Kiến thức, thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện một số biện pháp phòng ngừa chuẩn tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình

Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện một số biện pháp phòng ngừa chuẩn tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2018.

Phương pháp: Là một nghiên cứu mô tả qua cuộc điều tra cắt ngang.

Kết quả: 96,9% nhân viên y tế (NVYT) biết rằng tuân thủ vệ sinh tay (VST) sẽ làm giảm nguy cơ mắc nhiễm khuẩn, 82,7% biết tuân thủ VST thường quy loại bỏ hầu hết vi sinh vật trên da bàn tay, 98,2% NVYT biết cần VST trước và sau khi tiếp xúc với mỗi bệnh nhân. 34,9% NVYT trả lời đúng thời gian thích hợp cho 1 lần VST với nước và xà phòng hoặc với cồn/dung dịch sát khuẩn chứa cồn. 66,1% và 47,8% NVYT biết có 3 lần phải VST khi mang và tháo phương tiện phòng hộ (PTPH). 96,9% NVYT biết PTPH bao gồm áo choàng, mũ, kính mắt, tấm che mặt, găng tay và khẩu trang. Tỷ lệ NVYT đạt kiến thức chung về VST là 56,6%; về sử dụng PTPH là 45,4%

pdf 7 trang phuongnguyen 180
Bạn đang xem tài liệu "Kiến thức, thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện một số biện pháp phòng ngừa chuẩn tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện một số biện pháp phòng ngừa chuẩn tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình

Kiến thức, thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện một số biện pháp phòng ngừa chuẩn tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình
SỐ 3 (50) - Tháng 05-06/2019
Website: yhoccongdong.vn 27
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thực hành của nhân viên y 
tế trong thực hiện một số biện pháp phòng ngừa chuẩn tại 
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2018. 
Phương pháp: Là một nghiên cứu mô tả qua cuộc 
điều tra cắt ngang.
Kết quả: 96,9% nhân viên y tế (NVYT) biết rằng tuân 
thủ vệ sinh tay (VST) sẽ làm giảm nguy cơ mắc nhiễm 
khuẩn, 82,7% biết tuân thủ VST thường quy loại bỏ hầu 
hết vi sinh vật trên da bàn tay, 98,2% NVYT biết cần VST 
trước và sau khi tiếp xúc với mỗi bệnh nhân. 34,9% NVYT 
trả lời đúng thời gian thích hợp cho 1 lần VST với nước 
và xà phòng hoặc với cồn/dung dịch sát khuẩn chứa cồn. 
66,1% và 47,8% NVYT biết có 3 lần phải VST khi mang 
và tháo phương tiện phòng hộ (PTPH). 96,9% NVYT biết 
PTPH bao gồm áo choàng, mũ, kính mắt, tấm che mặt, 
găng tay và khẩu trang. Tỷ lệ NVYT đạt kiến thức chung 
về VST là 56,6%; về sử dụng PTPH là 45,4%. 
Về thực hành đúng VST trong phòng ngừa chuẩn: 
46,8% và 56,9% NVYT có VST trước và sau khi động 
chạm vào bệnh nhân; 40,3% và 49,8% NVYT có VST 
trước khi mang găng; và sau khi tháo găng. Tỷ lệ NVYT 
mang găng tay khi thực hiện các thao tác có khả năng tiếp 
xúc với máu/dịch cơ thể là 63,1%. Tỷ lệ NVYT mang khẩu 
trang giấy ngoại khoa khi thực hiện thủ thuật có nguy cơ 
văng/bắn máu, dịch cơ thể là 30,5%. Tỷ lệ NVYT có thực 
hành đúng về phòng ngừa chuẩn là 42,7%. 
Kết luận: Tỷ lệ NVYT đạt kiến thức chung về VST là 
56,6%; về sử dụng PTPH là 45,4%. Tỷ lệ NVYT có thực 
hành đúng về phòng ngừa chuẩn là 42,7%. 
