Kiểm chứng lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu

Tóm tắt nội dung

Bài viết này thực hiện việc kiểm chứng thực nghiệm bốn tiêu chí của lý thuyết Khu

vực tiền tệ tối ưu (Optimum Currency Area – OCA): tính cứng nhắc danh nghĩa,

tính cứng nhắc thực, mức độ mở cửa, và tính bất cân xứng của các cú sốc bên ngoài.

Bài viết này sử dụng phương pháp mô phỏng để kiểm chứng, với lập luận rằng các

nghiên cứu khác sử dụng phương pháp kiểm chứng kinh tế lượng có thể bị sai lệch

vì hai nguyên nhân thiết kế sai mô hình kinh tế lượng và bỏ qua đặc điểm nội sinh

của vấn đề nghiên cứu. Bài viết cũng trình bày một ứng dụng của phương pháp mô

phỏng này để phân tích các cơ chế tỷ giá hối đoái khác nhau cho Việt Nam.

pdf 29 trang phuongnguyen 360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Kiểm chứng lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiểm chứng lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu

Kiểm chứng lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu
Kiểm chứng lý thuyết khu vực tiền tệ tối ưu
Trường hợp lựa chọn chế độ tỷ giá cho Việt nam ∗
Lê Hồng Giang†
Ngày 7 tháng 9 năm 2006
Tóm tắt nội dung
Bài viết này thực hiện việc kiểm chứng thực nghiệm bốn tiêu chí của lý thuyết Khu
vực tiền tệ tối ưu (Optimum Currency Area – OCA): tính cứng nhắc danh nghĩa,
tính cứng nhắc thực, mức độ mở cửa, và tính bất cân xứng của các cú sốc bên ngoài.
Bài viết này sử dụng phương pháp mô phỏng để kiểm chứng, với lập luận rằng các
nghiên cứu khác sử dụng phương pháp kiểm chứng kinh tế lượng có thể bị sai lệch
vì hai nguyên nhân thiết kế sai mô hình kinh tế lượng và bỏ qua đặc điểm nội sinh
của vấn đề nghiên cứu. Bài viết cũng trình bày một ứng dụng của phương pháp mô
phỏng này để phân tích các cơ chế tỷ giá hối đoái khác nhau cho Việt Nam.
Thuật ngữ then chốt: OCA, Chế độ tỷ giá, CGE
∗Bài viết này được chuẩn bị cho buổi thuyết trình tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright,
TPHCM, Việt nam. Một phiên bản trước đó của bài viết này đã được trình bày tại Đại học Quốc gia
Australia, tháng 9 năm 2005.
†Giảng viên, FETP. Email: gianglh@fetp.vnn.vn, Tel: 84-8-9325103
1 Giới thiệu
Từ sau bài nghiên cứu đột phá của Mundell (1961), lý thuyết Khu vực Tiền tệ Tối ưu
(Optimum Currency Area – OCA) đã trở thành một lý thuyết chính để: (i) đánh giá khả
năng tồn tại của một khu vực tiền tệ chung cho một nhóm nước và (ii) chọn một cơ chế
tỷ giá hối đoái tối ưu cho một quốc gia cụ thể. Lý thuyết này thiết lập một số tiêu chí cho
một khu vực với nhiều quốc gia khác nhau có thể trở thành một OCA. Trong OCA đó các
quốc gia tốt nhất là dùng chung một đồng tiền do một cơ quan tiền tệ duy nhất quản lý,
và đồng tiền đó cần được thả nổi đối với đồng tiền của các OCA khác. Sau Mundell (1961),
nhiều tác giả khác đã đóng góp thêm nhiều phát triển cho lý thuyết OCA. Trên phương
diện lý thuyết, McKinnon (1963), Kenen (1969), Vaubel (1976), Sala-i Martin & Sachs
(1991), Masson & Taylor (1993), Bayoumi (1994), Ricci (1997), Alesina & Barro (2000)
đã đề xuất thêm một số tiêu chí cho OCA và xây dựng một số mô hình toán để minh họa
lý thuyết. Trên phương diện thực nghiệm, Bayoumi & Eichengreen (1996), Bayoumi &
Mauro (1999), Velasco (2000), de Brouwer (2001), Wyplosz (2001) cùng nhiều người khác
đã vận dụng lý thuyết OCA cho châu Âu và Đông Á để đánh giá khả năng tồn tại của
một đồng tiền chung trong các khu vực này hay các hình thức tỷ giá hối đoái khác cho
từng nước hay nhóm nước trong khu vực.
