
Để đánh giá chất lượng BCTC, sau đây 
sẽ xem xét cụ thể dựa trên từng yêu cầu của 
chuẩn mực kế toán số 21 “Trình bày BCTC”, 
bao gồm:
 – Tính trung thực, hợp lý
 – Tính thích hợp
 – Tính đáng tin cậy
 – Tính dễ hiểu
Để đạt được các yêu cầu trên, khi lập và 
trình bày BCTC cần tuân thủ các nguyên tắc: 
Hoạt động liên tục, cơ sở dồn tích, nhất quán, 
trọng yếu và tập hợp, bù trừ và có thể so sánh 
được. Việc tuân thủ một cách hài hòa các 
nguyên tắc trên sẽ giúp đảm bảo các đặc điểm 
chất lượng của BCTC, nâng cao tính hữu ích 
cho các thông tin trình bày trên BCTC, hỗ 
trợ đắc lực cho người sử dụng trong việc ra 
quyết định.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến BCTC 
của DNNVV
Hiện tại quy định pháp lý về BCTC và 
chất lượng BCTC DNNVV ở Việt Nam đã 
được xây dựng theo từng cấp độ: chuẩn mực 
kế toán, chế độ kế toán và vĕn bản pháp lý có 
liên quan. Tuy nhiên nội dung các vĕn bản 
này còn chưa hoàn chỉnh, tồn tại nhiều bất 
cập, đồng thời cũng do một số nguyên nhân 
khác xuất phát từ nhận thức của nhà quản trị 
doanh nghiệp, trình độ của người làm kế toán 
và yêu cầu của các đối tượng sử dụng thông 
tin nên BCTC DNNVV ở Việt Nam hiện nay 
vẫn còn nhiều hạn chế về mặt chất lượng làm 
ảnh hưởng không nhỏ đến việc sử dụng thông 
tin để thực hiện việc đánh giá, kiểm soát và 
7Một số ý kiến . . .
ra quyết định của các đối tượng khác nhau 
trong nền kinh tế. Qua quá trình tìm hiểu và 
phân tích, chúng tôi có thể tổng hợp thành hai 
nhóm nhân tố chính tác động đến chất lượng 
BCTC DNNVV: các nhân tố tác động từ bên 
trong và các nhân tố tác động từ bên ngoài.
3.1 Các nhân tố bên trong:
Công tác tổ chức quản lý
Cách thức tổ chức quản lý và triết lý 
quản trị của ban giám đốc các DNNVV có 
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng BCTC 
của các doanh nghiệp này. Qua tìm hiểu của 
chúng tôi thấy rằng tình hình chung hiện nay, 
hầu như các DNNVV chưa chú trọng đến 
kiểm soát nội bộ và đầu tư cho hệ thống kiểm 
soát nội bộ, do đó các khâu thu thập, xử lý 
thông tin để lên báo cáo chưa được kiểm soát 
đúng mức, hệ quả là tính đáng tin cậy của 
chất lượng BCTC chưa đảm bảo.
Bên cạnh đó, một điều đáng mừng là xu 
hướng hiện nay các nhà quản lý đã dành sự 
quan tâm hơn cho nội dung thông tin trình 
bày trên BCTC. Kết quả khảo sát của chúng 
tôi cho thấy ở một số doanh nghiệp BCTC 
được sử dụng trong công tác quản trị tại 
doanh nghiệp. Một khi ban giám đốc sử dụng 
thông tin từ BCTC thì chất lượng thông tin sẽ 
dần được cải thiện.
Người làm công tác kế toán
Thực trạng tại các DNNVV hiện nay cho 
thấy, những người làm công tác kế toán (nếu 
có) chỉ mang tính chất như là người ghi chép 
sổ sách (bookkeepers) chứ không phải là kế 
toán thực thụ (accountants). Bộ phận kế toán 
mới chỉ làm công việc tập hợp chứng từ, ghi 
chép nghiệp vụ kinh tế phát sinh chứ chưa 
thực hiện công việc kiểm tra kế toán và phân 
tích hoạt động kinh doanh thông qua những 
thông tin kế toán cung cấp. Chính đều này 
đã làm cho việc phát hiện và điều chỉnh, sửa 
chữa, xử lý sai sót khó thực hiện được hoặc 
thực hiện chậm trễ, thiếu hiệu quả.