Từ khóa: Vệ sinh tay, phòng ngừa chuẩn.
SUMMARY:
KNOWLEDGE, PRACTICE OF HEALTH 
STAFF IN IMPLEMENTING SOME PREVENTION 
MEASURES AT THAI BINH PROVINCE HOSPITAL
Objective: Describe the knowledge and practice of 
medical staff in implementing some standard preventive 
measures at Thai Binh General Hospital in 2018.
Method: A descriptive study through a cross-
sectional investigation.
Results: 96.9% of health workers know that 
compliance with hand hygiene will reduce the risk of 
infection, 82.7% know how to comply with routine hand 
hygiene and eliminate most of VSV on hand skin, 98.2% 
know need to clean hands before and after contacting each 
patient. 34.9% of health workers answered the right time 
for 1 hand hygiene with water and soap or with alcohol/
antiseptic alcohol containing alcohol. 66.1% and 47.8% of 
health workers knew that had to clean their hands 3 times 
when carrying and removing protective devices. 96.9% 
of health workers know protective equipment including 
robes, hats, eyeglasses, face shields, gloves and masks. 
The rate of health workers reaching general knowledge 
about hand hygiene is 56.6%; about the use of protective 
equipment is 45.4%
About proper hand hygiene practices in standard 
precautions: 46.8% and 56.9% of health workers have 
hand hygiene before and after touching patients; 40.3% 
and 49.8% of health workers have hand hygiene before 
wearing gloves; and after removing gloves. The proportion 
of health workers carrying gloves when performing 
operations that are likely to be exposed to blood / body 
Ngày nhận bài: 01/04/2019 Ngày phản biện: 10/04/2019 Ngày duyệt đăng: 15/04/2019
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TRONG 
THỰC HIỆN MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA CHUẨN TẠI 
BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH THÁI BÌNH
Bùi Thị Xuyến1, Nguyễn Xuân Bái2, Hoàng Thị Hòa3
1. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình
2. Trường Đại học Y dược Thái Bình
3. Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
SỐ 3 (50) - Tháng 05-06/2019
Website: yhoccongdong.vn28
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
fluids is 63.1%. 30.5% wear surgical paper masks when 
performing procedures that risk splashing / splashing 
blood and body fluids. The proportion of health workers 
with the right practice of standard prevention is 42.7%.
Keywords: Hand hygiene, standard prevention
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phòng ngừa chuẩn (PNC) được định nghĩa là tập hợp 
các biện pháp phòng ngừa áp dụng cho mọi người bệnh 
tại bệnh viện không tùy thuộc vào chẩn đoán và tình trạng 
nhiễm trùng của người bệnh. Mục tiêu của phòng ngừa 
chuẩn là nhằm phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm chéo 
qua máu, dịch tiết cơ thể, chất tiết cho dù chúng được nhìn 
thấy có chứa máu hay không, da không lành lặn và niêm 
mạc. Đây là biện pháp phòng ngừa quan trọng nhất, nhằm 
hạn chế sự lây truyền từ người sang người và từ người 
sang môi trường [3].
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, có ít nhất 1 trong 4 bệnh 
nhân chăm sóc đặc biệt bị nhiễm trùng trong thời gian ở 
bệnh viện, ở các nước đang phát triển, ước tính này có thể 
được tăng lên gấp đôi [6]. Báo cáo bùng nổ NKBV tại châu 
Âu, các bệnh nhiễm trùng gây ra do chăm sóc sức khỏe 
làm tăng thêm 16 triệu ngày điều trị và 37 nghìn trường 
hợp tử vong. Ở nước ta, công tác PNC vẫn còn đối đầu rất 
nhiều trở ngại như nguồn ngân sách còn hạn chế, cơ sở vật 
chất thiếu thốn, phần lớn NVYT và các nhà quản lý chưa 
nhận thức tầm quan trọng của công tác này. Nguyên nhân 
gây NKBV có rất nhiều [5], tuy nhiên, một trong những 
nguyên nhân quan trọng là kiến thức, thái độ của NVYT 
phòng ngừa chuẩn chưa cao. 