Trong số các nghiên cứu thực nghiệm về lý thuyết OCA, một số tác giả đã kiểm chứng các
tiêu chí OCA bằng phương pháp kinh tế lượng (Heller 1978, Holden, Holden & Suss 1979,
Savvides 1990, Rizzo 1998, Berger, Sturm & de Haan 2000, von Hagen & Zhou 2002). Tất
cả các nghiên cứu này đều sử dụng số liệu của nhiều quốc gia khác nhau để chạy hồi qui
các cơ chế tỷ giá hối đoái hiện tại theo các biến số kinh tế khác. Mặc dù các nghiên cứu
này rất chặt chẽ về mặt số liệu và kỹ thuật tính toán, chúng đều mắc phải hai vấn đề về
phương pháp luận. Thứ nhất, khi đặt biến cơ chế tỷ giá hối đoái vào vế trái của các mô
hình kinh tế lượng, các tác giả này giả định rằng việc chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái là
một biến nội sinh được xác định theo các yếu tố kinh tế khác. Trên thực tế có một quan
điểm (Goodhard 1995) cho rằng cơ chế tỷ giá hối đoái hoàn toàn được xác định bên ngoài
phạm vi tính toán về mặt kinh tế, mà chỉ bởi các yếu tố khác như chính trị trong trường
hợp của Liên minh Tiền tệ châu Âu (EMU). Ngay cả nếu không quá cực đoan như vậy,
hầu hết các nhà kinh tế học cũng sẽ đồng ý rằng việc chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái là
một quyết định chính sách có tính ngoại sinh. Cho dù các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng
đến quyết định chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái, người ta cần phải xây dựng một lý thuyết
về hành vi của những người đưa ra quyết định để nội sinh hóa việc chọn lựa cơ chế tỷ giá
(để có thể để nó sang vế trái của mô hình).
Thứ hai, vì OCA là một lý thuyết chuẩn tắc, những yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến việc
chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái về mặt lý thuyết phải là các yếu tố có trước khi cơ chế
tỷ giá hối đoái được xác lập. Trong khi đó, toàn bộ số liệu sử dụng trong các nghiên cứu
thực nghiệm hiện thời đều là số liệu sau khi cơ chế tỷ giá đã được thực hiện. Tạm gác qua
một bên khả năng các nhà hoạch định chính sách có thể chọn lựa một cơ chế sai lầm, mà
điều này xem ra rất có thể đúng bởi khủng hoảng tỷ giá hối đoái khá phổ biến trên thế
giới, rõ ràng một cơ chế tỷ giá nếu được chọn sẽ ảnh hưởng đến môi trường kinh tế và các
biến số kinh tế quan sát được. Đây là vấn đề nội sinh mà Frankel & Rose (1998) đã chỉ
1
ra và nó sẽ làm giảm đáng kể sức mạnh của các phép kiểm chứng kinh tế lượng. Người ta
có thể cố gắng cứu vãn vấn đề này bằng cách sử dụng số liệu ngay trước khi chuyển đổi
cơ chế tại mỗi nước. Tuy nhiên, phương pháp này sẽ có một khó khăn khác; đó là khoảng
thời gian giữa các lần chuyển đổi cơ chế khác nhau tại các nước khác nhau có thể quá
xa đến mức việc so sánh số liệu của các nước khác nhau ở các thời điểm khác nhau trở
nên vô nghĩa. Thêm vào đó, một số nghiên cứu đặt ra vấn đề về “nỗi e sợ thả nổi” (Calvo
& Reinhart 2000), cho rằng ở nhiều nước mặc dù cơ chế tỷ giá được tuyên bố là thả nổi
nhưng thực tế vẫn là cố định. Những mô hình kinh tế lượng sử dụng các định nghĩa về
cơ chế tỷ giá chính thức so với thực tế có thể dẫn đến khác biệt lớn cho các kết quả kiểm
chứng. Đáng tiếc là chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu về định nghĩa nào nên
được sử dụng.
Để tránh những vấn đề này trong việc kiểm chứng lý thuyết OCA, bài viết này đề suất
một phương pháp luận khác và sử dụng số liệu thực tế từ Việt Nam để thực hiện phép
kiểm chứng. Ngoài mối quan tâm riêng của tác giả đối với nền kinh tế Việt Nam, đất nước
này còn có một số đặc điểm kinh tế giúp cho việc kiểm chứng lý thuyết OCA trở nên dễ
dàng hơn. Thứ nhất, Việt Nam có tính cứng nhắc danh nghĩa và tính cứng nhắc thực cao
vì đất nước đang trên đường chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường. Thứ
hai, đó là một nền kinh tế rất nhỏ và mở cửa trong một khu vực năng động nhất của thế
giới. Vì thế, cơ chế tỷ giá hối đoái sẽ rất quan trọng đối với thành quả kinh tế của Việt
Nam. Cho dù bài viết này hướng tới Việt Nam một cách cụ thể, nhưng phương pháp luận
sử dụng ở đây có thể được ứng dụng cho một quốc gia bất kỳ với những cơ chế tỷ giá hối
đoái khác.
Bài viết này có cơ cấu như sau. Phần kế tiếp sẽ phác thảo một phương pháp khác ngoài
kỹ thuật kiểm chứng kinh tế lượng truyền thống để kiểm chứng lý thuyết OCA. Phần tiếp
theo sẽ mô tả ngắn gọn cơ cấu của mô hình lý thuyết và thuật toán giải. Cuối cùng là
phần trình bày kết quả của phép kiểm chứng và kết luận.
