Một số vấn đề văn hóa Islam giáo

Tóm tắt: Islam giáo là tôn giáo lớn nhất (khoảng 1,6 tỷ người), có

mặt ở hầu khắp các châu lục trên thế giới hiện nay. So với Do Thái

giáo, Bà La Môn giáo, Phật giáo và Công giáo, Islam giáo có tuổi

đời muộn hơn rất nhiều. Vì vậy, thần học Islam giáo cũng như văn

hóa Islam giáo chịu ảnh hưởng rất nhiều từ một số tôn giáo ra đời

trước đó. Đồng thời, văn hóa Islam giáo chịu ảnh hưởng khá sâu

sắc bởi nền văn hóa những quốc gia và châu lục mà nó vắt ngang,

từ đó sản sinh ra văn hóa Islam giáo đa dạng với nhiều nét đặc thù

mà không một tôn giáo nào có được. Trong lịch sử cũng như hiện

tại, Islam giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, kinh

tế, văn hóa, xã hội của những quốc gia có người dân gia nhập tôn

giáo này. Bài viết này, trên cơ sở tư liệu chủ yếu từ cuốn sách

“Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng” (Phòng Nghiên cứu

Islam giáo, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới thuộc Viện Khoa

học xã hội Trung Quốc, in lần thứ ba, Tề Lỗ thư xã ấn hành năm

1996, bản dịch Việt ngữ của Trần Nghĩa Phương) góp phần làm rõ

một số nội dung văn hóa của Islam giáo

pdf 18 trang phuongnguyen 960
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề văn hóa Islam giáo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề văn hóa Islam giáo