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình là bệnh viện hạng 
I, với quy mô 1000 giường bệnh, mỗi ngày có khoảng 700 
bác sỹ và điều dưỡng bệnh viện trực tiếp tiếp xúc với bệnh 
nhân, với khoảng 1300 lượt người bệnh đến khám và điều 
trị mỗi ngày. Bên cạnh đó bệnh viện là cơ sở thực hiện 
nhiều chuyên khoa sâu nên vấn đề phòng ngừa chuẩn đang 
ngày càng trở lên cấp thiết. Các nghiên cứu trước đây phần 
lớn chỉ tìm hiểu về kiến thức, thái độ tuân thủ một số quy 
định về PNC, chưa khai thác đầy đủ các khía cạnh khác 
của tuân thủ PNC. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu 
đề tài với mục tiêu: Mô tả kiến thức, thực hành của nhân 
viên y tế trong thực hiện một số biện pháp phòng ngừa 
chuẩn tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2018.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN 
CỨU
Đối tượng và địa bàn nghiên cứu: NVYT bao gồm 
các bác sĩ, điều dưỡng, hộ lý đang trực tiếp điều trị, chăm 
sóc bệnh nhân tại các khoa lâm sàng có thực hành các 
biện pháp phòng ngừa chuẩn; làm việc liên tục tại bệnh 
viện đa khoa tỉnh Thái Bình ≥12 tháng; đồng ý tham gia 
nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9/2018 - 5/2019
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả qua một 
cuộc điều tra cắt ngang.
Cỡ mẫu nghiên cứu: Áp dụng theo công thức tính cỡ 
mẫu xác định tỷ lệ:
2
2
α/21
d
p)p( z
n
1−
=
×−
Lấy p=0,5. Cỡ mẫu tính toán tối thiểu là 267 đối 
tượng, thực tế điều tra 295 đối tượng. 
Phương pháp chọn mẫu
Tổng số cán bộ ở 24 khoa lâm sàng là 695. Nhân viên 
y tế được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên 
có hệ thống. Lập danh sách tất cả NVYT của 24 khoa lâm 
sàng. Xác định khoảng cách mẫu k=N/n=695/270=2,57. 
Chọn khoảng cách mẫu là k=3. Chọn ngẫu nhiên đối tượng 
đầu tiên và các đối tượng tiếp theo sẽ được chọn vào mẫu 
cho đến khi đủ 295 đối tượng.
Các biến số và chỉ số nghiên cứu
Biến số kiến thức của nhân viên y tế:
- Kiến thức của nhân viên y tế về tác dụng của VST 
trong phòng ngừa chuẩn.
- Kiến thức của nhân viên y tế về thời gian thích 
hợp cho 1 lần VST
- Tỷ lệ nhân viên y tế đạt kiến thức chung về VST 
theo trình độ
- Kiến thức đúng của NVYT về quy trình sử dụng 
phương tiện phòng hộ trong PNC
- Kiến thức chung về sử dụng phương tiện phòng hộ 
theo trình độ
Biến số về thực hành:
- Thực hành của NVYT về VST trong PNC 
- Thực hành của NVYT về phòng hộ cá nhân trong PNC 
Công cụ và phương pháp thu thập số liệu
* Công cụ thu thập số liệu 
- Bộ câu hỏi được xây dựng dựa trên các biến số 
nghiên cứu và dựa trên “Hướng dẫn về kiểm soát nhiễm 
khuẩn trong các cơ sở khám chữa bệnh” của Bộ Y tế, năm 
2017 và Thông tư 16/2018/TT-BYT quy định về kiểm soát 
nhiễm khuẩn trong các cơ sở khám chữa bệnh.
