Kiến thức, thái độ và thực hành về phòng ngừa loét do tỳ đè của điều dưỡng khoa hồi sức cấp cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định kiến thức, thái độ và thực hành lâm sàng về phòng ngừa loét do tỳ đè của
điều dưỡng tại khoa Hồi Sức Cấp Cứu.
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Điều dưỡng đang làm việc tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện
Chợ Rẫy được mời tham gia nghiên cứu từ tháng 2/2010 đến tháng 6/2010, được phỏng vấn bằng bảng câu hỏi.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 10.0.
Kết quả: 81 điều dưỡng tham gia nghiên cứu. Tỷ lệ ĐD có kiến thức đúng và thái độ đúng về phòng ngừa
loét do tỳ đè là lần lượt là 85,2% và 80,2%. Tuy nhiên, tỷ lệ thực hành đúng còn thấp (43,2%). Có sự liên quan
giữa kiến thức và thái độ, giữa thái độ và thực hành nhưng không tìm thấy sự liên quan giữa kiến thức đúng và
thực hành đúng. Kết quả cũng cho thấy rằng những ĐD được học tập về phòng ngừa loét do tỳ tè trong khoảng
thời gian một năm thì có kiến thức đúng cao hơn
Kết luận: tỷ lệ ĐD có kiến thức đúng và thái độ đúng về phòng ngừa loét do tỳ đè cao nhưng lại không
tương ứng với tỷ lệ thực hành.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiến thức, thái độ và thực hành về phòng ngừa loét do tỳ đè của điều dưỡng khoa hồi sức cấp cứu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 1 KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH VỀ PHÒNG NGỪA LOÉT DO TỲ ĐÈ CỦA ĐIỀU DƯỠNG KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU Đồng Nguyễn Phương Uyển*, Lê Thị Anh Thư** Mục tiêu nghiên cứu: Xác định kiến thức, thái độ và thực hành lâm sàng về phòng ngừa loét do tỳ đè của điều dưỡng tại khoa Hồi Sức Cấp Cứu. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Điều dưỡng đang làm việc tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện Chợ Rẫy được mời tham gia nghiên cứu từ tháng 2/2010 đến tháng 6/2010, được phỏng vấn bằng bảng câu hỏi. Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 10.0. Kết quả: 81 điều dưỡng tham gia nghiên cứu. Tỷ lệ ĐD có kiến thức đúng và thái độ đúng về phòng ngừa loét do tỳ đè là lần lượt là 85,2% và 80,2%. Tuy nhiên, tỷ lệ thực hành đúng còn thấp (43,2%). Có sự liên quan giữa kiến thức và thái độ, giữa thái độ và thực hành nhưng không tìm thấy sự liên quan giữa kiến thức đúng và thực hành đúng. Kết quả cũng cho thấy rằng những ĐD được học tập về phòng ngừa loét do tỳ tè trong khoảng thời gian một năm thì có kiến thức đúng cao hơn Kết luận: tỷ lệ ĐD có kiến thức đúng và thái độ đúng về phòng ngừa loét do tỳ đè cao nhưng lại không tương ứng với tỷ lệ thực hành. Từ khóa: loét do tỳ đè, điều dưỡng khoa hồi sức cấp cứu, kiến thức, thái độ, thực hành. ABSTRACT KNOWLEDGE, ATTITUDES AND PRACTICE OF CRITICAL CARE NURSING STAFF CONCERNING PRESSURE ULCER PREVENTION AND TREATMENT Dong Nguyen Phuong Uyen, Le Thi Anh Thu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 1 - 7 Objectives: The aim of this study was to investigate knowledge, attitudes and practice