Một số vấn đề văn hóa Islam giáo
106 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2014 
NGUYỄN HỒNG DƯƠNG* 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VĂN HÓA ISLAM GIÁO 
Tóm tắt: Islam giáo là tôn giáo lớn nhất (khoảng 1,6 tỷ người), có 
mặt ở hầu khắp các châu lục trên thế giới hiện nay. So với Do Thái 
giáo, Bà La Môn giáo, Phật giáo và Công giáo, Islam giáo có tuổi 
đời muộn hơn rất nhiều. Vì vậy, thần học Islam giáo cũng như văn 
hóa Islam giáo chịu ảnh hưởng rất nhiều từ một số tôn giáo ra đời 
trước đó. Đồng thời, văn hóa Islam giáo chịu ảnh hưởng khá sâu 
sắc bởi nền văn hóa những quốc gia và châu lục mà nó vắt ngang, 
từ đó sản sinh ra văn hóa Islam giáo đa dạng với nhiều nét đặc thù 
mà không một tôn giáo nào có được. Trong lịch sử cũng như hiện 
tại, Islam giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, kinh 
tế, văn hóa, xã hội của những quốc gia có người dân gia nhập tôn 
giáo này. Bài viết này, trên cơ sở tư liệu chủ yếu từ cuốn sách 
“Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng” (Phòng Nghiên cứu 
Islam giáo, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới thuộc Viện Khoa 
học xã hội Trung Quốc, in lần thứ ba, Tề Lỗ thư xã ấn hành năm 
1996, bản dịch Việt ngữ của Trần Nghĩa Phương) góp phần làm rõ 
một số nội dung văn hóa của Islam giáo 
Từ khóa: Islam giáo, văn hóa Islam giáo, Muhammad, Kinh Koran. 
1. Nguồn gốc của văn hóa Islam giáo 
1.1. Tác động của các tôn giáo đến văn hóa Islam giáo 
1.1.1. Ảnh hưởng của Do Thái giáo 
Người Ảrập và người Do Thái giáo đều thuộc tộc người Sêmit, cùng 
thờ Abraham làm tổ tiên. Do Thái giáo truyền bá vào bán đảo Ảrập trước 
Công nguyên mấy thế kỷ. Do Thái giáo cùng với lối sống của người Do 
Thái ảnh hưởng rất lớn đến đời sống văn hóa của người Ảrập. 
Khi ra đời, Islam giáo tiếp thu và dung hợp hàng loạt tư tưởng, lễ 
nghi, giáo pháp của Do Thái giáo. Các tiên tri hoặc sứ giả nói đến trong 
*
 PGS.TS., Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 
Nguyễn Hồng Dương. Một số vấn đề văn hóa 107 
 107
Kinh Coran hầu hết là nhân vật kinh điển trong Do Thái giáo (Kinh Cựu 
Ước) như Adam, Noah, Abraham. Những câu chuyện trong Kinh Cựu 
Ước như Sáng thế, Hồng thủy, Adam và Eva phạm tội nguyên tổ, đều 
được đề cập đến trong Kinh Coran. Hai tôn giáo đều nhấn mạnh niềm tin 
độc thần, phản đối sùng bái ngẫu tượng, quan niệm về Thiên Đường và 
Hỏa Ngục. Vị trí và vai trò của nhà thờ, nghi thức cầu nguyện tập thể của 
Islam giáo rất giống với nghi thức lễ bái ở hội đường và ngày Sabat của 
Do Thái giáo. 
Muhammad, người sáng lập ra Islam giáo thừa nhận, Taurat (ngũ kinh 
của Do Thái giáo và Kitô giáo) là một kinh điển do Chân Chúa ban 
xuống; Mose là vị sứ giả Chân Chúa phái xuống truyền bá, do đó gọi tín 
đồ Do Thái giáo là “người có kinh sách” để phân biệt với tín đồ đa thần 
giáo và cũng để tạo sự ủng hộ của tín đồ Do Thái giáo trong cuộc đấu 
tranh với tín đồ đa thần giáo ở Mecca, một công việc mà khi bành trướng, 
Islam giáo phải đối đầu. 
Ngoài ra, trong quá trình truyền bá ra các châu lục Á, Âu, Phi, Islam 
giáo giữ thái độ khoan dung với các tôn giáo. Những người không phải là 
tín đồ Islam giáo (Muslim) chỉ cần nộp thuế thân là có quyền thực hành 
tôn giáo của mình. Thậm chí, một số người Do Thái vẫn được đảm nhận 
chức vụ quan trọng ở thủ đô hoặc ở tỉnh ngoài. Đồng thời, “từ giữa thế kỷ 
VIII về sau, đế quốc Islam ở thời kỳ này cực thịnh, xuất hiện cục diện 
văn hóa phồn vinh chưa từng có trong lịch sử do cộng đồng các dân tộc 
trong đế quốc sáng tạo nên. Nó đã kế thừa nền văn minh cổ đại của lưu 
vực sông Lưỡng Hà, lưu vực sông Nil và bờ phía đông Địa Trung Hải. 
Nó cũng đã hấp thụ dinh dưỡng của văn hóa Hy Lạp, văn hóa La Mã, 
trong đó tín đồ Do Thái giáo đóng góp một phần rất quan trọng. Trong 
thời gian từ thế kỷ IX đến thế kỷ XVIII, người Ảrập và người Do Thái đã 
đem đến văn hóa cổ điển Hy - La kết quả mà họ đã hấp thu, kế thừa, phát 
triển từ văn hóa Islam giáo, giới thiệu vào Châu Âu, tạo tiền đề về tư 
tưởng cho phong trào văn hóa phục hưng Châu Âu các thế kỷ XIV và 
XV. Đặc biệt, ở Tây Ban Nha thời vương triều Umayyad (765 - 1031) đã 
xuất hiện một loạt học giả Do Thái kiệt xuất, trong số họ có nhà triết học, 
nhà thiên văn học, nhà toán học, nhà sử học, nhà thơ, nhà ngôn ngữ. 
Nhiều người viết công trình bằng tiếng Ảrập, thông qua những hoạt động 