2 Phương pháp luận
Có hai phương pháp thực nghiệm chính trong kinh tế học. Phương pháp truyền thống sử
dụng các kỹ thuật kinh tế lượng để ước lượng từ số liệu thực tế các thông số của một
phương trình hay một hệ phương trình đại diện cho một lý thuyết kinh tế nào đó. Sau đó,
các thông số đã được ước lượng sẽ được sử dụng để kiểm chứng một giả thiết (lý thuyết)
hoặc để dự báo/mô phỏng tương lai hay các tình huống giả định. Phương pháp này rất
chặt chẽ xét trên cơ sở thống kê. Nó cũng tương thích với quan điểm khoa học thực chứng
rất phổ biến: triển khai một lý thuyết trừu tượng rồi xác nhận lý thuyết đó bằng số liệu
thực tế. Tuy nhiên, trong kinh tế học, phương pháp luận này có hai nhược điểm. Thứ
nhất, số liệu kinh tế không có nhiều, đặc biệt là số liệu phù hợp trực tiếp với một lý thuyết
trừu tượng nhất định. Kết quả là, các mô hình kinh tế lượng thường rất hạn chế về số biến
số, phương trình, và bình diện thời gian (số thời đoạn, độ trễ, độ dẫn). Vì thế, thật khó
mà biến đổi toàn bộ một lý thuyết kinh tế trừu tượng thành một mô hình kinh tế lượng
để kiểm chứng hay mô phỏng mà thường phải giảm bớt số biến và số phương trình. Nhược
2
điểm thứ hai mà nhiều người biết đến dưới tên gọi “Phê phán Lucas” (Lucas, 1973), đó là
khi phương pháp này được sử dụng để dự báo hay mô phỏng. Sự phê phán này rất đơn
giản nhưng đầy sức thuyết phục: các mô hình kinh tế lượng sau khi đã được ước lượng chỉ
phản ánh quá khứ đã xảy ra, vì thế không thể sử dụng để dự báo cho tương lai hay các
tình huống giả định khác chưa thực sự xảy ra.
Hướng thứ hai trong kinh tế thực nghiệm là phương pháp căn chỉnh mô hình (calibration
methodology). Phương pháp này chỉ sử dụng một số dữ liệu giới hạn để “căn chỉnh” một
lý thuyết trừu tượng, nghĩa là gán những giá trị có ý nghĩa nhất hay được nhất trí nhất
(về mặt lý thuyết hay thực nghiệm) cho các thông số của mô hình lý thuyết để mô hình
phản ánh sát thực tế nhất. Sau đó, mô hình định lượng này có thể được sử dụng để dự
báo hay mô phỏng bằng cách thay đổi các thông số hay các biến ngoại sinh của mô hình
để minh hoạ các tình huống mong muốn. Phương pháp này khắc phục hai nhược điểm
của phương pháp đầu tiên, nhưng nó lại có những bất lợi khác. Nhược điểm quan trọng
nhất của nó là nó thiếu nền tảng thống kê và do đó người ta không thể đánh giá sự chắc
chắn của mô hình và độ tin cậy của các kết quả. Đã có những nỗ lực đánh giá “độ nhạy”
của các thông số mô hình và “khoảng tin cậy” của các kết quả của một mô hình căn chỉnh
trên cơ sở thống kê (Arndt & Perason 1998, Wilcoxen 2004). Tuy nhiên phương pháp này
vẫn đang bị chỉ trích rộng rãi vì thiếu sự chặt chẽ về mặt thống kê và quá chủ quan.
Bất chấp những phê phán nói trên, phương pháp căn chỉnh đã được sử dụng trong nhiều
lĩnh vực kinh tế học. Một trong những ứng dụng phổ biến nhất của phương pháp này là
mô hình cân bằng tổng thể khả tính (computable general equilibrium, CGE); kỹ thuật
này đã được sử dụng rộng rãi và thành công trong những vấn đề kinh tế vĩ mô như
ngoại thương, thuế khoá, việc làm, và phân phối thu nhập. Cũng có một vài tác giả sử
dụng phương pháp này trong lĩnh vực lý thuyết OCA và chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái
(Siriwardana 1997, McKibbin & Bok 1998, Bacchetta & van Wincoop 2001, McKibbin &
Le 2004)1. Sử dụng kỹ thuật CGE để tìm hiểu lý thuyết OCA là một cách rất tốt để tránh
hai khó khăn nói ở trên của phương pháp kiểm chứng kinh tế lượng. Các cơ chế tỷ giá
hối đoái khác nhau có thể được thực hiện như những tình huống giả định khác nhau cho
một nền kinh tế mà không cần dựa vào các số liệu hậu suy. Chúng cũng có thể được định
nghĩa một cách rõ ràng để tránh sự pha tạp giữa các định nghĩa chính thức với định nghĩa
thực tế. Bằng cách này, chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái được xử lý như một biến số chính
sách ngoại sinh và các thông số khác của mô hình có thể được kiểm soát để duy trì điều
kiện các yếu tố khác không thay đổi khi so sánh giữa các cơ chế tỷ giá.
Để khai thác các ưu điểm của phương pháp căn chỉnh, bài viết này sẽ sử dụng phương
pháp này nhằm thực hiện việc kiểm chứng lý thuyết OCA. Cụ thể, một mô hình CGE
động của Việt Nam sẽ được phát triển và căn chỉnh cho mục đích này. Mô hình là một
phần trong phiên bản 62g của phần mềm G-Cubed của McKibbin & Wilcoxen (1999). Mô
hình đa khu vực này đặc biệt phù hợp để khảo sát cơ chế tỷ giá hối đoái vì nó cho phép
ta xem xét một đất nước trong bối cảnh khu vực và quốc tế, trong đó chính sách tỷ giá
hối đoái có một vai trò quan trọng. Sau khi xây dựng mô hình, một số mô phỏng sẽ được
thực hiện cho các tình huống khác nhau tiêu biểu cho các tiêu chí khác nhau của lý thuyết
1Một số tác giả khác cũng sử dụng phương pháp căn chỉnh cho các mô hình nhỏ hơn để kiểm định lý
thuyết OCA và chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái (Monacelli 2004).