* Phương pháp thu thập số liệu
+ Phương pháp tiến hành phát phiếu tự điền
SỐ 3 (50) - Tháng 05-06/2019
Website: yhoccongdong.vn 29
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3.1. Kiến thức của NVYT về VST trong phòng ngừa chuẩn
Đặc điểm
Kiến thức đúng
Bác sĩ (n=82) Điều dưỡng (n=213) Chung (n=295)
SL % SL % SL %
Bàn tay NVYT là tác nhân quan trọng trong lây 
truyền NKBV
67 81,7 192 90,1 259 87,8
NVYT tuân thủ VST sẽ làm giảm nguy cơ mắc 
nhiễm khuẩn 
81 98,8 205 96,2 286 96,9
Tuân thủ VST thường quy loại bỏ hầu hết VSV 
trên da bàn tay
56 68,3 188 88,3 244 82,7
NVYT cần VST trước và sau khi tiếp xúc với 
mỗi bệnh nhân
80 97,6 210 98,6 290 98,3
Bảng 3.2. Kiến thức của NVYT về thời gian thích hợp cho một lần VST
Dung dịch VST
Thời gian 1 lần 
VST
Bác sĩ (n=82) Điều dưỡng (n=213) Chung (n=295)
SL % SL % SL %
Nước và xà phòng
5-15 giây 3 3,7 8 3,8 11 3,7
20-30 giây 38 46,3 139 65,3 177 60,0
35-45 giây 38 46,3 65 30,5 103 34,9
Không biết 3 3,7 1 0,5 4 1,4
Cồn hoặc dung dịch 
sát khuẩn có chứa cồn
5-15 giây 36 43,9 93 43,7 129 43,7
20-30 giây 38 46,3 113 53,1 151 51,2
35-45 giây 6 7,3 6 2,83,3 12 4,1
Không biết 2 2,4 1 0,5 3 1,0
Tổng 82 100,0 213 100,0 295 100,0
* Đo lường kiến thức, thái độ, thực hành 
- Về kiến thức của NVYT: Đánh giá theo thang điểm 
nhị giá, 1 điểm cho câu trả lời đúng và 0 điểm cho câu trả lời 
sai. Số câu trả lời đúng sẽ bằng tổng số điểm đạt được. Kiến 
thức được đánh giá là Đạt khi điểm số ≥ 2/3 số điểm tuyệt đối.
- Về thái độ của NVYT: Nghiên cứu sử dụng thanh đo 
Likert 3 mức “không đồng ý”, “Không ý kiến” và “ Đồng 
ý” để NVYT lựa chọn. Điểm tối đa của phần đánh giá thái 
độ là 7 điểm. NVYT được đánh giá là có thái độ được đánh 
giá là tích cực khi số điểm ≥ 5 điểm (> 70%). Không tích 
cực khi số điểm < 5 điểm .
- Về thực hành của NVYT: Đánh giá theo thang điểm 
4: luôn luôn (4 điểm), thường xuyên (3 điểm), đôi khi 
(2 điểm), hiếm khi (1 điểm), không thực hiện (0 điểm). 
NVYT có thực hành đúng khi thực hiện ở mức luôn luôn 
hoặc thường xuyên và đạt điểm > 50%.
Xử lý số liệu: Số liệu được làm sạch và nhập máy. Sử 
dụng phần mềm SPSS phân tích.
III. KẾT QUẢ
Kết quả bảng trên cho thấy tỷ lệ nhân viên y tế cho 
rằng: bàn tay NVYT là tác nhân quan trọng trong lây 
truyền NKBV là 87,8%, tuân thủ VST sẽ làm giảm nguy 
cơ mắc nhiễm khuẩn là 96,9%, tuân thủ VST thường quy 
loại bỏ hầu hết VSV trên da bàn tay là 82,7%. NVYT cần 
VST trước và sau khi tiếp xúc với mỗi bệnh nhân là 98,2%.