phiên dịch và học thuật của họ, làm cho triết học, khoa học tự nhiên, y 
108 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2014 
 108
học, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật của Hy Lạp và Ảrập được 
giới thiệu vào Châu Âu, thúc đẩy giao lưu văn hóa Đông - Tây”1. 
1.1.2. Ảnh hưởng của Kitô giáo 
Trước khi Islam giáo hiện diện, tư tưởng thần học của Kitô giáo và 
văn hóa Hy Lạp đã được tín đồ Kitô giáo giới thiệu cho người Ảrập trên 
bán đảo của họ. Đồng thời, giai đoạn đầu, người Muslim từng bị tầng lớp 
quý tộc Mecca bức hại phải đi lánh nạn ở một số vương quốc theo Kitô 
giáo, được các nước này giúp đỡ. Cho nên, tất nhiên họ chịu ảnh hưởng 
của Kitô giáo. Người Islam giáo cho rằng, Giêsu cũng là một sứ giả của 
Allah, được Chân Chúa khải thị sau Moses, có được sách Phúc Âm mà 
sáng lập ra Kitô giáo. Nhưng Islam giáo cũng chỉ trích Kitô giáo và Do 
Thái giáo là đã làm thay đổi Thánh Kinh, lấy cái giả làm rối loạn cái 
chính, che lấp cả chân lý, làm lại chính đạo. 
Ảnh hưởng của Kitô giáo đối với Islam giáo được thể hiện: “Trong 
Kinh Coran có nhắc tới Isã (Giêsu), Maryan (Maria), Zakarya 
(Zechariah), Tahya (Gioan Tẩy giả), v.v Đó là một số nhân vật, một số 
tình tiết và câu chuyện nổi tiếng trong Thánh Kinh Kitô giáo. Trong Kinh 
Coran, chúng ta cũng tìm thấy cách nói tương tự, ví dụ như “lạc đà và lỗ 
kim”, “xây nhà trên cát”, “người người đều phải thưởng thức hương vị 
của cái chết”, v.v Đặc biệt là một số câu chuyện trong Kinh Coran thời 
ở Mecca có nhiều chỗ giống với Phúc Âm Matthêu của Kitô giáo. Kinh 
Coran trong Islam giáo là lời của Chân Chúa cũng giống như thuyết 
Logos của Kitô giáo, những quan niệm về vườn Địa Đàng, Hỏa Ngục, 
thiên sứ, ma quỷ, về tư tưởng Mahdi, v.v đều rất gần gũi với quan 
điểm Kitô giáo. Nhưng Islam giáo phản đối thuyết Tam vị nhất thể. Theo 
họ, Giêsu không phải là Chân Chúa, cũng không phải là con của Thiên 
Chúa; Giêsu không phải bị giết, cũng không bị đóng đinh trên Thập giá; 
ngày phán xử cuối cùng, Giêsu sẽ ở bên cạnh Chân Chúa, v.v Theo 
Islam giáo, Tam vị nhất thể là trái ngược với tín điều cơ bản của tôn giáo 
độc thần. Về phương diện lễ nghi và thể chế tôn giáo, nghi thức cầu 
nguyện tập thể, trai giới, sắp đặt bàn thờ, bục giảng trong nhà thờ, v.v 
đều có cùng một nguồn gốc với Kitô giáo”2. 
1.1.3. Ảnh hưởng của Bái hỏa giáo (Zoroaster) 
Bái hỏa giáo là tôn giáo của người Ba Tư cổ. Khi bị quân Muslim 
chinh phục vào giữa thế kỷ VII, người Ba Tư vẫn giữ tôn giáo của mình. 
Nguyễn Hồng Dương. Một số vấn đề văn hóa 109 
 109
Việc Islam giáo hóa Ba Tư trải qua ba thế kỷ. Giáo lý cơ bản của Bái hỏa 
giáo thừa nhận trong vũ trụ có hai vị thần là thần Thiện Ahura và thần Ác 
Angra Maiayu. Thần Thiện được hiểu như thần sáng thế, ngược lại thần 
Ác là thần phá hoại. Thế giới là cuộc đấu tranh giữa Thiện và Ác. Cuộc 
đấu tranh có lúc thắng bại, nhưng cuối cùng, thần Thiện thắng thần Ác. 
Con người dựa vào một trong hai vị thần đó, và do vậy, số phận sẽ khác 
nhau. Đến ngày tận thế, những việc làm thiện ác của mỗi người sẽ nhận 
được báo ứng tốt xấu khác nhau. Theo Bái hỏa giáo, thế giới của người 
chết có ba tầng. Khi chết, con người phải đi qua một cái cầu dài bắc trên 
Hỏa Ngục. Người nào lúc sống làm việc thiện sẽ được gặp thần Thiện và 
được đưa đến sống ở Địa Đàng. Người làm việc ác qua cầu run sợ, bị đẩy 
xuống Hỏa Ngục, sung làm nô lệ cho thần Ác. Người có công tội như 
nhau, linh hồn ở giữa Thiên Đàng và Hỏa Ngục cho đến ngày phán xét 
cuối cùng. 
Giáo lý của Islam giáo cũng nói về cảnh giới trung gian giữa Thiên 
Quốc và Hỏa Ngục; cũng nói đến mọi người phải qua cầu trước ngày 
phán xử cuối cùng: “Nếu chúng ta nghiên cứu sâu hơn, chúng ta sẽ phát 
hiện thấy chế độ thế tập Imam và tính thiêng liêng của nó cùng với tư 
tưởng chính thể thần quyền mà phái Shiite chủ trương là cực kỳ giống 
với tư tưởng thần quang về linh hồn của phái Sufi, tư tưởng tự do ý chí 
của phái Qadr (Kadariyah) và phái Mustazilah, v.v có thể đều là bằng 
chứng về sự ảnh hưởng của Zoroaster giáo, hoặc có thể nói là ảnh hưởng 
của tư tưởng Ba Tư cổ trong Islam giáo”3. 
1.1.4. Ảnh hưởng của Ngộ đạo giáo (Gnosti) và Xích giáo (Sikhism) 
Trong Islam giáo, nhất là trong giáo lý của phái Sufi thần bí, tư tưởng 
về vật chất, thể xác là cái ác; tư tưởng về linh hồn giáng nhập vào trần thế 