Bên cạnh đó, khá nhiều các doanh nghiệp 
có quy mô nhỏ và siêu nhỏ ở Việt Nam có 
xu hướng thuê dịch vụ kế toán thay vì tuyển 
dụng và đào tạo nhân sự cho bộ máy này. 
Điều này vừa đảm bảo tính chuyên nghiệp 
vừa giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, đạt 
được lợi ích kinh tế, tuy nhiên thông tin kế 
toán không đáp ứng tính kịp thời do thông 
thường, các kế toán dạng này chỉ nhận chứng 
từ vào cuối tháng để tổng hợp. Sản phẩm của 
kế toán là BCTC lúc này hầu như chỉ là để 
đối phó với các cơ quan chức nĕng quản lý, 
đặc biệt là cơ quan thuế; số liệu trên báo cáo 
không thực sự hữu ích cho việc ra quyết định. 
Ngoài ra, điều này có thể dẫn tới việc thiếu 
sự ràng buộc trách nhiệm pháp lý giữa người 
làm công tác kế toán đối với doanh nghiệp.
3.2 Các nhân tố bên ngoài:
Khung pháp lý về kế toán cho DNNVV
Hiện nay khung pháp lý về kế toán cho 
DNNVV có nhiều hạn chế. Các quy định 
trọng luật kế toán chưa lưu ý đến đặc điểm 
riêng của các doanh nghiệp này. Về chuẩn 
mực, việc tinh giản bớt yêu cầu áp dụng bộ 
chuẩn mực kế toán chung chỉ là giải pháp 
tạm thời trước mắt, chưa có cơ sở khoa học. 
Chế độ kế toán đã được ban hành riêng cho 
DNNVV nhưng thực chất cũng là cắt xén từ  ...  BCTC trên mẫu 
biểu thống nhất, chỉ gia gảm số lượng chỉ tiêu 
theo quy mô doanh nghiệp thì hệ thống tài 
khoản kế toán cũng cần được quy định thống 
nhất áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp 
đang hoạt động trong nền kinh tế và có hướng 
dẫn sử dụng cho các cấp độ doanh nghiệp 
khác nhau. Điều rõ ràng là các doanh nghiệp 
nhỏ hoặc siêu nhỏ thường hoạt động kinh 
doanh đơn giản nên chỉ sử dụng một số tài 
khoản thông dụng, phổ biến; Với các doanh 
nghiệp vừa sẽ sử dụng nhiều tài khoản hơn 
và đương nhiên hệ thống tài khoản kế toán 
này sẽ bao trùm lên toàn bộ các hoạt động 
của các doanh nghiệp thuộc các loại hình 
hoạt động khác nhau. Hiện tại, có thể lấy hệ 
thống tài khoản kế toán cấp 1 hiện hành theo 
Quyết định 15/2006/QĐ-BTC để áp dụng 
chung, thống nhất cho các doanh nghiệp, còn 
tài khoản cấp 2 trở đi doanh nghiệp tự mở 
theo yêu cầu quản lý và thực tế phát sinh ở 
bản thân từng đơn vị, có chĕng chỉ cần gợi ý 
thêm tài khoản được áp dụng hoặc có thể áp 
dụng cho lĩnh vực hoạt động nào, cấp độ quy 
mô doanh nghiệp nào; thông tin của tài khoản 
được sử dụng để lập các loại báo cáo kế toán 
nào. Điều này giúp tạo ra hệ thống tài khoản 
có tính linh hoạt cao và việc phản ánh vào tài 
khoản phù hợp với đặc điểm hoạt động và 
cấp độ quy mô doanh nghiệp.