regarding pressure ulcer prevention and treatment of critical care nursing. Design: A cross-sectional survey method was used. Material and Methods: Staff nurses working in medicalsurgical intensive care unit at Cho Ray hospital in HCM city, Viet Nam was invited to participate from February to June 2010. Data were collected using a questionnaire. Data analysis was carried out using SPSS version 10.0. Results: 81 staff nurses participated in the survey. The correct knowledge and attitudes of pressure ulcer was 85.2% and 80.2%, respectively, but correct practice was only 43.2%. There was a relationship between knowledge and attitudes, between attitudes and practice but not relationship between knowledge and practice of preventive pressure ulcers. In other hand, the nurses, attending a lecture about pressure ulcer prevention every year, could improve on their knowledge. Conclusions: Nursing staffs in intensive care unit had good knowledge and attitudes to pressure ulcer prevention but not improve on practice. Key words: pressure ulcers prevention, critical care nursing staff, knowledge, attitudes, practice. *Khoa Hồi sức cấp cứu, BV Chợ Rẫy; **Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn, BC Chợ Rẫy. Tác giả liên lạc: CN Đồng Nguyễn Phương Uyển ĐT: 0919.646.654 Email: phuonguyen_1216@yahoo.com.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 2 ĐẶT VẤN ĐỀ. Loét do tỳ đè (LDTĐ) là một biến chứng thường gặp ở những bệnh nhân nằm bất động như: chấn thương cột sống, tai biến mạch máu não, gãy hai chi dưới, đái tháo đường, bỏng, bệnh nhân đa chấn thương. Ngày nay LDTĐ là vấn đề sức khỏe đang được quan tâm hàng đầu ở tất cả các bệnh viện trên thế giới đặc biệt là những khoa Hồi Sức Cấp Cứu. Mỗi năm có hơn 1,6 triệu bệnh nhân (BN) trên thế giới bị LDTĐ khi nằm viện(1) tỷ lệ LDTĐ ở các khoa phòng trung bình 10% - 15% và ở các khoa HSCC từ 30% - 60%(3). LDTĐ là một trong những nguyên nhân hàng đầu kéo dài thời gian nằm viện, làm tăng chi phí điều trị, thời gian chăm sóc và còn là nguyên nhân làm tăng tỷ lệ tử vong. Những BN bị LDTĐ trong vòng 6 tuần khi nằm viện thì nguy cơ tử vong tăng gấp 3 lần so với những BN không bị LDTĐ(1). Do đó, BN cần phải được phòng ngừa LDTĐ ngay khi nhập viện. Để phòng ngừa LDTĐ hiệu quả đòi hỏi người ĐD phải có kiến thức, sự hiểu biết sâu rộng, vững vàng về tổn thương và những biện pháp phòng ngừa LDTĐ, để từ đó có thái độ đúng và thực hành tốt việc chăm sóc phòng ngừa. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm đánh giá kiến thức, thái độ và thực hành lâm sàng về phòng ngừa loét do tỳ đè của điều dưỡng Khoa Hồi Sức Cấp Cứu bệnh viện Chợ Rẫy. Mục tiêu chuyên biệt bao gồm 1. Xác định tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đúng, thái độ đúng và thực hành đúng về phòng ngừa loét do tỳ đè. 2. Xác định mối liên hệ giữa kiến thức, thái độ và thực hành lâm sàng và các yếu tố ảnh hưởng đến thực hành chăm sóc phòng ngừa loét do tỳ đè. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU Nghiên cứu mô tả cắt ngang. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Tiêu chuẩn chọn vào nghiên cứu Tất cả những ĐD đang làm việc tại khoa HSCC, bệnh viện Chợ Rẫy Tiêu chuẩn loại trừ: ĐD đang nghỉ hậu sản, nghỉ ốm, đi công tác ở nơi khác trong thời gian nghiên cứu. ĐD từ chối tham gia nghiên cứu. Thời gian thu thập số liệu: từ tháng 2/2010 đến tháng 6/2010. Phương pháp thu nhập số liệu Người nghiên cứu giải thích rõ ý nghĩa và lợi ích của NC cho tất cả các ĐD tham gia, sau đó trực tiếp phỏng vấn và quan sát. Phần kiến thức, thái độ và các yếu tố rào cản được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp ĐD với bộ câu hỏi có sẵn, ĐD sẽ tự điền trong khoảng 15 - 20 phút. Phần thực hành người nghiên cứu trực tiếp quan sát ĐD chăm sóc BN dựa vào bảng kiểm chăm sóc phòng ngừa loét do tỳ đè do phòng Điều Dưỡng bệnh viện Chợ Rẫy biên soạn để đánh giá. ĐD làm theo ca kíp 8 giờ mỗi ngày và một điều dưỡng chăm sóc trung bình từ 4 – 5 BN mỗi ca nên người nghiên cứu sẽ lựa chọn ngẫu nhiên 1 bệnh nhân và quan sát điều dưỡng ngẫu nhiên đang chăm sóc cho BN đó. Công cụ thu thập số liệu Chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi tự điền do Barbara Pieper xây dựng, được Pieper và Mott xuất bản năm 1995(9), bao gồm 4 phần là: Phần 1: thông tin cơ bản của ĐD bao gồm thông tin về giới, tuổi, trình độ đào tạo, thâm niên công tác, thời gian gần nhất tham gia một buổi học, đọc bài báo liên quan đến loét do tỳ đè, gồm 6 câu hỏi nhiều lựa chọn. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 3 Phần 2: thông tin về kiến thức phòng ngừa loét tỳ đè, gồm 32 câu hỏi trả lời đúng, sai hay không biết với những nội dung cơ bản về nguyên nhân, yếu tố nguy cơ và phương pháp phòng ngừa. Phần 3: thông tin về thái độ phòng ngừa loét do tỳ đè, gồm 13 câu hỏi với 3 mức độ lựa chọn theo thang điểm của Likert đồng ý, không đồng ý, không ý kiến. Phần 4: thông tin về các yếu tố rào cản ảnh hưởng đến thực hành chăm sóc phòng ngừa LDTĐ, gồm 5 câu hỏi lựa chọn mức theo mức độ không quan trọng, không ý kiến và quan trọng. Phần thực hành: quan sát tiến trình chăm sóc phòng ngừa loét do tỳ đè dựa trên bảng kiểm chăm sóc phòng ngừa loét do tỳ đè do phòng Điều Dưỡng bệnh viện Chợ Rẫy biên soạn. Phân tích số liệu Số liệu được nhập bằng phần mềm Microsoft Excel 2010 và xử lý bằng phần mềm SPSS 10.0. Điều dưỡng được đánh giá là có kiến thức, thái độ, thực hành tốt khi đạt trên 70% số điểm của mỗi phần. Các biến số liên tục được mô tả bằng trung bình ± độ lệch chuẩn, các biến định tính được mô tả dưới dạng phần trăm. So sánh tỉ lệ phần trăm bằng phép kiểm χ2. So sánh trung bình bằng phép kiểm student (t). Phân tích đơn biến bằng phép kiểm χ2 , tính nguy cơ tương đối RR. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Nghiên cứu có tỉ lệ ĐD nữ chiếm 91,4%. ĐD trong độ tuổi 20 – 29 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất (56,8%). Trình độ trung cấp chiếm đa số với 73 ĐD (90,1%). ĐD có trình độ cao đẳng và cử nhân rất ít, chiếm tỷ lệ lần lượt là 3,7% và 6,2%. Tỷ lệ ĐD tham gia một buổi học về LDTĐ trong khoảng thời gian dưới 1 năm chiếm 58 %, tham gia học trong 2 – 3 năm gần đây là 27,2 % và trên 4 năm là 8,6%. 