bị vật chất mê hoặc để dẫn đến các loại dục vọng; tư tưởng về linh hồn 
cần phải được làm trong sạch và giải thoát khỏi thể xác; tư tưởng chuyên 
cần tu luyện, thanh tâm quả dục được coi là con đường duy nhất thoát 
khỏi ham muốn vật chất làm trong sạch linh hồn, và cả tư tưởng con 
người chỉ khi nào nhận thức được chân lý, đạt được thần trí mới có thể 
thoát ra khỏi những cám dỗ của thế giới vật chất. Tất cả những tư tưởng 
Islam giáo đó rõ ràng đều ảnh hưởng từ Ngộ đạo giáo4. 
Xích giáo là sự hỗn dung giữa Islam giáo với Ấn Độ giáo, ra đời ở 
vùng Punjab phía bắc Ấn Độ vào đầu thế kỷ XVI, người sáng lập là Gru 
Nanak (1469 - 1539). Tôn giáo này có nguồn gốc từ phong trào giữ 
110 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2014 
 110
vững đức tin thuần chính từ phía nam Ấn Độ phát triển lên phía bắc Ấn 
Độ vào thế kỷ XIII. Sau thế kỷ XV, nó phát triển thành phong trào cải 
cách xã hội tôn giáo quy mô lớn. Phong trào quan niệm Bhagavat (Đức 
Thế Tôn/ Thích Ca Mâu Ni) và Allah là một thể thống nhất, mọi người 
đều bình đẳng trước Thượng Đế, chế độ phân biệt đẳng cấp, sùng bái 
ngẫu tượng, tu hành khổ hạnh, đề cao nhân ái và khoan dung, v.v Là 
một nhà lãnh đạo phong trào đức tin thuần chính, những quan niệm trên 
được Guru Nanak coi là nội dung cơ bản của tư tưởng luân lý và giáo lý 
của Xích giáo. 
Nhất thần luận của Xích giáo rất gần với nhất thần luận của Islam 
giáo, tuy nhiên thần của Xích giáo rộng hơn, tạo ra vũ trụ toàn trí, toàn 
năng. Chức năng tổ sư của Xích giáo cơ bản giống chức năng của đạo sư 
phái Sufi và các sứ giả trong Islam giáo. Tư tưởng nghiệp báo, luân hồi 
và giải thoát là sự pha trộn của giáo lý Ấn Độ giáo. Về tư tưởng luân lý, 
Xích giáo gần với tư tưởng của Islam giáo khi chủ trương bỏ sùng bái 
ngẫu tượng, nghi thức tôn giáo quá phiền phức, tu hành khổ hạnh, đề cao 
bình đẳng và tự lực cánh sinh. 
1.2. Vai trò của văn hóa một số tộc người đối với văn hóa Islam giáo 
1.2.1. Ảnh hưởng của văn hóa người Đột Quyết 
 Người Đột Quyết từng chịu ảnh hưởng của Phật giáo, Ma Ni giáo và 
Cảnh giáo. Thế kỷ X, khi từ Trung Á tiến về phía tây gặp người Ả rập 
theo Islam giáo, nên họ chịu ảnh hưởng rất lớn từ tôn giáo này. Hầu hết 
người Đột Quyết gia nhập Islam giáo để rồi dần đóng vai trò chủ yếu 
trong lịch sử của Islam giáo. Đột Quyết không phải là tộc người bị 
Muslim chinh phục. Mối quan hệ đan xen văn hóa giữa người Đột Quyết 
với Islam giáo là hết sức phức tạp và phong phú. Ở đây chỉ xin nêu một 
vài ví dụ. 
Một cống hiến vĩnh cửu của người Đột Quyết đối với Islam giáo là 
mang đến cho tôn giáo này sắc thái thần bí. Phái Sufi đã tìm được mảnh 
đất màu mỡ ở vùng Trung Á, quê hương của người Đột Quyết. Sau thế 
kỷ XIV, Trung Á trở thành cái nôi của giáo đoàn Sufi. Các giáo đoàn đều 
mang trong mình những thành phần dị giáo mãnh liệt và dấu ấn Saman 
giáo nổi bật. Một số giáo đoàn Sufi có nguồn gốc từ người Đột Quyết, 
chẳng hạn như giáo đoàn Nakshbandi có ảnh hưởng rất lớn ở Đế quốc 
Osman và Đế quốc Mogul. 
Nguyễn Hồng Dương. Một số vấn đề văn hóa 111 
 111
“Cuối thời Phục hưng trung thế kỷ của Islam giáo, người Osman, 
người Shafawi và người Mogul sáng lập ra ba đế quốc lớn, đều khởi 
nguồn từ người Đột Quyết. Trong đó, ảnh hưởng lớn nhất là tổ tiên của 
người Osman, bộ lạc Ugus ở Trung Á. Đế quốc của họ vắt ngang qua ba 
châu Á, Âu, Phi, trở thành người thừa kế chân chính của Đế quốc Caliph 
Ảrập và người bảo hộ thánh địa Muslim. Sự nỗ lực giữ gìn truyền thống 
và mở rộng lãnh thổ Islam giáo của họ đã được những người Muslim tôn 
phong họ là người bảo vệ niềm tin chính thống Islam kiên cường nhất. 
Vai trò và tác dụng của người Đột Quyết trong Islam giáo đã đạt đến đỉnh 
cao của người Osman”5. 
1.2.2. Ảnh hưởng văn hóa của người Mông Cổ 
Thế kỷ XIII, đội quân thiết kỵ Mông Cổ từ Phương Đông qua sa mạc 
đánh chiếm thế giới Islam. Lúc này, Islam giáo đang ở trong tình trạng 
suy yếu. Địa vị tối cao của người Ảrập trong Islam giáo kết thúc với sự 
diệt vong của vương triều Abbas. Người Ảrập mất hẳn thế lực, các vương 
triều địa phương của người Đột Quyết, người Mông Cổ, người Ba Tư, 
người Buber thay nhau xuất hiện nhưng đều không đủ sức thống nhất 
toàn bộ thế giới Islam giáo. 
Hệ quả trực tiếp mà người Mông Cổ đem lại cho Islam giáo gồm hai 
vấn đề chính. Một là, các nhà giáo luật (Ulama) trong điều kiện hỗn loạn 