 y Tĕng cường vai trò quản trị doanh 
nghiệp trong kiểm soát và đánh giá chất 
lượng Báo cáo tài chính
Trong điều kiện yêu cầu thông tin cho các 
bên liên quan và theo học thuyết kinh tế cơ 
bản thì BCTC chất lượng cao là kết quả tất 
yếu của việc giám sát và quản trị hợp tình 
hợp lý (equity monitoring and governance) 
(Deaconu, 2012 trích từ Beuselinck & 
Manigart, 2007). Do đó, việc tĕng cường vai 
trò quản trị doanh nghiệp trong kiểm soát và 
đánh giá chất lượng BCTC là hết sức quan 
trọng. Nếu như các doanh nghiệp lớn, các 
10
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
công ty đại chúng có kiểm toán nội bộ, hệ 
thống kiểm soát nội bộ được xây dựng hêt 
sức bài bản để đảm bảo sự tuân thủ từ khâu 
thu thập, xử lý và cung cấp thông tin. Thì 
với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, 
họ chưa có đủ tầm và lực để có thể tổ chức 
tương tự. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa 
là không có biện pháp để mang lại BCTC có 
chất lượng cao nhất. bắt đầu từ những vấn 
đề đơn giản, tưởng chừng như không liên 
quan như thiết lập các quy định, chính sách 
(ngay cả chính sách bán chịu, chính sách thu 
hồi công nợ - ảnh hưởng đến khoản mục Nợ 
phải thu trên bảng cân đối kế toán, chính 
sách về mua và dự trữ hàng tồn kho); cho 
đến việc đưa ra các quy trình xử lý tối ưu, 
chặt chẽ. Hiện nay nhiều tài liệu nghiên cứu 
cho rằng hệ thống kiểm soát nội bộ có thể 
được chia thành hai nhánh: kiểm soát kế toán 
(accounting control) và kiểm soát quản trị 
(administrative control). Nếu làm tốt cả hai 
nhánh này sẽ mang lại thông tin đáng tin cậy 
cho người sử dụng.
Việc cung cấp thông tin kịp thời, đáng tin 
cậy phục vụ ngay cho công tác quản lý của 
lãnh đạo doanh nghiệp. Tuy nhiên cũng cần 
lưu ý là hiện nay, khả nĕng sử dụng BCTC 
của lãnh đạo doanh nghiệp còn thấp. Để có 
thể kiểm soát và nâng cao chất lượng BCTC, 
đòi hỏi người quản lý, chủ doanh nghiệp cũng 
cần phải trang bị những kiến thức nhất định 
về kế toán để có thể tham gia vào quy trình 
kiểm soát nội bộ.
Cũng cần cân đối giữa chi phí và lợi ích 
khi thiết kế và duy trì các thủ tục kiểm soát 
nội bộ do đặc thù về quy mô của các DNNVV, 
không thể đòi hỏi các doanh nghiệp này tổ 
chức hệ thống kiểm soát nội bộ hoành tráng 
với quy trình, thủ tục phức tạp. Việc tinh giản 
bộ máy, thủ tục, việc vi phạm nguyên tắc bất 
kiêm nhiệm là vấn đề không thể tránh khỏi tại 
các doanh nghiệp này.
 y Nâng cao nĕng lực chuyên môn và 
trách nhiệm của bộ phận kế toán
Như đã phân tích ở trên, vấn đề con người 
là vấn đề then chốt trong quá trình nâng cao 
chất lượng BCTC. Do vậy, các doanh nghiệp 
nói chung và doanh nghiệp quy mô nhỏ và 
vừa nói riêng cần chú trọng vào công tác đào 
tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn của bộ 
phận kế toán, nâng cao tinh thần trách nhiệm 
của từng cá nhân tham gia công tác kế toán 
trong đơn vị. Doanh nghiệp cần tạo điều kiện 
cho kế toán viên tham gia các lớp cập nhật 
kiến thức, bồi dưỡng nghiệp vụ để có đủ nĕng 
lực thu thập, xử lý và cung cấp thông tin. Có 
như vậy mới mong tạo ra sản phẩm là BCTC 
với chất lượng cao, thích hợp với nhu cầu 
người sử dụng báo cáo. Đối với các doanh 
nghiệp siêu nhỏ, việc không tổ chức bộ máy 
kế toán mà chỉ thuê ngoài có thể là một giải 
pháp kinh tế hơn. Tuy nhiên cũng cần lưu ý 
khi thuê ngoài các đối tượng thực hiện dịch 
vụ kế toán thì cần xem xét lựa chọn cá nhân 
có đủ nĕng lực, trách nhiệm và có chứng chỉ 
hành nghề theo quy định; hoặc tổ chức thì 
phải có chức nĕng kinh doanh dịch vụ này; 
và phải ký kết hợp đồng để ràng buộc trách 
nghiệm.
 y Mạnh dạn trong đầu tư ứng dụng công 
nghệ thông tin vào quản lý và công tác kế 
toán
Không chỉ các doanh nghiệp lớn mà các 
DNNVV cũng cần mạnh dạn đầu tư ứng dụng 
công nghệ thông tin vào quản lý, đặc biệt là 
trong công tác kế toán. Việc ứng dụng công 
nghệ thông tin, cụ thể là sử dụng ERP, hoặc 
phần phần kế toán, hay sử dụng kỹ thuật 
web,sẽ giúp cải thiện tất cả các khâu từ thu 
thập thông tin, quá trình xử lý, cũng như lập 
11
Một số ý kiến . . .