3
OCA. Kết quả mô phỏng sẽ được đánh giá so với những gì được dự đoán qua lý thuyết
OCA. Một tiêu chí của lý thuyết OCA sẽ được xem là “được xác nhận qua kiểm chứng”
nếu kết quả mô phỏng hỗ trợ cho dự đoán của lý thuyết. Bảng 1 trình bày tóm tắt các
tiêu chí OCA sẽ được kiểm chứng.
Bảng 1: Các tiêu chí OCA
Các tiêu chí Mức độ Cơ chế được ưa chuộng
Cứng nhắc danh nghĩa Cao Linh hoạt
Thấp Cố định
Cứng nhắc thực (Lao động và vốn) Cao Linh hoạt
Thấp Cố định
Độ mở của nền kinh tế Thấp Cố định
Cao Linh hoạt
Bất cân xứng của các cú sốc Cao Linh hoạt
Thấp Cố định
Đây là những tiêu chí được kiểm chứng và được tham khảo nhiều nhất trong các nghiên
cứu thực nghiệm về lý thuyết OCA2. Phép kiểm chứng sẽ xác định phản ứng của nền
kinh tế Việt Nam trước một vài cú sốc dưới hai cơ chế tỷ giá hối đoái khác nhau. Theo
Mundell (1961), cơ chế tối ưu là cơ chế làm cho nền kinh tế ổn định hơn về sản lượng,
lạm phát, và việc làm. Ngoài ra, người ta cũng có thể xác định sự tối ưu theo mức phúc
lợi của dân chúng, mà những yếu tố này có thể được đo lường một cách gián tiếp thông
qua tiêu dùng thực của các hộ gia đình. Trước khi xem xét kỹ hơn các cú sốc và cách đo
lường tình trạng tối ưu, ta cần xem xét mô hình lý thuyết của nền kinh tế Việt nam kỹ
hơn ở phần tiếp theo.
3 Mô hình lý thuyết
3.1 Mô hình
Sản xuất
Đây là một mô hình cân bằng tổng quát động và đa khu vực, với bốn khu vực (Việt Nam,
Hoa Kỳ, phần còn lại của OECD, và phần còn lại của thế giới) và sáu ngành sản xuất
(năng lượng, khoáng sản, nông nghiệp, công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, và dịch vụ).
2Hai tiêu chí khác về đa dạng kinh tế và cơ chế ngân sách liên bang (Kenen 1969, Sala-i Martin &
Sachs 1991) không được kiểm chứng trong bài viết này vì tiêu chí đầu không được tất cả các nhà kinh
tế nhất trí, còn tiêu chí sau không áp dụng được cho Việt Nam và phần lớn các nước trên thế giới trong
điều kiện chính trị và quốc tế hiện tại.
4
Ngoài sáu ngành chính còn có hai ngành sản xuất vốn cố định cho doanh nghiệp (ngành
Y) và sản xuất tài sản cố định cho hộ gia đình (ngành Z). Trong mỗi khu vực, tổng sản
lượng mỗi hàng hoá i được định nghĩa là:
Yi = Ci + Ii +Gi +Xi + Vi +
6∑
j=1
Zji + ZY i (1)
trong đó, Ci là tiêu dùng hàng hoá i của các hộ gia đình, Ii là đầu tư gộp của ngành sản
xuất i, Gi là tiêu dùng hàng hoá i của chính phủ, Xi là tổng xuất khẩu hàng hoá i, Vi là
thay đổi hàng tồn kho của ngành i, Zji là nguyên liệu đầu vào của ngành i đối với hàng
hoá j. Tổng cung hàng hoá i là sự kết hợp theo dạng CES giữa sản lượng trong nước của
ngành i và tổng nhập khẩu hàng hoá i từ các khu vực khác. Ở đây, giả định Armington
được áp dụng:
Yi =
[
δDi Q
σ1−1
σ1
i + δ
M
i IMP
σ1−1
σ1
i
] σ1
σ1−1
(2)
trong đó Qi là sản lượng nội địa của ngành i, IMPi là tổng nhập khẩu hàng hoá i mà
cũng là kết hợp theo dạng CES của nhập khẩu hàng hoá i từ các khu vực khác. Mỗi ngành
có một hàm sản xuất CES từ bốn yếu tố đầu vào: vốn (K), lao động (L), năng lượng (E),
và nguyên vật liệu (M):
Qi = Ai
[ ∑
j=KLEM
δjx
σp−1
σp
j
] σp
σp−1
(3)
Hai yếu tố đầu vào sau (năng lượng và nguyên vật liệu) là sự kết hợp CES từ sáu hàng
hoá cơ bản. Các doanh nghiệp trong từng ngành sẽ tối đa hoá lợi nhuận, phụ thuộc vào
điều kiện ràng buộc về tính cứng nhắc của vốn cố định:
Max
∫ ∞
t
[(1− τ)(PiQi −WL− PExE − PMxM)− (1− τI)PII] e−(Rs−n)ds (4)
Phụ thuộc vào điều kiện
dKi
dt
= Ji − (δi + n)Ki
trong đó, τ là thuế suất thu nhập công ty, taui là khấu trừ thuế đầu tư (investment tax
credit), Ji là đầu tư ròng vào ngành i, δi là tỷ lệ khấu ... hoạt. Các tiêu chí về mức độ mở của và tính bất cân xứng của các cú sốc cũng được xác
nhận qua các phép mô phỏng, nhưng với ít nhiều khác biệt so với các nghiên cứu OCA
hiện tại. Tuy nhiên, sự khác biệt này không quan trọng và hầu hết là do các nghiên cứu
thực nghiệm hiện tại thiếu kiểm chứng chi tiết. Quả thật, không có phép kiểm chứng kinh
tế lượng nào có thể thực hiện việc kiểm tra lý thuyết OCA với cùng những ngành sản
xuất, những cú sốc và thành quả kinh tế một cách chi tiết như trong nghiên cứu này. Điều
này làm rõ những ưu điểm của phương pháp mô phỏng trong chủ đề cụ thể này. Trong
phần tiếp theo, phương pháp này sẽ được sử dụng để so sánh trực tiếp kết quả của các cơ
chế tỷ giá hối đoái khác nhau ở Việt Nam.