và suy thoái đã lấy việc bảo tồn và duy trì truyền thống tôn giáo làm 
nhiệm vụ chính. Điều này dẫn đến Islam giáo xa rời chính trị, quyền uy 
giáo lý tốt đẹp ngày một tăng, góp phần vào ổn định kết cấu xã hội. Hai 
là, diễn biến của thời cuộc dẫn đến phái Chính thống và phái Sufi thỏa 
hiệp với nhau. Các nhà giáo luật đi vào giáo đoàn Sufi hạn chế khuynh 
hướng tiêu cực của nó. Phái Sufi công khai thừa nhận quan niệm của phái 
Chính thống. Phái này được người Mông Cổ hoặc người Đột Quyết sử 
dụng khống chế được tư tưởng và sinh hoạt tôn giáo của tầng lớp Muslim 
lớp dưới. “Bắt đầu từ thế kỷ XIII, phái Sufi xây dựng một lối sống hay 
một phong cách sinh hoạt tôn giáo thịnh hành trong toàn bộ thế giới 
Islam giáo. Nó mang lại một luồng sinh khí tự mình phục hưng ngay từ 
trong lòng Islam giáo. Họ đã có những cống hiến không thể phủ nhận đối 
với việc thống nhất và củng cố thế giới Islam”6. 
Người Mông Cổ còn gián tiếp mang lại cho Islam giáo văn hóa một 
số tộc người. Dưới tác động cuộc xâm chiếm giữa người Mông Cổ, thế 
giới Islam giáo chia thành hai khu vực, lấy sông Euphrates làm ranh 
112 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2014 
 112
giới. Khu vực đông bắc lấy Iran làm trung tâm, phía tây kéo từ Tiểu Á 
đến giáp với Châu Âu, phía đông đến giáp với Ấn Độ. “Cuối thế kỷ 
XIII, Ba Tư đi theo Islam giáo. Từ đó, chính trị trong nước đi vào thời 
kỳ ổn định, văn hóa Muslim của Ba Tư được phục hưng. Thi ca, kiến 
trúc và mỹ thuật, bao gồm nghệ thuật hội họa đều có những tác phẩm 
kiệt xuất. Văn hóa Ba Tư có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần 
của người Osman, người Mogul. Trong khu vực này, văn hóa Ba Tư 
thay thế văn học Ảrập, tiếng Ảrập chủ yếu dùng trong tôn giáo và các 
hoạt động có liên quan. Dưới sự dẫn dắt của văn hóa Ba Tư, những 
ngôn ngữ và văn học tiếng địa phương như tiếng Đột Quyết, tiếng Uốc 
Đu, cũng được phát triển”7. 
Khu vực tây nam từ Irắc kéo đến Bắc Phi và miền nhiệt đới Châu Phi. 
Ai Cập kế thừa ngôn ngữ và di sản văn hóa Ảrập, Cairo thay thế Bát Đa 
trở thành trung tâm văn hóa Islam giáo. Truyền thống văn hóa Islam giáo 
vẫn tiếp nối và phát tri ...  Khu vực Ai Cập mở nhiều 
trường dạy viết chữ, tạo nên các môn phái, hình thành những cuộc thi 
đua, tranh luận giữa các học phái. 
Sau khi triều đại Mumluk sụp đổ, trung tâm thư pháp Islam giáo lại 
chuyển đến Thổ Nhĩ Kỳ. Người Thổ Nhĩ Kỳ còn coi trọng thư pháp hơn 
người Ảrập. Vua Selim I từng mời hàng loạt nhà thư pháp Ai Cập đến 
Thổ Nhĩ Kỳ giảng dạy, đào tạo chữ viết, hình thành một diễn đàn trao đổi 
về thư pháp nổi tiếng trong thế giới Islam giáo. “Thư pháp Islam giáo đến 
từ giá trị tinh thần cao thượng và sự tồn tại khách quan của Islam giáo. 
Ngược lại, nó cũng phản ánh mãnh liệt cái trụ cột tinh thần này của Islam 
giáo từ phương diện thời gian và không gian”12. 
Trải qua thời gian, thư pháp Islam giáo vượt ra khỏi sự sao chép Kinh 
Qur’an đi vào đời sống dân sinh. Các nhà nghệ thuật Islam giáo đem thư 
pháp ứng dựng vào các lĩnh vực nghệ thuật tạo hình như kiến trúc, hội 
họa, điêu khắc, gốm sứ, dệt may, làm cho các sản phẩm này mang hồn 
Islam giáo. Nghệ thuật thư pháp Islam giáo tiếp thu văn minh Phương 
Đông và Phương Tây để phát triển. Khi giao lưu với văn hóa Trung Hoa, 
họ đưa cái đẹp thiên nhiên (cây, người, chim, thú) hòa trộn vào, tạo cho 
118 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2014 
 118
thư pháp Islam giáo sinh khí mới được người dân hoan nghênh. Thư pháp 
Islam giáo còn được đưa vào công nghệ khảm trai, khảm bạc, dát vàng, 
khiến nó dần trở thành nghệ thuật độc đáo, tạo vị thế xứng đáng trong 
kho tàng nghệ thuật thế giới. 
Từ thập niên 80 của thế kỷ XX, nhiều quốc gia Islam giáo phục hưng 
thư pháp, tiêu biểu là Thổ Nhĩ Kỳ. Nước này mở cuộc thi thư pháp Islam 
định kỳ. Tín đồ Islam giáo trên thế giới đều có thể tham dự. 
2.4. Văn học Sufi 
Văn học Sufi do người phái Sufi thần bí vận dụng hình thức thơ ca, 
văn xuôi, truyện kể, v.v để biểu đạt niềm tin tôn giáo, tư tưởng triết 
học, quá trình tu luyện nội tâm và cả những thể nghiệm của mình. 
Văn học Sufi được sản sinh ra từ văn học Ảrập, dần phát triển thành 
một loại hình văn học độc lập. Dòng văn học này đến lượt nó lại là tiền 
đề cho thi ca thần bí Ba Tư và Đột Quyết phát triển. Vào thế kỷ X, al-
Husain ibn Mansur al Hallaj, nhà triết học lớn của phái Sufi tuẫn nạn, ông 