BCTC và công bố các thông tin này ra bên 
ngoài. Việc ứng dụng này không chỉ nhằm 
mục đích hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện 
nghĩa vụ công bố thông tin trên BCTC bắt 
buộc mà nó còn giúp thiết lập các báo cáo 
quản trị để phục vụ cho nhu cầu của bản thân 
nhà quản lý. Các báo cáo quản trị được lập 
trực tiếp từ phần mềm, hoặc thông qua công 
nghệ web phù hợp với dữ liệu được thu thập 
và xử lý tính đến thời điểm đó. Bên cạnh đó, 
từ phần mềm có thể chiết xuất thông tin để 
cung cấp thêm một số báo cáo chi tiết, báo 
cáo phân tích bổ sung đính kèm bên cạnh hệ 
thống BCTC theo quy định mà không làm 
tặng gánh nặng cho bộ phận kế toán, nhờ 
đó nâng cao tính hữu ích cho các đối tượng 
sử dụng. Để người sử dụng dễ dàng tiếp cận 
được thông tin kế toán, cần yêu cầu bắt buộc 
BCTC phải được công bố trên trang web của 
doanh nghiệp. Đây là phương thức công bố 
thông tin đơn giản, kịp thời mà hiệu quả nhất. 
Một khi công ty công bố thông tin trung thực 
và đầy đủ sẽ tạo ra và duy trì niềm tin của 
người sử dụng đối với công ty, từ đó giúp tĕng 
giá trị thị trường của công ty. Cũng lưu ý rằng 
không phải tất cả các báo cáo đều được công 
bố hay cần phải công bố mà một số báo cáo 
sẽ được giới hạn đối tượng sử dụng để phục 
vụ cho yêu cầu quản lý. Việc phân quyền trên 
phần mềm hay trên web được thiết kế hoàn 
toàn dễ dàng. Công tác bảo mật được đảm 
bảo và việc lưu trữ tài liệu trên web vô cùng 
đơn giản. 
Tuy nhiên vấn đề nào cũng có tính hai 
mặt của nó. Khi nghiên cứu đầu tư ứng dụng 
công nghệ thông tin vào tổ chức công tác kế 
toán cần đảm bảo được tính cân đối lợi ích – 
chi phí, so sánh hiệu quả mang lại với chi phí 
bỏ ra để quyết định đầu tư đến mức độ nào 
cho phù hợp.
 y Kiểm soát và đánh giá chất lượng thông 
tin
Chất lượng thông tin BCTC của doanh 
nghiệp không chỉ do bản thân doanh nghiệp 
quyết định mà còn chịu sự chi phối của các 
cơ quan Nhà nước trong việc kiểm soát và 
xử lý các hành vi vi phạm. Lâu nay, vấn đề 
kiểm soát và đánh giá chất lượng BCTC 
DNNVV gần như bỏ ngỏ. Các cơ quan 
chức nĕng đã ban hành các quy định pháp 
lý liên quan về lập và trình bày BCTC, các 
đặc điểm chất lượng thông tin trên BCTC. 
Nếu như BCTC của doanh nghiệp nhà nước, 
các công ty niêm yết thường xuyên chịu sự 
giám sát của cơ quan chủ quản, sở giao dịch 
chứng khoán,..thì việc DNNVV thực thi quy 
định pháp luật về kế toán tới đâu, tuân thủ 
quy định tới mức độ nào, công bố BCTC ra 
sao vẫn chưa được giám sát chặt chẽ, chủ 
yếu việc kiểm tra chỉ thực hiện thông qua 
cơ quan thuế, mà thuế chỉ là một trong rất 
nhiều đối tượng kế toán cung cấp thông tin. 