6,2% ĐD chưa từng tham gia một buổi học nào liên quan đến LDTĐ. Về việc đã từng đọc một bài báo liên quan đến loét do tỳ đè, 12,3% chưa từng đọc, 58% đã từng đọc cách đây dưới 1 năm, 22,2% đọc cách 2 – 3 năm. KIẾN THỨC VỀ PHÒNG NGỪA LOÉT DO TÌ ĐÈ Trong tổng số 81 người tham gia nghiên cứu, tỷ lệ ĐD có kiến thức đúng là 85,2% với điểm trung bình kiến thức là 23,9/32 điểm, (SD = 2,74). ĐD có số điểm cao nhất là 31/32 điểm và thấp nhất là 15/32 điểm. Trong số 32 câu hỏi với những nội dung về nguyên nhân, yếu tố nguy cơ, vị trí, các biện pháp phòng ngừa LDTĐ, có 21 câu hỏi có tỷ lệ trả lời đúng trên 50%, 6 câu có tỷ lệ trả lời đúng trên 90% và có 2 câu hỏi trả lời đúng 100%. Đó là những câu hỏi KT cơ bản về yếu tố nguy cơ LDTĐ, đánh giá tình trạng da, chế độ dinh dưỡng, lịch trình xoay trở BN, dụng cụ phòng ngừa, tư thế nghiêng, vệ sinh da, tránh tiếp xúc trực tiếp giữa các vùng da sát xương, nâng cao gót chân để giảm lực đè cấn, ghi chú ĐD, nguyên nhân chính gây LDTĐ, bảng công cụ đánh giá nguy cơ loét theo Braden và biến chứng, hậu quả của loét do tỳ đè. THÁI ĐỘ VỀ PHÒNG NGỪA LOÉT DO TÌ ĐÈ Tỷ lệ ĐD có thái độ đúng (thái độ tích cực) về phòng ngừa LDTĐ là 81,2% với điểm trung bình là 19,14/26 điểm. ĐD có điểm thái độ cao nhất là 26/26 điểm và thấp nhất là 6/26 điểm. 64,2% ĐD cho rằng tất cả các BN đều có nguy cơ bị loét do tỳ đè và đa số ĐD (91,4%) đồng ý việc phòng ngừa nên được ưu tiên hơn là điều trị loét do tỳ đè. Hầu hết ĐD (97,5%) đồng ý rằng đánh giá tình trạng da BN thường xuyên có thể phát hiện sớm yếu tố nguy cơ hình thành loét do tỳ đè. 92,6% ĐD nhận thức được việc đánh gain, ghi nhận tình trạng da BN là một trong những công việc hằng ngày của họ và đánh giá nguy cơ loét do tỳ đè của BN dựa trên lâm sàng thì dễ dàng thực hiện hơn (77,8%). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 4 NHỮNG RÀO CẢN TRONG PHÒNG NGỪA LOÉT DO TÌ ĐÈ 88,9% ĐD cho rằng tình trạng BN quá nặng hay BN không hợp tác là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc chăm sóc LDTĐ. Không đủ điều dưỡng (80,2%) và thiếu hụt kiến thức về phòng ngừa (80,2%) cũng là những yếu tố góp phần ảnh hưởng không nhỏ trong việc chăm sóc LDTĐ hằng ngày cho BN. 64,2% ĐD cho rằng không đủ thời gian chăm sóc BN cũng ảnh hưởng nhiều đến việc chăm sóc phòng ngừa loét và 25,9% trong số họ cho rằng yếu tố này không quan trọng. THỰC HÀNH CHĂM SÓC PHÒNG NGỪA LOÉT DO TỲ ĐÈ Quy trình chăm sóc phòng ngừa LDTĐ bao gồm 13 bước với tổng điểm là 13 điểm. Tỷ lệ ĐD có thực hành đúng về phòng ngừa LDTĐ là 43,2%. Điểm TB thực hành là 8,2/13 điểm, ĐLC 0,61, cao nhất là 11/13 và thấp nhất là 3/13 điểm. Trong đó có 2 bước luôn luôn được thực hiện với tỷ lệ 100% ở tất cả các ca trực là bước 6 và bước 7 và ngược lại 100% ĐD không thực hiện bước 10. Kết quả quan sát cũng cho thấy rằng thực hành đúng tăng vào các ca sáng với tỷ lệ 51,9% và giảm dần ở các ca chiều và ca đêm lần lượt là 42% và 