SỐ 3 (50) - Tháng 05-06/2019
Website: yhoccongdong.vn30
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
Bảng 3.3. Tỷ lệ NVYT đạt kiến thức chung về VST theo trình độ
Kiến thức chung về VST 
của NVYT
Bác sĩ (n=82) Điều dưỡng (n=213) Chung (n=295)
SL % SL % SL %
Không đạt 46 56,1 82 38,5 128 43,4
Đạt 36 43,9 131 61,5 167 56,6
Tổng 82 100,0 213 100,0 295 100,0
Bảng 3.4. Tỷ lệ NVYT có kiến thức đúng về quy trình sử dụng PTPH
Kiến thức đúng về quy trình sử 
dụng PTPH
Kiến thức đúng
Bác sĩ (n=82) Điều dưỡng (n=213) Chung (n=295)
SL % SL SL % SL
Mang phương tiện phòng hộ 54 65,9 141 66,2 195 66,1
Tháo phương tiện phòng hộ 41 50,0 100 46,9 141 47,8
Mục đích mang PTPH 72 87,8 201 94,4 273 92,5
Phương tiện không là PTPH 79 96,3 207 97,2 286 96,9
Bảng 3.5. Tỷ lệ NVYT đạt kiến thức chung về sử dụng PTPH theo trình độ
Kiến thức chung về sử dụng phương 
tiện phòng hộ
Bác sĩ (n=82) Điều dưỡng (n=213) Chung (n=295)
SL % SL % SL %
Không đạt 47 57,3 114 53,5 161 54,6
Đạt 35 42,7 99 46,5 134 45,4
Tổng 82 100,0 213 100,0 295 100,0
Kết quả bảng cho thấy có 34,9% NVYT trả lời đúng 
thời gian thích hợp cho 1 lần vệ sinh tay với nước và xà 
phòng là 35-45 giây; 51,2% NVYT trả lời đúng thời gian 
thích hợp cho 1 lần vệ sinh tay với cồn hoặc dung dịch sát 
khuẩn có chứa cồn là 20-30 giây. 
 Kết quả bảng trên cho thấy tỷ lệ NVYT đạt kiến thức chung về VST là 56,6%. Trong đó bác sỹ là 43,9% và điều 
dưỡng là 61,5%.
Kết quả bảng trên cho thấy 66,1% và 47,8% NVYT 
biết có 3 lần phải vệ sinh tay khi mang và khi tháo phương 
tiện phòng hộ. 92,5% NVYT biết mục đích mang phương 
tiện phòng hộ để bảo vệ NVYT và người bệnh và cộng 
đồng. 96,9% NVYT biết phương tiện phòng hộ bao gồm áo 
choàng, mũ, kính mắt, tấm che mặt, găng tay và khẩu trang.
Kết quả bảng trên cho thấy tỷ lệ nhân viên y tế đạt kiến thức chung về sử dụng phương tiện phòng hộ là 45,4%. 
Trong đó bác sỹ là 42,7% và điều dưỡng là 46,5%.
SỐ 3 (50) - Tháng 05-06/2019
Website: yhoccongdong.vn 31
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3.6. Tỷ lệ NVYT thực hành đúng VST trong PNC
Nội dung
Thực hành đúng
Bác sĩ (n=82) Điều dưỡng (n=213) Chung (n=295)
n % n % n %
VST trước khi thao tác trên BN 39 47,6 99 46,5 138 46,8
VST sau khi thao tác trên BN 47 57,3 121 56,8 168 56,9
VST trước khi mang găng 32 39,0 87 40,8 119 40,3
VST sau khi tháo găng 39 47,6 108 50,7 147 49,8
VST sau khi tiếp xúc với đồ dùng, vật 
dụng trong bề mặt môi trường buồng bệnh
34 41,5 105 49,3 139 47,1
Bảng 3.7. Tỷ lệ NVYT thực hành đúng sử dụng PHCN trong PNC
Nội dung
Thực hành đúng
Bác sĩ (n=82) Điều dưỡng (n=213) Chung (n=295)
n % n % n %
Mang găng tay khi thực hiện các thao tác có 
khả năng tiếp xúc với máu/dịch cơ thể.