Cơ quan này lại chịu sự chi phối của các vĕn 
bản pháp luật ngành thuế nên chỉ xem xét 
việc nộp báo cáo đúng hạn, việc tính toán 
và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, phí, lệ phí 
cho Nhà nước theo quy định còn các đặc 
điểm chất lượng của thông tin trên BCTC 
không thuộc phạm trù xem xét của cơ quan 
thuế. Ngoài ra còn có những biện pháp rĕn 
đe được quy định trong điều 10 Nghị định 
số 185/2004/NĐ-CP được Chính phủ về xử 
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế 
toán góp phần ngĕn ngừa hành vi không 
tuân thủ trong việc công bố thông tin kế 
toán. Tuy nhiên những mức xử phạt quy 
định trong vĕn bản này hết sức nhẹ nhàng 
nên chưa đủ tính rĕn đe. Hiện nay Bộ Tài 
chính đang tổ chức lấy ý kiến dự thảo Nghị 
định quy định xử phạt vi phạm hành chính 
12
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập để 
trình Chính phủ ban hành. Nghị định quy 
định cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính 
trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán độc lập, 
hình thức xử phạt, các biện pháp khắc phục 
hậu quả, mức phạt, thẩm quyền xử phạt và 
dự kiến Nghị định này có hiệu lực thi hành 
kể từ ngày 01 tháng 07 nĕm 2013. Mặc dù 
vĕn bản này chưa được ban hành nhưng theo 
nhận định chủ quan của nhóm tác giả những 
quy định trong Chương II “Hành vi vi phạm, 
hình thức xử phạt và mức xử phạt trong lĩnh 
vực kế toán”, điều 9 liên quan đến BCTC thì 
mức phạt cao nhất chỉ là 30 triệu đồng thì 
chưa tương xứng với hậu quả mà các hành 
vi này mang lại nên hiệu quả của vĕn bản 
này trong việc đảm bảo tính tuân thủ có thể 
không đạt được như mong đợi. Theo chúng 
tôi cần có những biện pháp xử lý nghiêm 
khắc và mạnh tay hơn đối với các doanh 
nghiệp có hành vi vi phạm.
Bên cạnh đó, Luật kiểm toán độc lập đã 
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 và 
Nghị định số 17/2012/NĐ-CP quy định chi 
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của 
Luật kiểm toán độc lập, tuy nhiên theo nội 
dung các vĕn bản này thì các DNNVV nếu 
không phải là doanh nghiệp nhà nước, doanh 
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hay kinh 
doanh lĩnh vực đặc thù,...nhìn chung không 
thuộc diện kiểm toán bắt buộc mà chỉ khuyến 
khích. Như vậy trên thực tế việc kiểm soát 
chất lượng BCTC các doanh nghiệp này gần 
như thả nổi. Trong thời gian tới, một trong 
những giải pháp để nâng cao chất lượng 
BCTC DNNVV đó là cần chú trọng khâu 
kiểm soát và đánh giá chất lượng thông tin 
thông qua công tác kiểm toán. Kiểm toán 
BCTC hàng nĕm có thể không khả thi với 
các DNNVV do áp lực về chi phí, tuy nhiên 
ít nhất cũng cần quy định bắt buộc soát xét 
BCTC nĕm đối với các doanh nghiệp này để 
đánh giá tính trung thực hợp lý của BCTC, 
bảo vệ quyền lợi người sử dụng thông tin.
5. Kết luận
Tĕng cường chất lượng BCTC DNNVV 
là nhu cầu cấp thiết để nâng cao vị trí cũng 
như tĕng cường trách nhiệm xã hội của các 
DNNVV trong nền kinh tế hội nhập và phát 
triển.
Việc từng bước hoàn thiện khuôn khổ pháp 
lý về kế toán, tĕng cường vai trò quản trị trong 
kiểm soát và đánh giá chất lượng BCTC cũng 
như từng bước ứng dụng công nghệ thông tin 
vào tổ chức công tác kế toán đã giúp cho hệ 
thống BCTC có những cải tiến đáng kể và 
phần nào đã đáp ứng được yêu cầu thông tin 
đa dạng cho nhiều đối tượng. Tuy nhiên trong 
bối cảnh nền kinh tế phát triển nhanh chóng và 
hội nhập sâu rộng như hiện nay, thông tin cung 
cấp từ các BCTC vẫn chưa theo kịp với nhu 
cầu của người sử dụng. Do đó vấn đề nâng cao 
chất lượng thông tin kế toán nói chung nâng 
cao chất lượng BCTC của DNNVV nói riêng 
cần được các cơ quan ban ngành và bản thân 
doanh nghiệp cùng phối hợp giải quyết.