4.6 Cơ chế tỷ giá hối đoái tối ưu cho Việt Nam
Trong phần này, chúng ta sẽ so sánh kết quả của ba cơ chế tỷ giá cố định (theo các ngoại
tệ khác nhau) và ba cơ chế linh hoạt (với ba chính sách tiền tệ khác nhau):
• Tỷ giá được cố định theo USD (PUSA)
• Tỷ giá được cố định theo đồng tiền OECD (POEC)
21
• Tỷ giá được cố định theo một rổ tiền tệ gồm USD và đồng tiền OECD với trọng số
bằng nhau (BP)
• Tỷ giá linh hoạt với qui tắc tăng trưởng tiền tệ cố định (FMR)
• Tỷ giá linh hoạt với mục tiêu lạm phát (FIT)
• Tỷ giá linh hoạt với qui tắc McKibbin- Henderson (MHR)
Phương pháp thực nghiệm của phần này cũng tương tự như trong các phần trước với cơ
chế tỷ giá đầu tiên (cố định theo USD - PUSA) được sử dụng làm cơ chế tỷ giá cơ sở để so
sánh với các cơ chế khác. Hai hệ thống cú sốc được sử dụng trong từng mô phỏng: các cú
sốc trong nước (VIE) và các cú sốc nước ngoài (USA). Các kết quả được trình bày trong
Bảng 10 và Bảng 11.
22
B
ản
g
10
:
C
á
c
cơ
ch
ế
tỷ
g
iá
ch
o
V
iệ
t
N
a
m
F
M
R
F
IT
M
H
R
P
O
E
C
B
P
V
IE
U
S
A
V
IE
U
S
A
V
IE
U
S
A
V
IE
U
S
A
V
IE
U
S
A
C
ú
số
c
cu
n
g
-
N
ăn
g
lư
ợn
g
G
D
P
0.
76
8
0.
00
0
4.
04
6
0.
05
6
0.
60
1
0.
01
1
0.
91
9
13
.1
05
0.
95
9
5.
30
1
L
ạm
p
h
át
22
.9
74
0.
01
9
0.
00
0
0.
00
0
0.
16
0
0.
01
7
0.
87
6
12
.2
33
0.
93
7
4.
51
4
V
iệ
c
là
m
7.
19
8
0.
00
5
2.
17
0
0.
26
0
0.
34
2
0.
02
5
0.
92
2
15
.3
30
0.
96
0
5.
89
0
T
iê
u
d
ù
n
g
0.
76
7
0.
00
1
1.
07
0
0.
12
5
0.
37
1
0.
01
6
0.
92
6
12
.9
53
0.
96
3
5.
23
0
C
ú
số
c
cu
n
g
–
n
ôn
g
n
gh
iệ
p
G
D
P
0.
14
5
0.
00
3
1.
32
9
0.
00
3
2.
52
8
0.
58
4
0.
99
7
0.
01
9
0.
99
8
0.
31
5
L
ạm
p
h
át
0.
94
5
0.
23
7
0.
00
0
0.
00
0
0.
73
6
0.
52
6
1.
00
0
0.
04
0
1.
00
0
0.
35
8
V
iệ
c
là
m
0.
51
5
0.
06
1
2.
11
4
0.
01
7
8.
00
9
0.
23
1
0.
99
9
0.
03
9
1.
00
0
0.
33
7
T
iê
u
d
ù
n
g
0.
18
0
0.
00
4
1.
05
6
0.
02
0
2.
96
9
0.
14
7
0.
99
7
0.
03
7
0.
99
8
0.
33
0
C
ú
số
c
cu
n
g
-
C
ôn
g
n
gh
iệ
p
n
hẹ
G
D
P
0.
06
8
0.
01
8
2.
31
8
0.
00
3
1.
22
6
0.
90
4
0.
99
7
0.
63
0
0.
99
8
0.
80
3
L
ạm
p
h
át
0.
63
6
2.
41
9
0.
00
0
0.
00
0
2.
51
3
0.
14
2
1.
00
0
1.
00
3
1.
00
0
0.
87
3
V
iệ
c
là
m
0.
28
9
0.
21
7
2.
25
1
0.
03
3
1.
09
6
0.