63 76,8 123 57,7 186 63,1
Mang găng khi bàn tay NVYT bị trầy xước, 
viêm da
53 64,6 136 63,8 189 64,1
Không sử dụng một đôi găng để thăm khám 
nhiều BN
30 36,6 64 30,0 94 31,9
Mang khẩu trang giấy ngoại khoa khi thực 
hiện thủ thuật có nguy cơ văng/bắn máu, dịch 
29 35,4 61 28,6 90 30,5
Sử dụng tấm che mặt/ kính bảo hộ khi thực 
hiện thủ thuật nguy cơ văng, bắn máu/dịch 
27 32,9 79 37,1 106 35,9
Kết quả bảng trên cho thấy có 46,8% và 56,9% NVYT 
có thực hiện VST trước và sau khi thao tác trên BN; 40,3% 
và 49,8% NVYT có VST trước khi mang và sau khi tháo 
găng; 47,1% có VST sau khi tiếp xúc với đồ dùng, vật 
dụng trong bề mặt môi trường buồng bệnh.
Kết quả bảng trên cho thấy tỷ lệ NVYT mang găng 
tay khi thực hiện các thao tác có khả năng tiếp xúc với 
máu/dịch cơ thể là 63,1%. Mang găng khi bàn tay bị trầy 
xước, viêm da là 64,1%. Tỷ lệ NVYT không sử dụng 
một đôi găng để thăm khám nhiều bệnh nhân là 31,9%. 
Tỷ lệ NVYT mang khẩu trang giấy ngoại khoa khi thực 
hiện thủ thuật có nguy cơ văng/bắn máu, dịch cơ thể là 
30,5%. Tỷ lệ NVYT sử dụng tấm che mặt/ kính bảo hộ 
khi thực hiện thủ thuật nguy cơ văng, bắn máu/dịch cơ 
thể là 35,9%.
SỐ 3 (50) - Tháng 05-06/2019
Website: yhoccongdong.vn32
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019
Bảng 3.8. Tỷ lệ NVYT đạt thực hành đúng về phòng ngừa chuẩn theo trình độ 
Thực hành đúng về phòng 
ngừa chuẩn
Bác sĩ (n=82) Điều dưỡng (n=213) Chung (n=295)
SL % SL % SL %
Không đạt 52 63,4 117 54,9 169 57,3
Đạt 30 36,6 96 45,1 126 42,7
Tổng 82 100,0 213 100,0 295 100,0
Kết quả tại bảng trên cho thấy tỷ lệ nhân viên y tế có 
thực hành đúng về phòng ngừa chuẩn là 42,7%. Trong đó 
bác sĩ là 36,6% và điều dưỡng là 45,1%.
IV. BÀN LUẬN
Vệ sinh tay là nội dung cơ bản của PNC và là biện 
pháp hiệu quả nhất trong kiểm soát lây truyền tác nhân gây 
bệnh trong các cơ sở khám chữa bệnh [1]. Nghiên cứu của 
chúng tôi cho thấy tỷ lệ NVYT cho rằng: bàn tay NVYT là 
tác nhân quan trọng trong lây truyền NKBV là 87,8%; tuân 
thủ VST sẽ làm giảm nguy cơ mắc nhiễm khuẩn là 96,9%; 
tuân thủ VST thường quy loại bỏ hầu hết VSV trên da bàn 
tay là 82,7%. NVYT cần VST trước và sau khi tiếp xúc 
với mỗi bệnh nhân là 98,2%. Kết quả này khá tương đồng 
với kết quả đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành rửa 
tay của NVYT tại một bệnh viện ở Cairo (Ai Cập) với kết 
quả là 96% điều dưỡng cho rằng rửa tay sẽ giúp bảo vệ họ 
tránh khỏi nhiễm khuẩn; 92% cho rằng rửa tay cũng có thể 
làm giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện nhiều hơn so với bất 
kỳ phương pháp kiểm soát nhiễm khuẩn khác. 