13
Một số ý kiến . . .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Anh
[1]. Banham Heather C. (2010): External Environmental Analysis For Small and medium enterprises, 
Journal of Bussiness & Economics Research, Vol. 8, No.10: 19:25.
[2]. Cĕtĕlin Nicolae ALBU and Nadia ALBU, Szilveszter Fekete (2010): The context of the possible 
IFRS for SMEs implementation in Romania, An exprolatory Study. Accounting And Management 
Information Systems, vol 9, No.1: 45-71.
[3]. Collis J., Jarvis R. (2002): Financial information and the management of small private entities, 
Journal of Small Business and Enterprise Development, 9(2):100-110.
[4]. Cressy R.,Olofsson C. (1997) European SME inancing: an overview, Small Business Economics, 
9: 87-96.
[5]. Deaconu A., Buiga A., Strouhal J. (2012): SMEs inancial reporting: Attitudes towards IFRS for 
SMEs, Studia UBB, Oeconomica, Volume 57, Issue 1: 101-122.
[6]. Evans L.,Di Pietra R., Gebhardt G.,Hoogendoorn M., Marton J., Mora A., Thinggard F., Vehmanen 
P., Wagenhofer A. (2005): Problems and opportunities of an International Financial Reporting 
Standard for small and medium-sized entities, the EEA FRSC’s Comment on the IASB’s Discussion 
paper, Accounting in Europe, 2: 23-45.
[7]. Hana Bohusova (2011), Adoption of IFRS for SMEs over the world, The Business Review * 
Cambridge ,Vol.18 No.2, December 2011: 208-214.
[8]. Ha van Wyk & J Rossouw (2009): IFRS for SMEs in South Africa: a giant leap for accounting, but 
too big for smaller entities in general, Meditari Accountancy Research Vol.17 No.1: 99-116.
[9]. International Accounting Standard Boars (2009). International Financial Reporting Standard for 
Small and Madium- size Entities.
[10]. Sian S.,Roberts C. (2009) UK small owner-manager businesses:accounting and inancial reporting 
needs, Jounal of Small Business and Enterprise Development, 16(2): 289-305.
[11]. Veneziani, M. & Teodori, C. (2008): The International Accounting standards and Italian non-listed 
companies:perception and economic impact, The results of an empirical survey, paper presented 
at 31st Annual Congress of the European Accounting Association, 23-25 April, Rotterdam, the 
Netherlands.
[12].
accountid=63189 access 30/01/2013
[13].
countid=63189 access 30/01/2013.
Tiếng Việt
[14]. Bộ tài chính (2006), Chế độ kế toán cho DNNVV, theo Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC ngày 
14/09/2006, Bộ tài chính, Hà Nội.
[15]. Đỗ Phương Thảo (2012): Tìm hướng đi cho DNNVV của Việt Nam trước ngưỡng cửa nĕm 2015, 
Tạp chí Khoa học Thương Mại, Số 50, tháng 10/2012: Trang 56-59.
14
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
[16]. Lưu Đức Tuyên (2012): Áp dụng chuẩn mực kế toán cho các DNNVV, Tạp chí nghiên cứu Tài 
chính Kế toán, Số 11 (112), 2012: Trang 41-44.
[17]. Trần Thị Thanh Hải (2012), Đánh giá hệ thống chuẩn mực kế toán doanh nghiệp hiện hành và định 
hướng cho việc thiết lập chuẩn mực kế toán áp dụng cho DNNVV ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu 
cấp trường, CS-2011-54.
[18]. Võ Vĕn Nhị & các tác giả (2012), Hoàn thiện hệ thống kế toán doanh nghiệp Việt Nam để nâng 
cao tính hữu ích của thông tin kế toán cho các đối tượng sử dụng, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Mã 
số B.2010-09-102. 
[19]. Vụ chế độ kế toán và kiểm toán (2008): Nội dung và hướng dẫn 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam, 
Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội, 2008.
[20].
nghiep-vi-mo-day-manh-phat-trien-san-xuat-kinh-doanh-vuot-qua-boi-canh-khung-hoang-kinh-
te-can-tho.htm (cập nhật ngày 17/02/2013).

File đính kèm:

  • pdfmot_so_y_kien_ve_chat_luong_bao_cao_tai_chinh_cua_doanh_nghi.pdf