67
8
0.
99
9
0.
78
6
1.
00
0
0.
86
0
T
iê
u
d
ù
n
g
0.
06
7
0.
03
9
2.
01
8
0.
00
8
0.
27
6
0.
55
3
0.
99
7
0.
63
9
0.
99
8
0.
80
8
C
ú
số
c
cu
n
g
-
D
ịc
h
vụ
G
D
P
0.
09
0
0.
00
4
1.
41
1
0.
00
0
1.
51
8
0.
00
0
0.
99
7
0.
02
7
0.
99
8
0.
33
8
L
ạm
p
h
át
1.
27
9
0.
28
6
0.
00
0
0.
00
0
12
.4
33
0.
00
5
1.
00
0
0.
01
1
1.
00
0
0.
26
2
V
iệ
c
là
m
0.
47
4
0.
08
6
2.
54
8
0.
00
5
3.
11
7
0.
00
0
0.
99
9
0.
02
4
0.
99
9
0.
31
9
T
iê
u
d
ù
n
g
0.
09
9
0.
00
6
1.
98
6
0.
00
1
2.
74
0
0.
00
0
0.
99
7
0.
03
1
0.
99
8
0.
34
2
23
B
ản
g
11
:
C
á
c
cơ
ch
ế
tỷ
g
iá
ch
o
V
iệ
t
N
a
m
F
M
R
F
IT
M
H
R
P
O
E
C
B
P
V
IE
U
S
A
V
IE
U
S
A
V
IE
U
S
A
V
IE
U
S
A
V
IE
U
S
A
Đ
ền
bù
rủ
i
ro
tỷ
gi
á
hố
i
đo
ái
G
D
P
>
e+
15
N
A
>
e+
15
N
A
>
e+
15
N
A
0.
22
3
N
A
0.
52
3
N
A
L
ạm
p
h
át
>
e+
15
N
A
>
e+
15
N
A
>
e+
15
N
A
0.
26
7
N
A
0.
76
7
N
A
V
iệ
c
là
m
>
e+
15
N
A
>
e+
15
N
A
>
e+
15
N
A
0.
25
4
N
A
0.
65
4
N
A
T
iê
u
d
ù
n
g
>
e+
15
N
A
>
e+
15
N
A
>
e+
15
N
A
0.
22
3
N
A
0.
52
3
N
A
C
ú
số
c
gi
á
ch
ứ
n
g
kh
oá
n
G
D
P
0.
48
5
0.
00
0
0.
04
5
0.
00
2
2.
04
3
0.
00
0
0.
99
8
7.
65
0
0.
99
7
2.
25
3
L
ạm
p
h
át
0.
44
1
0.
00
0
0.
00
0
0.
00
0
4.
74
8
0.
00
0
1.
00
0
17
.0
34
1.
00
0
4.
89
9
V
iệ
c
là
m
1.
52
5
0.
00
0
0.
11
8
0.
00
2
3.
06
8
0.
00
0
0.
99
9
10
.7
70
0.
99
9
3.
22
2
T
iê
u
d
ù
n
g
0.
65
3
0.
00
0
0.
07
3
0.
00
3
3.
22
5
0.
00
0
0.
99
7
6.
96
7
0.
99
8
2.
15
9
C
ú
số
c
cầ
u
ti
ền
G
D
P
17
.9
64
0.
00
8
0.
14
8
0.
01
8
10
.9
25
0.
00
5
0.
99
8
0.
14
7
0.
99
9
0.
47
4
L
ạm
p
h
át
14
4.
95
8
1.
48
1
0.
00
0
0.
00
0
13
8.
03
2
0.
00
4
1.
00
1
0.
09
1
1.
00
1
0.
40
2
V
iệ
c
là
m
70
.1
62
0.
06
9
1.
03
7
0.
06
6
71
.0
31
0.
02
0
0.
99
8
0.
11
8
0.
99
9
0.
42
9
T
iê
u
d
ù
n
g
39
.9
75
0.
01
5
0.
33
0
0.
04
7
44
.4
53
0.
01
1
0.
99
8
0.
16
8
0.
99
9
0.
48
7
C
ú
số
c
ti
êu
dù
n
g
tư
n
hâ
n
G
D
P
1.
64
1
0.
13
4
1.
20
1
0.
00
2
1.
20
2
0.
00
2
0.
99
6
0.
06
2
0.
99
8
0.
38
6
L
ạm
p
h
át
13
.6
79
1.
54
1
0.
00
0
0.
00
0
1.
32
6
0.
00
1
1.
00
0
0.
02
9
1.
00
0
0.
33
2
V
iệ
c
là
m
3.
22
4
0.
42
9
4.
76
7
0.
00
4
0.
97
5
0.
01
3
0.
99
7
0.
03
4
0.
99
8
0.
34
4
T
iê
u
d
ù
n
g
3.
01
4
0.
28
8
3.
43
2
0.
00
4
1.
96
1
0.
00
4
0.
99
6
0.
05
9
0.
99
8
0.