truyền cho các đệ tử chạy về Hulosan. Văn học Sufi vì vậy đã vượt ra 
ngoài biên giới Ảrập, trở thành bộ phận quan trọng cấu thành của văn hóa 
Islam giáo. Dòng văn học này góp phần phát triển văn học Ảrập, cải cách 
nội dung truyền thống, tạo nên thư pháp nghệ thuật mới. Vì vậy, văn học 
Sufi được nhìn nhận là tinh túy và đỉnh cao của văn học Ảrập. 
“Văn học Sufi có những đặc điểm nổi bật là: 1- Biểu đạt niềm tin 
trung thành của phái Sufi đối với Allah độc nhất, bao gồm tình yêu thần 
thánh, kiên định khổ luyện tu hành để được hợp nhất với Chân Chúa và 
những thể nghiệm trong các giai đoạn tu trì khác nhau; ca ngợi sứ giả của 
Allah là Muhammad, luôn tưởng nhớ về thánh địa; tuyên truyền những 
phẩm chất tốt đẹp của Islam giáo. 2- Phái Sufi trọng tinh thần, trọng trực 
giác. Họ xem tâm linh là một thế giới rộng lớn, hiểu được tâm linh là con 
đường duy nhất của nhận thức. Văn học của họ rất chú trọng về miêu tả 
và phân tích tâm lý, có thể mỗi vị đạo sư Sufi đều là một nhà tâm lý xuất 
sắc. 3- Có khuynh hướng nội tâm rất đậm. Văn học Sufi không đặt nhiệm 
vụ cho mình phải miêu tả thế giới bên ngoài mà nó dành nhiều tâm trí, 
dụng công khắc họa những ý nghĩa và cảnh giới thể nghiệm nội tâm, 
những xao động linh hồn, mà cảm quan phi lý tính cảm nhận được. 4- 
Với nhà thơ Sufi, ngôn ngữ là thủ pháp, là sinh mệnh, là toàn bộ ý nghĩa, 
nhưng nó tuyệt đối không phải là mục đích. Nhà thơ dùng ngôn ngữ 
Nguyễn Hồng Dương. Một số vấn đề văn hóa 119 
 119
mông lung hoặc trong suốt, thông tục hoặc quái dị, đau khổ hoặc hy 
vọng, để diễn đạt hành trình đi tìm kiểu ý nghĩa của sự sống và thời 
gian, tiền định và số mệnh của con người. Thể nghiệm nội tâm của mỗi vị 
đại sư đều hết sức độc đáo và phi thường. Bởi thế, những lời lẽ quen 
dùng, những cách nói bộc trực đối với họ trở nên nhạt nhẽo, không có 
sức thuyết phục. Thế là họ ngả theo hướng dùng thủ pháp tượng trưng và 
ẩn dụ, từ đó sáng tạo ra hàng loạt từ ngữ đặc thù của Sufi. Vì vậy, một số 
nhà phê bình xếp văn học Sufi vào loại văn học chủ nghĩa tượng trưng”13. 
Nói đến văn học Sufi không thể không nhắc đến văn xuôi, bởi nó cùng 
với thi ca là hai trụ cột chính của dòng văn học này. Văn xuôi Sufi đa 
dạng về hình thức như: điếu văn, cách ngôn, thư tín, cầu nguyện, độc 
thoại, v.v Trong khi đó, thơ ca Sufi lại đi vào những mảng khác như 
tình yêu của tín đồ đối với Allah, ca ngợi Allah và sứ giả của Người. Thơ 
cầu nguyện là một loại hình của thơ ca Sufi. Đây là lời kêu gọi khẩn thiết 
của tín đồ đối với Allah, mong đợi Người cứu giúp trong cơn khốn khổ, 
gian nan, nguy hiểm, cô đơn. 
2.5. Truyền thuyết đăng tiêu 
Truyền thuyết đăng tiêu (lên Trời) kể về câu truyện Muhammad được 
thiên sứ Jibra’il đưa lên gặp Allah trong một đêm hết sức thiêng liêng. 
Nội dung truyền thuyết như sau: Năm con gái Fatima của Muhammad 
vừa tròn 9 tuổi, vào tối ngày 27 tháng Ramadan, thiên sứ Jibra’il đến 
truyền đạt ý chỉ của Allah, triệu gọi Muhammad. Muhammad hân hoan 
tuân lệnh, cưỡi ngựa bằng ngọc bay từ Mecca hướng thẳng đến 
Jerusalem. Sau khi uống sữa, Muhammad bước lên chiếc thang ngọc 
dựng đứng trên một khối đá lớn. Tại sứ sở của Allah, các thiên sứ đang 
đẩy bánh xe Mặt Trời. Họ luôn tay ném những khối tuyết vào Mặt Trời, 
trên bánh xe có hàng chữ: “Vạn vật không có Chúa, duy chỉ có Thượng 
đế Allah, Muhammad là sứ giả, Abu Bakr là bạn, Omar anh minh vĩ đại”. 
Cổng vào bảy tầng Trời đều có thiên sứ canh giữ, mỗi tầng đều có một 
thiên sứ cai quản. Đến tầng trời thứ bảy, Muhammad gặp Ibrahim và các 
con trai của Isma’il, Ishaq, Ya’kul đang ngồi vây quanh. Muhammad bái 
lạy họ, rồi ngồi vào bên phải của thiên sứ Jibra’il bay thẳng lên đỉnh Trời. 
Thiên sứ mời Tiên tri đi một mình lên phía trước, bởi do địa vị, Thiên sứ 
không thể đi cùng, nếu không sẽ bị ánh hào quang của Allah thiêu chết. 
Tiên tri cảm thấy hoảng sợ. Thiên sứ đưa tay đỡ Tiên tri. Theo lệnh 
truyền từ Allah, Thiên sứ lấy thảm trân châu, đệm mới mời Tiên tri ngồi 
120 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2014 
 120
rồi đặt vào trong biển sáng. Trải qua các biển sáng, Muhammad đến được 
bờ bên kia. 
Được sự giúp đỡ của Thiên sứ, Muhammad đi xuyên qua bảy vạn lớp 
bình phong bằng sắt, đến gần ngôi báu. Chỉ còn bình phong ngăn cách 
giữa Tiên tri và Allah. Allah ra lệnh kéo tấm bình phong lên, Muhammad 