35,8%. Sự khác biệt về tỷ lệ thực hành đúng giữa các ca trực có ý nghĩa thống kê p< 0,05. MỐI LIÊN QUAN GIỮA KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của đặc điểm nhân khẩu học như giới tính, tuổi, trình độ chuyên môn, thâm niên công tác giữa hai nhóm điều dưỡng có KT-TD-TH đúng so với nhóm còn lại Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kiến thức giữa nhóm điều dưỡng có tham gia một buổi học về loét do tỳ đè trong thời gian 1 năm với các nhóm khác. ĐD đã từng tham gia một buổi học về loét do tỳ đè dưới một năm, 2-3 năm, >4 năm có tỷ lệ kiến thức đúng lần lượt là 59,4%, 27,5% và 5,8%, với p =0,029. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thái độ đúng giữa hai nhóm bệnh nhân có kiến thức tốt và không tốt. Tuy nhiên, không có sự khác biệt về thực hành đúng ở hai nhóm bệnh nhân này. BÀN LUẬN KIẾN THỨC CỦA ĐIỀU DƯỠNG VỀ PHÒNG NGỪA LOÉT DO TỲ ĐÈ. ĐD có số điểm cao nhất là 31/32 và thấp nhất là 15/32, điểm TB 24/32 điểm, ĐLC 2,744 điểm. Với yêu cầu phải đạt là 22/32 điểm thì tỷ lệ ĐD có kiến thức đúng về PNLDTĐ khá cao 85,2%. Những câu hỏi có tỷ lệ trả lời thấp nhất đó là những nội dung về thời gian nhận định, đánh giá các yếu tố nguy cơ (16%) và thời gian hình thành loét do tỳ đè (17,3%). So sánh với một số nghiên cứu trước, nghiên cứu này cũng có kết quả tương đương. Theo nghiên cứu của Pieper và Mott(8) khảo sát KT của ĐD về PNLDTĐ năm 1995 với cùng bộ câu hỏi và kết quả là ĐD có KT đúng về PNLDTĐ là 90%. Năm 2008 theo NC của Fernandes(5) khảo sát kiến thức về PNLDTĐ của các giáo viên ĐD cũng cùng bộ câu hỏi cho kết qủa tỷ lệ giáo viên ĐD có kiến thức về phòng ngừa loét khá cao. Năm 2008, Carol Tweed và cộng sự khảo sát kiến thức của ĐD ở 3 bệnh viện tại New Zealand(10), 89% ĐD có kiến thức đúng về PNLDTĐ sau thực hiện chương trình giáo dục 20 tuần. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức về PNLDTĐ của ĐD với những đặc điểm về nhân khẩu học. Tuy nhiên, thời gian gần nhất tham gia một buổi học về LDTĐ liên quan có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với kiến thức về phòng ngừa LDTĐ. Nhóm ĐD đã từng tham gia một buổi học về LDTĐ thì có kiến thức đúng cao hơn những nhóm ĐD còn lại. Đặc biệt những ĐD có thời gian gần nhất tham gia một Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 5 buổi học về LDTĐ trong khoảng thời gian 1 năm. Kết quả này cho thấy được tầm quan trọng của chương trình giáo dục, khi ĐD được cung cấp những thông tin liên tục và phù hợp thì kiến thức của họ tăng lên rất nhiều(2),(4),(5). Theo khảo sát của Moody và cộng sự năm 1988 đã chứng minh chương trình giáo dục có thể làm giảm tỷ lệ BN bị LDTĐ ở các khoa HSCC(7) tương tự với kết quả tìm được theo nghiên cứu của Luciana và cộng sự khi khảo sát sự ảnh hưởng của chương trình giáo dục đến kiến thức về PNLDTĐ của ĐD khi khảo sát 223 ĐD. Những ĐD đã từng đọc, nhận thông tin về LDTĐ thông qua các bài báo hay những bài thuyết trình có điểm kiến thức rất cao. THÁI ĐỘ VỀ PHÒNG NGỪA LOÉT DO TỲ ĐÈ Các ĐD có thái độ tích cực về PNLDTĐ, 