38
0
24
Bảng 10, với các cú sốc thực và về phía cung, cho thấy kết quả chiếm ưu thế của tất cả
các cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt khi đứng trước những cú sốc nước ngoài. Đứng trước
các cú sốc trong nước, chỉ có cơ chế FMR là tương đối tốt hơn so với cơ chế cố định theo
USD (PUSA), trong khi các cơ chế FIT và MHR có kết quả không rõ ràng. Hai cơ chế
cố định kia có kết quả gần như đồng nhất với cơ chế PUSA trước các cú sốc trong nước,
nhưng ngoại trừ cú sốc trong ngành năng lượng, chúng có ưu thế rõ ràng khi nền kinh tế
bị tác động bởi các cú sốc nước ngoài khác. Trong bảng thứ hai (11), với các cú sốc danh
nghĩa và về phía cầu, hai cơ chế cố định kia có kết quả tương tự. Chúng gần như có kết
quả tốt như của cơ chế PUSA khi đứng trước các cú sốc trong nước, nhưng với các cú sốc
nước ngoài, chúng có kết quả hỗn hợp. Ba cơ chế linh hoạt hiển nhiên phải tệ hơn PUSA
rất nhiều khi gặp phải một cú sốc rủi ro tỷ giá hối đoái. Đối với ba cú sốc khác, chúng
vẫn tốt hơn PUSA trong hầu hết các trường hợp cú sốc nước ngoài. Nhưng với các cú
sốc trong nước, FIT xem ra là cơ chế tốt nhất trong ba cơ chế, trong khi FMR trở nên tệ
nhất.
Từ những kết quả này, ta có thể rút ra một số kết luận về cơ chế tỷ giá hối đoái tối ưu
cho Việt Nam. Thứ nhất, xem ra sự chuyển đổi từ cơ chế PUSA sang cơ chế POEC hay
BP sẽ mang lại nhiều ổn định hơn cho nền kinh tế Việt Nam ngoại trừ trường hợp Hoa
Kỳ bị tác động bởi một cú sốc cung năng lượng hay giá trị thị trường cổ phiếu. Thứ hai,
việc chuyển sang một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt bất kể chính sách tiền tệ đi kèm
như thế nào sẽ chỉ có lợi cho Việt Nam nếu đất nước chỉ bị tác động bởi các cú sốc nước
ngoài. Nếu Việt Nam gặp phải những cú sốc trong nước, một qui tắc tăng trưởng tiền tệ
cố định là chính sách tiền tệ tốt nhất chống lại các cú sốc từ khía cạnh cung. Nhưng nếu
các cú sốc xuất phát từ khía cạnh cầu, FMR trở thành cơ chế tỷ giá tệ hại nhất và FIT
chiếm vị thế tốt nhất. Do đó, cho đến khi biết được diễn tiến của các cú sốc, tốt hơn Việt
Nam nên duy trì cơ chế cố định, hoặc là cố định theo USD, một đồng tiền OECD chung,
hay một rổ của hai loại tiền trên.
Lưu ý cuối cùng là, phần này nhằm minh hoạ việc sử dụng phương pháp luận mô phỏng
trong việc chọn cơ chế tỷ giá hối đoái tối ưu bằng lý thuyết OCA. Nó vẫn còn nhiều thiếu
sót mới có thể trở thành một kiến nghị chính sách hoàn chỉnh và thực tiễn vì mô hình vẫn
còn mang tính ước lệ và tính tổng thể cao.
5 Kết luận
Sử dụng phương pháp mô phỏng và một mô hình CGE động cho Việt Nam trong phần
mềm G-Cubed, bài viết này đã kiểm tra và xác nhận bốn tiêu chí cơ bản nhất của một
OCA: tính cứng nhắc danh nghĩa, tính cứng nhắc thực, mức độ mở cửa, và tính bất cân
xứng của các cú sốc. Phương pháp thực hiện kiểm chứng theo cách khác này đã tránh
được hai vấn đề trục trặc nghiêm trọng về sự thiếu sót về mô hình kinh tế lượng và tính
nội sinh như trong các nghiên cứu khác thực hiện kiểm chứng bằng kinh tế lượng. Nó cũng
mang lại nhiều chi tiết hơn và làm sáng tỏ nhiều vấn đề hơn cho việc kiểm chứng thực
nghiệm và đề xuất một cách thức thực tiễn để chọn lựa cơ chế tỷ giá hối đoái tối ưu cho
một đất nước.
25
Tài liệu
Alesina, Alberto & Barro, Robert J. (2000), ‘Currency Unions’, NBER Working Paper
7927.
Arndt, Channing & Perason, K. (1998), ‘Systematic Sensitivity Analysis via Gaussian
Quadrature and GEMPACK’, GTAP Technical Paper 3.
Bacchetta, Philippe & van Wincoop, Eric (2001), ‘Trade Flows, Prices, and Exchange Rate
Regimes’, Bank of Canada Conference "Revisiting the Cases for Flexible Exchange
Rates" November 2-3.
Bayoumi, Tamim & Eichengreen, Barry (1996), ‘Operationalizing the Theory of Optimum
Currency Areas’. IMF; U CA, Berkeley.
Bayoumi, Tamim & Eichengreen, Barry (1997), ‘Ever closer to heaven? An optimum-
currency-area index for European countries’, European Economic Review 41, 761–
770.
Bayoumi, Tamim & Mauro, Paolo (1999), ‘The Suitability of ASEAN for a Regional Cur-
rency Arrangement’. Imf; imf.
Bayoumi, Tamin (1994), ‘A Formal Model of Optimum Currency Areas’, IMF Staff Papars
41(4).