Các thời điểm vệ sinh tay khi chăm sóc người bệnh 
gồm có 5 thời điểm: Trước khi tiếp xúc người bệnh, tỷ lệ 
trả lời đúng của bác sĩ và điều dưỡng tương ứng là (97,6% 
và 98,6%); tỷ lệ chung đạt 98,3%. Theo nghiên cứu của tác 
giả Trương Anh Thư thì kết quả tỷ lệ về nội dung vệ sinh 
tay trước khi tiếp xúc người bệnh đạt 90,8%, khá tương 
đồng với nghiên cứu của chúng tôi [8]. Để đạt được hiệu 
quả trong công tác vệ sinh tay thì ngoài kỹ thuật và thời 
điểm vệ sinh tay thì việc lựa chọn hóa chất và thời gian vệ 
sinh tay là vô cùng quan trọng [2]. Tuy nhiên đối với các 
câu hỏi kiến thức, số NVYT trả lời sai nhiều nhất ở câu hỏi 
về thời gian thích hợp cho một lần vệ sinh tay với nước 
và xà phòng (65,1%), với dung dịch vệ sinh tay chứa cồn 
(48,8%). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương 
đồng với kết quả nghiên cứu của Phùng Văn Thủy năm 
2014 là 62.3%. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ 
NVYT đạt kiến thức chung về VST là 56,6%. Điều dưỡng 
có kiến thức về VST cao hơn bác sỹ (61,5% và 43,9%). 
Kết quả này cho thấy những hạn chế trong nội dung tập 
huấn về VST. Theo đó nội dung tập huấn VST của BVĐK 
tỉnh Thái Bình cần nhấn mạnh và dành nhiều thời lượng 
hơn để nâng cao ý thức của NVYT về thời gian và các hình 
thức VST, về việc sử dụng, lựa chọn hóa chất VST thích 
hợp cho từng thời điểm.
Phương tiện phòng hộ cá nhân là một trong những 
nội dung chính của phòng ngừa chuẩn, nó đồng thời là 
hàng rào bảo vệ cho NVYT trong công tác chăm sóc người 
bệnh. Kết quả nghiên cứu cho thấy gần như toàn bộ nhân 
viên y tế (92,5%) đã trả lời đúng về mục đích của việc 
mang phương tiện phòng hộ cá nhân là để bảo vệ cho 
NVYT và bệnh nhân tránh nguy cơ nhiễm trùng chéo. Kết 
quả này tương đồng với kết quả của Võ Văn Tân tại Bệnh 
viện Tiền Giang (98%). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
cũng cho thấy 66,1% và 47,8% NVYT biết có 3 lần phải 
vệ sinh tay khi mang và tháo phương tiện phòng hộ. 96,9% 
NVYT biết phương tiện phòng hộ bao gồm áo choàng, mũ, 
kính mắt, tấm che mặt, găng tay và khẩu trang. Nghiên cứu 
cũng cho thấy tỷ lệ nhân viên y tế đạt kiến thức chung về 
sử dụng phương tiện phòng hộ là 45,4%. Trong đó bác sỹ 
là 42,7% và điều dưỡng là 46,5%.
Rửa tay thường quy là bắt buộc với các nhân viên y 
tế ở mọi khoa/phòng nhằm phòng ngừa nhiễm khuẩn bệnh 
viện, đảm bảo an toàn cho người bệnh, NVYT và cộng 
đồng. Kết quả cho thấy, về thực hành VST trước khi tiếp 
xúc với người bệnh đạt 46,8%. Nghiên cứu của Nguyễn 
Việt Hùng [4] đạt 29,1%. Kết quả nghiên cứu này khá thấp 
so với nghiên cứu của chúng tôi, có thể lý giải rằng trong 
nghiên cứu của chúng tôi có cỡ mẫu nhỏ.