97,5% cho rằng việc đánh giá tình trạng da BN ngay khi nhập viện và các khoảng thời gian đều đặn sau đó sẽ giúp phát hiện sớm các yếu nguy cơ. Đa số đồng ý việc phòng ngừa thì cần phải được quan tâm và ưu tiên hơn điều trị và giống như nhiều nghiên cứu khác cũng cho rằng hầu hết LDTĐ đều có thể phòng ngừa được (87,7). Kết quả này gần giống với kết quả (94%) nghiên cứu của Ulrika và Bjorn- Ove Suserud thực hiện năm 2008 tại Thụy Điển(11). Tuy nhiên, 72,2% ĐD còn cho rằng việc PNLDTĐ thì mất nhiều thời gian. Liên quan không có ý nghĩa thống kê giữa thái độ với các đặc điểm về nhân khẩu học. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của năm 2008 của Ulrika Ka¨llman và Bjo¨rn-Ove Suserud khảo sát 154 ĐD ở Thụy Điển và nghiên cứu của Kathleen MacMillan và cộng sự năm 2008 khi khảo sát 223 ĐD ở Canada(6),(11). Tuy nhiên kết quả phân tích cho thấy những ĐD có tham gia một buổi học hay đã từng đọc một bài báo về LDTĐ trong khoảng thời gian 1 năm thì có thái độ đúng cao hơn. Điều này cũng có thể giải thích rằng khi ĐD được cập nhật những thông tin mới và được giáo dục liên tục thì họ cũng sẽ có thái độ tích cực hơn. THỰC HÀNH VỀ PHÒNG NGỪA LOÉT DO TỲ ĐÈ CỦA ĐIỀU DƯỠNG ĐD có thực hành đúng là 43,2% và chưa đúng là 56,8%. Một phần là do đặc điểm của khoa vì BN nhập khoa trong tình trạng rất nặng, đa số là BN trong giai đoạn choáng phải thở máy, bị đa chấn thương và việc ưu tiên hàng đầu là phải đảm bảo hô hấp, ổn định sinh hiệu nên phòng ngừa loét do tỳ đè chỉ thực hiện được sau khi BN đã ổn định và qua giai đoạn nguy hiểm. BN gãy xương phải kéo tạ liên tục do đó việc thực hiện xoay trở PNLDTĐ rất khó khăn, đặc biệt những BN sau mổ ngoại khoa thường đau nên không hợp tác với ĐD và để theo dõi các biến chứng sớm sau mổ nên người ĐD cũng rất hạn chế thực hiện xoay trở chống loét do tỷ đè cũng như thực hiện chế độ dinh dưỡng thích hợp. Một ĐD chăm sóc trung bình 4 bệnh nhân/ ca trực và khoa không có thân nhân nên ĐD là người trực tiếp chăm sóc toàn diện cho BN, với một số lượng công việc khá lớn và luôn phải làm việc trong môi trường áp lực cao điều này cũng ảnh hưởng đến công tác chăm sóc. Thêm vào đó, các dụng cụ chăm sóc một phần nào đó chưa được cung cấp kịp thời và bổ sung mới. Thâm niên công tác của ĐD 1- 5 năm thì có điểm số về thực hành cao hơn ĐD mới về khoa dưới 1 năm do thời gian công tác tại khoa lâu hơn lên phần nào thấy được tầm quan trọng và ý nghĩa của phòng ngừa. Những ĐD đã từng tham gia một buổi học về loét do tỳ đè với những thời gian khác nhau cũng có điểm trung bình thực hành (7,36 điểm) cao hơn những ĐD chưa từng học (6,80 điểm). Kết quả khảo sát cũng cho thấy rằng tỷ lệ ĐD thực hành đúng tăng cao vào ca sáng và giảm dần ở các ca chiều, ca đêm. Do ca sáng thường có sự tăng cường giám sát của ban lãnh đạo khoa và nguồn nhân lực thường đầy đủ. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 6 YẾU TỐ RÀO CẢN TRONG THỰC HÀNH PHÒNG NGỪA LOÉT DO TỲ ĐÈ CỦA ĐIỀU DƯỠNG Kết quả phân tích cho thấy rằng có 3 yếu tố mà hơn 80% ĐD cho rằng những yếu tố này rất quan trọng ảnh hưởng đến thực hành phòng ngừa LDTĐ, những yếu tố như tình trạng BN quá nặng/ BN không hợp tác (88,9%), kiến thức về chăm sóc PNLDTĐ không đủ (80,2%) và thiếu ĐD (80,2). Kết quả này cũng tương đương với kết quả nghiên cứu năm 2008 của Ulrika và Bjorn-Ove khi khảo sát 154 ĐD làm việc tại các bệnh viện tại Thụy Điển(11). Mặc dù ĐD có kiến thức đúng và thái độ tích cực về PNLDTĐ nhưng với tình trạng BN quá nặng thì việc thực hành PNLDTĐ lúc này không còn là yếu tố quan trọng. Tỷ lệ 1 ĐD chăm sóc trung bình 4/BN, với khối lượng công việc quá nhiều, ĐD không có đủ thời gian để thực hành các biện pháp phòng ngừa và cũng qua kết quả phân tích chúng ta thấy rằng dụng cụ chăm sóc không đủ cũng là một trong những yếu tố quan trọng (64,2%) ảnh hưởng đến thực hành phòng ngừa LDTĐ. Điều này có thể giúp cho ban lãnh đạo khoa biết được một số yếu tố rào cản ảnh hưởng đến chăm sóc phòng ngừa LDTĐ để có những chính sách cũng như những biện pháp phù hợp giúp đỡ cho ĐD làm tốt vai trò của mình và giúp giảm tỷ lệ loét do tỳ đè cho BN tại khoa, góp phần giảm chi phí điều trị, giảm thời gian chăm sóc và nâng cao chất lượng điều trị. MỐI LIÊN QUAN GIỮA KIẾN THỨC- THÁI ĐỘ-THỰC HÀNH Liên quan giữa kiến thức-thái độ, thái độ- thực hành của ĐD về phòng ngừa LDTĐ có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu của tác giả Yong Kim năm 2007 khi khảo sát mức độ kiến thức, thái độ và thực hành về hành vi phòng ngừa loét bàn chân của bệnh nhân tiểu đường tại Thái Lan(12). Liên quan không có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức và thực hành cho thấy có một khoảng cách giữa kiến thức và thực hành. Tỷ lệ ĐD có kiến thức và thái độ về PNLDTĐ tuy cao nhưng ngược lại tỷ lệ thực hành của họ khá thấp và mức độ kiến thức không tương ứng với mức độ thực hành. Do trên thực tế người ĐD gặp phải nhiều yếu tố gây cản trở đến việc thực hành và dựa vào những kết quả đạt được từ nghiên cứu này thì cần phải có một cái gì đó ở giữa để liên kết KT – TĐ – TH lại với nhau. Nếu người ĐD nhận thức được tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng của LDTĐ thì có thể tác động lên thực hành phòng ngừa LDTĐ. KẾT LUẬN Nghiên cứu này đã tìm ra được các kết quả như sau: 85,2% ĐD có kiến thức đúng về phòng ngừa LDTĐ. 80,2% ĐD có thái độ đúng về phòng ngừa LDTĐ. 43,2% ĐD có thực hành đúng về phòng ngừa LDTĐ. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mối liên quan giữa KT-TĐ-TH với tuổi, giới tính, thâm niên công tác và bằng cấp chuyên môn. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mối liên quan giữa kiến thức với thời gian gần nhất tham gia một buổi học về LDTĐ. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức và thái độ, giữa thái độ và thực hành. KIẾN NGHỊ Qua nghiên cứu này, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau: Đối với điều dưỡng Nên thường xuyên tham gia các chương trình đào tạo, hướng dẫn lâm sàng, hội thảo về phòng ngừa LDTĐ. Nên tuân thủ và thực hiện nghiêm ngặt việc phòng ngừa để giảm tỷ lệ LDTĐ, nâng cao chất lượng chăm sóc bệnh nhân, nâng cao ý thức, vai trò và trách nhiệm của mình Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 7 Đối với người quản lý và bệnh viện Thường xuyên tổ chức các chương trình giáo dục và đào tạo liên tục về phòng ngừa LDTĐ cho tất cả đối tượng trực tiếp chăm sóc BN, đặc biệt là ĐD của khoa HSCC. Chương trình nên cập nhật thường xuyên và phù hợp với mọi trình độ. Triển khai nhanh những biện pháp can thiệp thích hợp Cung cấp đầy đủ và trang bị thêm các thiết bị hỗ trợ cho ĐD trong việc phòng ngừa LDTĐ. Đảm bảo nguồn nhân lực và tăng cường giám sát phòng ngừa LDTĐ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Allman R et al (1999). “Pressure ulcer, hospital complications and disease severity: impact on hospital cost and length of stay”. Advances in Wound Care, 12(1), pp.22-30 2. Bostom J, Kenneth H (1992). “Staff nurse knowledge and perception about prevention pressure sore”. Dermatology Nursing, 4, pp. 365-386 3. Chronakos J & Nierman D (2003). “Managing pressure ulcer in critically ill patients”. Journal of Respiratory Disease, 24(8), pp. 363- 371. 4. Debra Jill Schassberger (2001). “A Description of Nurse Educators’ knowledge of Pressure Ulcers”. Mater’s thesis. Bell Howeell Information and Learning Company, United State. 5. Fernandes L.M, Caliri M.HL & Haas V.J. (2008). “The effect of educative interventions on the pressure ulcer prevention knowledge of nursing professionals”. Acta Paul Enferm, 21(2), pp.305-11. 6. Kathleen MacMillan et al (2008). “Nurses’ Knowledge and Attitudes Associated With Near Misses: Evaluation of impact of a Knowledge transfer intervention for pressure ulcer prevention and care”. BJM Group and the Institute for healthcare Improvement, Paris 7. Moody B et al (1998). “Impact of staff education on pressure sore development elderly hospitalized patients”. Archives of Internal medicine, 148(10), pp 2241-2243. 8. Pieper B, Mattern (1997). “Critical care nurses’ knowledge of pressure ulcer prevention, staging and description”. Ostomy/Wound Management, 43(2), pp.22-31. 9. Pieper B, Mott M (1995). “Nurses’ knowledge of pressure ulcer prevention, staging and description”. Advances in Wound Care: The Journal for Prevention and Healing, 8(3), pp.34-48. 10. Tweed Carol & Tweed Mike (2008). “Intensive care nurse’s knowledge of pressure ulcers: development of an assessment tool and effect of an education program”. AJCC, 17, pp.338- 346. 11. Ulrika Kallman & Born-Ove Suserud (2009). “Knowledge, Attitudes and clinical practice among staff nurses concerning pressure ulcer prevention and treatment – a survey in a Swedish healthcare setting”. Scand J caring Science, 23, pp.334-341. 12. Yong Kim Son (2007). “Preventive behaviors regarding foot ulcers in Diabetes type II patients at BMA Health Care Center No.48, Bangkok, Thailand”. A Thesis for the Degree of Master of Public Health Program in Health Systems Development, Chulalongkorn University.
File đính kèm:
- kien_thuc_thai_do_va_thuc_hanh_ve_phong_ngua_loet_do_ty_de_c.pdf