bị chìm ngập trong ánh sáng vĩ đại của Allah, không thể ngắm nhìn Chân 
Chúa bằng con mắt trần tục, mà phải chiêm ngưỡng bằng con mắt của 
trái tim. Theo lệnh của Allah, Tiên tri đến gần, đặt tay lên cánh tay của 
Người, lập tức nhận biết được toàn bộ tri thức kiếp trước và kiếp sau, 
trong lòng vui sướng không nói lên lời. Allah giải thích cho Tiên tri việc 
sáng tạo ra con người, vai trò và vị trí của Tiên tri, ban cho ông dòng 
sông Kausar (nhiều phúc), ban cho dân tộc ông tính khoan dung, khảng 
khái và nhân từ, quy định thời gian cầu nguyện năm lần trong một ngày. 
Tiên tri cảm tạ vạn lần rồi theo con đường cũ trở lại Thiên Đường, cáo 
biệt các huynh đệ trên bảy tầng Thiên Đình. Thiên sứ Jibra’il đưa Tiên tri 
trở lại trần gian. Đến ấy, Tiên tri kể lại cho vợ con những điều mình 
chứng kiến14. 
Cùng với sự phổ cập và phát triển của Islam giáo, truyền thuyết đăng 
tiêu của Muhammad không ngừng được hoàn thiện với 40 truyền bản. 
Bản sớm nhất là của Ibn Abbas và Ibn Malik thế kỷ VII. Buhari và 
Muslim cũng đề cập đến vấn đề này trong thánh huấn. Ibn Ishage là 
người miêu tả truyền thuyết này dưới hình thức một câu chuyện, hình 
thành nên hình hài cơ bản về hai thế giới Thiên Đường và Địa Ngục. Sự 
thể hiện tường tận, chi tiết và sinh động thuộc về bản của Abbas. 
Phái Sufi tiếp cận và mang lại cho truyền thuyết đăng tiêu những sắc 
thái mới. Họ lấy truyền thuyết để miêu tả một cách hình tượng quá trình 
tu luyện nội tâm của phái Sufi, biểu đạt tư tưởng triết học, tồn tại đơn 
nhất, kiến chứng đơn nhất. Có thể kể một số tác phẩm tiêu biểu: Giấc 
mộng đăng tiêu của Abu Yaqid của Bistami, Đêm Thiên đình của Ibn 
Arabi, Logic của chú chim của Atan. Truyền thuyết đăng tiêu còn dẫn ra 
một số bộ sử thi của Sana’i, Sách khoan dung của Maiali và Địa Ngục 
nổi loạn của Zaihawi. 
Truyền thuyết đăng tiêu sau này được dịch ra tiếng Ba Tư, tiếng Đột 
Quyết; giữa thế kỷ XIII được dịch ra tiếng Tây Ban Nha, tiếng Latinh, 
tiếng Pháp và truyền vào Châu Âu. Một số học giả cho rằng, truyền 
Nguyễn Hồng Dương. Một số vấn đề văn hóa 121 
 121
thuyết đăng tiêu có liên quan nhất định đến kiệt tác Thần khúc của thi hào 
Italia Đantê. 
2.6. “Nghìn lẻ một đêm” với Islam giáo 
Văn hóa Islam giáo với nhiều nét đặc thù của văn hóa ba châu lục Á, 
Phi và Âu. Điều này được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, trong đó có bộ 
Nghìn lẻ một đêm, viên ngọc lấp lánh của văn học dân gian Ảrập nhưng 
không hoàn toàn là những câu chuyện của Ảrập. Tác phẩm này được hình 
thành với ba nguồn gốc: Một là những câu chuyện của Ấn Độ và Ba Tư 
nhuốm đậm tính huyền thoại. Hai là những câu chuyện của Irắc (chủ yếu 
lấy đề tài từ con người, sự vật, hiện tượng kỳ lạ trong cung đình vương 
triều Abbas của Ảrập, viết vào các thế kỷ X - XI). Ba là những câu 
chuyện Ai Cập (các truyền thuyết thần thoại và mạo hiểm, viết vào các 
thế kỷ XIII - XIV). 
Đồng thời, Nghìn lẻ một đêm còn chịu ảnh hưởng bởi Bái hỏa giáo, 
Do Thái giáo, Kitô giáo, Islam giáo đã đề cập ở phần trên. Tuy nhiên, 
Islam giáo chiếm vị trí chủ đạo và xuyên suốt trong Nghìn lẻ một đêm. 
Nội dung tác phẩm này thấm đượm tình cảm Islam giáo trong từng con 
chữ, từng câu văn. Bất kỳ lúc nào và ở đâu, người đọc đều cảm nhận sự 
ca tụng Islam giáo và tinh thần của nó. Với ba tôn giáo còn lại, mỗi tôn 
giáo cũng đều có những ảnh hưởng khác nhau. 
Nghìn lẻ một đêm do chịu ảnh hưởng sâu sắc và chủ đạo từ Islam giáo, 
nên nhiều nhân vật chính được dựng lên với niềm tin tưởng Allah, phục 
tùng Chân Chúa, từ đó có được sức mạnh và dũng khí. Chỉ cần nhân vật 
chính phó thác thân tâm vào Chân Chúa, tín tưởng ở Chân Chúa, kêu to 
đại danh Allah hoặc thầm niệm “không có cách nào, không có sức mạnh 
nào, duy chỉ dựa vào Allah” khi gặp nguy hiểm hay đối diện với cái ác, 
thì kỳ tích sẽ xuất hiện, nguy sẽ hóa an. 
Các chủ đề vĩnh hằng của văn học dân gian như công bằng, chính 
thực, khuyến thiện, trừng ác được Nghìn lẻ một đêm tiếp thu, nhào nặn 
càng thể hiện rõ nét hơn, nổi bật hơn, trở thành cơ sở cho cái thiện thắng 
cái ác. Tinh thần Islam giáo tăng thêm sắc thái tình cảm hữu ái khoan 
dung, khiến cho các nhân vật chính trong tác phẩm này dù rơi vào tình 
huống bi thảm như thế nào cuối cùng cũng viên mãn. 
Nghìn lẻ một đêm từ chỗ là những câu chuyện truyền miệng trong dân 
gian đến chỗ hình thành sách (thế kỷ XVI) phải mất tám thế kỷ. Đây là 