Về nội dung VST sau khi tiếp xúc với người bệnh 
chúng tôi nhận thấy kết quả của tác giả Sharma S có tỷ lệ 
tuân thủ đạt 52%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đạt 
56,9% khá tương đồng [7]. Về nội dung VST trước khi 
mang găng và sau khi tháo găng, theo Nguyễn Quang Tập 
SỐ 3 (50) - Tháng 05-06/2019
Website: yhoccongdong.vn 33
VI
N
S
C K
H E
C NG
NG 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
tỷ lệ này đạt 79,1% cao hơn nghiên cứu của chúng tôi, tỷ 
lệ nhân viên y tế vệ sinh tay trước khi mang găng là 40,3% 
và sau khi mang găng là 49,8%. 
Thực hành về sử dụng PTPH trong PNC, kết quả 
nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ NVYT mang găng tay khi thực 
hiện các thao tác có khả năng tiếp xúc với máu/dịch cơ 
thể là 63,1%. Tỷ lệ NVYT mang găng khi bàn tay bị trầy 
xước, viêm da là 64,1%. Tỷ lệ NVYT không sử dụng một 
đôi găng để thăm khám nhiều bệnh nhân là 31,9%. Tỷ lệ 
NVYT mang khẩu trang giấy ngoại khoa khi thực hiện thủ 
thuật có nguy cơ văng/bắn máu, dịch cơ thể là 30,5%. Các 
kết quả này khá tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác 
giả Nguyễn Việt Hùng [4].
Các kết quả của nghiên cứu cho thấy nhân viên y tế tại 
Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình vẫn chưa có được đầy 
đủ các kiến thức cần thiết về PNC. Do đó bệnh viện cần 
phải có biện pháp tuyên truyền, tập huấn nhằm nâng cao 
hơn nữa hiểu biết của NVYT về các kiến thức liên quan 
đến PNC, từ đó có những thay đổi tích cực trong thực hành 
PNC và nâng cao hiệu quả phòng chống NKBV.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ NVYT đạt kiến thức chung về VST là 56,6%; 
về sử dụng phương tiện phòng hộ là 45,4%. Tỷ lệ NVYT 
có thực hành đúng về phòng ngừa chuẩn là 42,7%. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2009), Thông tư 18/2009/TT- BYT ngày 14 tháng 10 năm 2009 hướng dẫn tổ chức thực hiện công tác 
kiểm soát nhiễm khuẩn tại các cơ sở khám, chữa bệnh.
2. Bộ Y tế (2012), Tài liệu đào tạo liên tục cho cán bộ y tế tuyến cơ sở.
3. Nguyễn Việt Hùng (2010), Đánh giá thực trạng và xác định mối liên quan kiến thức, thái độ và thực hành về 
phòng ngừa chuẩn và phòng ngừa cách ly của nhân viên y tế một số bệnh viện miền Bắc, Tạp chí Y học thực hành, Số 
5/2010, tr. 36- 40.
4. Trần Hữu Nghĩa (2013), Kiến thức, thực hành của điều dưỡng viên Đại học tại chức khóa 9 - Đại học Y Hà Nội 
về phòng chống nhiễm khuẩn bệnh viện, Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân YTCC, trường Đại học Y Hà Nội.
5. Truong Anh Thu, Ngo Quy Chau and Nguyen Viet Hung (2012), Knowledge, Attitude and Practices Regarding 
Standard and Isolation Precautions Among Vietnamese Health Care Workers: A Multicenter Cross-Sectional Survey, 
pp.37-56
6. Sharma S., S. Puri và cộng sự (2011), Hand hygiene compliance in the intensive care units of a tertiary care 
hospital. Indian J Community Med, 36 (3), pp. 217-221.
7. WHO (2015), Guidelines on hand hygiene in health care (Advanced draft): A summary, pp.213-229
8. WHO (2011), Report on the Burden of Endemic Health Care-Associated Infection Worldwide.

File đính kèm:

  • pdfkien_thuc_thuc_hanh_cua_nhan_vien_y_te_trong_thuc_hien_mot_s.pdf