Berger, Helge, Sturm, Jan-Egbert & de Haan, Jakob (2000), ‘An empirical investigation
into exchange rate regime choice and exchange rate volatility’, CESifo Working paper
No.263 .
Calvo, Guillermo A. & Reinhart, Carmen (2000), ‘Fear of Floating’.
de Brouwer, Gordon (2001), Does a formal common-basket peg in East Asia make economic
sense?
Eichengreen, B. & Bayoumi, T. (1999), Is Asia An Optimum Currency Area? Can It
Become One? Regional, Global and Historical Perspectives on Asian Monetary Rela-
tions, in J. P.-F. S. Collignon & Y. C. Park, eds, ‘Exchange Rate Policies in Emerging
Asian Countries’, Routledge.
Frankel, Jeffrey-A. & Rose, Andrew-K. (1998), ‘The Endogeneity of the Optimum Cur-
rency Area Criteria’, Economic Journal 108(449), 1009–25. U CA, Berkeley; U CA,
Berkeley.
Goodhard, Charles (1995), The political economy of monetary union, in P. Kenen, ed.,
‘Understanding Interdependence: The macroeconomics of the Open Economy’, Price-
ton University Press.
Heller, Robert (1978), ‘Determinants of Exchange Rate Practices’, Journal of Money,
Credit, and Banking 10, 308–321.
26
Holden, Paul, Holden, Merle & Suss, Esther (1979), ‘The Determinants of Exchange Rate
Flexibility: An Empirical Investigation’, The Review of Economics and Statistics
LXI, 327–333.
Kenen, P. B. (1969), The Theory of Optimum Currency Areas: An Eclectic View, in R. A.
Mundell & A. K. Swoboda, eds, ‘Monetary Problems of The International Economy’,
University of Chicago Press, pp. 41–61.
Lee, Jong-Wha, Park, Yung Chul & Shin, Kwanho (2002), ‘A Currency Union in Asia?’,
Asian Development Bank Study on Monetary and Financial Corporation in
East Asia.
Masson, Paul & Taylor, Mark (1993), Currency Unions: A Survey of the Issues, in P. Mas-
son & M. Taylor, eds, ‘Policy Issues in the Operation of Currency Unions’, Cambridge
University Press.
McKibbin, Warwick J. & Bok, Tomas (1998), Which Monetary Regime for Europe?: A
Quantitative Evaluation, in ‘Economic Modeling of European Macroeconomic Inte-
gration’.
McKibbin, Warwick & Le, Hong-Giang (2004), Which exchange rate regime for Asia?, in
G. de Brouwer & M. Kawai, eds, ‘Exchange Rate Regimes in East Asia’, Routledge-
Curzon, pp. 385–416.
McKibbin, Warwick & Wilcoxen, Peter (1999), ‘The theoretical and empirical structure
of the G-Cubed model’, Economic Modelling 16, 123–148.
McKinnon, R. I. (1963), ‘Optiomum Currency Areas’, American Economic Review
53((September)), 717–725.
McLaren, Keith (1990), ‘A Reappraisal of Business Investment’, Department of Econo-
metrics, Monash University Working Paper No. 5/90.
Monacelli, Tommaso (2004), ‘Into the Mussa puzzle: monetary policy regimes and the
real exchange rate in a small open economy’, Journal of International Economics
62, 191–217.
Mundell, Robert (1961), ‘A Theory of Optimum Currency Areas’, American Economic
Review 51(4), 657–665.
Mundell, Robert A. (1969), Summary of Discussion, in R. A. Mundell & A. K. Swoboda,
eds, ‘Monetary Problems of the International Economy’, University of Chicago Press,
Chicago and London, pp. 107–120.
Ricci, L.-A. (1997), ‘A Model of an Optimum Currency Area’, IMF Working Paper
WP/97/76.
Rizzo, Jean-Marc (1998), ‘The economic determinants of the choice of an exchange rate
regime: a probit analysis’, Economic Letters 59, 283–287.
27
Sala-i Martin, Xavier & Sachs, Jeffrey (1991), ‘Fiscal Federalism and Optimum Currency
Areas: Evidence for Europe from the United States’, NBER Working paper(3855).
Savvides, Andreas (1990), ‘Real exchange rate variability and the choice of exchange rate
regime by developing countries’, Journal of International Money and Finance 9, 440–
454.
Siriwardana, Madinda (1997), ‘Exchange Rate Policy and Market Power: A general equi-
librium analysis for Singapore’, ASEAN Economic Bulletin 14(1).
Velasco, Andres (2000), ‘Exchange rate policies for developing countries: What have we
learned? What do we still not know?’, G-24 Discussion Paper No.5.
von Hagen, Jurgen & Zhou, Jizhong (2002), ‘The choice of exchange rate regimes: An
empirical analysis for transition economies’, CEPR .
Wilcoxen, Peter (2004), Confidence Intervals in CGE.
Willett, Thomas (2001), ‘The OCA approach to exchange rate regimes: A perspective on
recent developments’, Claremont Colleges, Working paper 2001-2004 .
Wyplosz, Charles (2001), A Monetary Union in Asia? Some European Lessons, in D. Gruen
& H. Simon, eds, ‘Future Directions for Monetary Policies in East Asia’, Economic
Group, Reserve Bank of Australia, Australia.
28

File đính kèm:

  • pdfkiem_chung_ly_thuyet_khu_vuc_tien_te_toi_uu.pdf