122 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2014 
 122
giai đoạn Islam giáo từ thịnh vượng đến suy vi. Điều này được phản ánh 
khá rõ trong Nghìn lẻ một đêm. 
3. Kết luận 
Văn hóa Islam giáo là một vấn đề rộng lớn bởi lịch sử hình thành và 
phát triển của tôn giáo này. Trong khuôn khổ một bài viết, chúng tôi chỉ 
chọn một số loại hình văn hóa Islam giáo tiêu biểu. Do vậy, nhiều thành 
tựu văn hóa mà Islam giáo đã tạo nên trong tiến trình lịch sử như triết học, 
Kinh Qur’an, giáo luật, thiên văn học, vật lý học, y học, xây dựng thủy lợi 
để phát triển nông nghiệp, hy vọng sẽ được đề cập vào các dịp khác./. 
CHÚ THÍCH: 
1 Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, Phòng 
Nghiên cứu Islam giáo (1996), Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng, in lần thứ 
ba, bản dịch Việt ngữ của Trần Nghĩa Phương, Tề Lỗ thư xã: 133 - 134. 
2 Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, Phòng 
Nghiên cứu Islam giáo (1996), Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng, sđd: 131. 
3 Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, Phòng 
Nghiên cứu Islam giáo (1996), Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng, sđd: 136. 
4 Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, Phòng 
Nghiên cứu Islam giáo (1996), Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng, sđd: 138. 
5 Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, Phòng 
Nghiên cứu Islam giáo (1996), Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng, sđd: 127. 
6 Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, Phòng 
Nghiên cứu Islam giáo (1996), Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng, sđd: 128. 
7 Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, Phòng 
Nghiên cứu Islam giáo (1996), Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng, sđd: 128. 
8 Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, Phòng 
Nghiên cứu Islam giáo (1996), Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng, sđd: 129. 
9 Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, Phòng 
Nghiên cứu Islam giáo (1996), Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng, sđd: 188. 
10 Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, Phòng 
Nghiên cứu Islam giáo (1996), Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng, sđd: 190 
11 Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, Phòng 
Nghiên cứu Islam giáo (1996), Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng, sđd: 189. 
12 Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, Phòng 
Nghiên cứu Islam giáo (1996), Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng, sđd: 192. 
13 Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, Phòng 
Nghiên cứu Islam giáo (1996), Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng, sđd: 141. 
14 Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, Viện Nghiên cứu Tôn giáo Thế giới, Phòng 
Nghiên cứu Islam giáo (1996), Văn hóa Islam giáo nhìn từ mọi hướng, sđd: 143. 
Nguyễn Hồng Dương. Một số vấn đề văn hóa 123 
 123
Abstract 
SOME ISSUES ON ISLAMIC CULTURE 
Islam is the largest religion (approximately 1.6 billion people), 
available in almost all the continents in the world today. Islam was born 
so much later than Judaism, Brahmanism, Buddhism and Catholicism. 
Therefore, Islamic theology as well as the culture of Islam influenced a 
lot from some religion came into existence earlier. At the same time, the 
culture of Islam was influenced deeply by the culture of the countries and 
continents where it crossed over, from which produced diverse culture 
with many specific characteristics without a religion would have been. In 
history as well as current, Islam influenced quite deeply into politics, 
economy, culture, society of the country that people join this religion. 
This article, on the basis of data mostly from the book “Culture of Islam 
Viewed in All Respects” (Islamic Studies Department, Institute of World 
Religions Studies in Chinese Academy of Social Sciences, third edition, 
Qi Lu publication in 1996, translated into Vietnamese by Trần Nghĩa 
Phương) contributes to the clarification of Islamic culture. 
Key words: Islam, Islamic culture, Muhammad, Qur’an. 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_van_hoa_islam_giao.pdf