Khảo sát sự đào thải sinh học của bệnh nhân ung thu tuyến giáp sau khi uống iốt - 131
Mục tiêu: Xác định thời gian điều trị cách ly hợp lý của bệnh nhân ung thu tuyến
giáp được chỉ định điều trị bằng I-131.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trên 122 bệnh nhân được điều trị với các
liều I-131 khác nhau, từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 3 năm 2016. Bằng phương pháp
tiến cứu mô tả, suất liều chiếu của 86,1% bệnh nhân nữ và 14,9 % bệnh nhân nam được
xác định tại vị trí 1 m, và phép đo được lặp lại sau mỗi 24 giờ. Kết quả đo được so sánh
với giá trị giới hạn đã quy định theo thông tư 13/2014/TTLT-BKHCN-BYT.
Kết quả
84,5% bệnh nhân có kết quả như sau: bệnh nhân dùng liều 100mCi hoặc 150mCi
được phép ra viện sau 48 giờ kể từ khi uống thuốc, bệnh nhân uống liều 30mCi hoặc
50mCi có thể ra viện sau 24 giờ.
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát sự đào thải sinh học của bệnh nhân ung thu tuyến giáp sau khi uống iốt - 131", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát sự đào thải sinh học của bệnh nhân ung thu tuyến giáp sau khi uống iốt - 131
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 12 (1) Bệnh viện Quân y 175 Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thị Thúy Nhâm (Email: [email protected]) Ngày nhận bài: 5/7/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/7/2016. Ngày bài báo được đăng: 30/9/2016 Tóm tắt Mục tiêu: Xác định thời gian điều trị cách ly hợp lý của bệnh nhân ung thu tuyến giáp được chỉ định điều trị bằng I-131. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trên 122 bệnh nhân được điều trị với các liều I-131 khác nhau, từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 3 năm 2016. Bằng phương pháp tiến cứu mô tả, suất liều chiếu của 86,1% bệnh nhân nữ và 14,9 % bệnh nhân nam được xác định tại vị trí 1 m, và phép đo được lặp lại sau mỗi 24 giờ. Kết quả đo được so sánh với giá trị giới hạn đã quy định theo thông tư 13/2014/TTLT-BKHCN-BYT. Kết quả 84,5% bệnh nhân có kết quả như sau: bệnh nhân dùng liều 100mCi hoặc 150mCi được phép ra viện sau 48 giờ kể từ khi uống thuốc, bệnh nhân uống liều 30mCi hoặc 50mCi có thể ra viện sau 24 giờ. Một số trường hợp đặc biệt: bệnh nhân đào thải nhanh hoặc chậm hơn so với nhóm84,5% bên trên, đối với nhóm đào thải chậm, bệnh nhân phải điều trị cách ly nhiều giờ hơn bình thường. Kết luận Nghiên cứu ban đầu cho thấy 93,5% bệnh nhân được điều trị bằng I-131 với liều điều trị từ 30mCi đến 150mCi có thể ra viện sau khi điều trị 2 hoặc 3 ngày. 6,5% bệnh nhân còn lại có thể được ra viện trẽ hơn nhóm kia 1 hoặc 2 ngày. Với thời gian cách ly này, cơ sở và bệnh nhân đã đảm bảo được An toàn bức xạ trong điều trị. KHẢO SÁT SỰ ĐÀO THẢI SINH HỌC CỦA BỆNH NHÂN UNG THU TUYẾN GIÁP SAU KHI UỐNG IỐT – 131 Nguyễn Thị Thúy Nhâm1, Vũ Đình Tuyển1, Đào Tiến Mạnh1 Cao Văn Khánh1, Nguyễn Đăng Hải1 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 13 Từ khóa: liều chiếu, đào thải sinh học, I-131. Abstracts EVALUTING BIOLOGICAL ELIMINATION OF I-131 FOR THYROID CANCER PATIENTS AFTER IODINE THERAPY Objective: The purpose is to determine the insulating time of the thyroid cancer patients who were treated by radioiodine 131. Materials and methods: The studied patients were 122 people with different radioactive doses, began from Octorber 2015 to March 2016, included 86,1% female and 14,9% male. Exposure dose per hour was measured at 1m distance from the patient. The measurements were operated sequentially with 24 hours per times. The result is compared with a limited value. Result: 84,5% of patients have general results: After consume drug with dose 150 mCi and 100 mCi, the patients can leave hospital after 48 hours. When the patients use 50 mCi and 30 mCi radioactive doses, they can leave hospital after 24 hours. There are some paticular cases, the patients need to stay in hospital longer. However, they should have a clear safety guideline when they come back home. Conclution: Throung initial research: 93.5% of patients who were treated by I-131 can go out the hospital after 2 or 3 days with exposure doses per hour lower than limited value. 6,5% of patients come back home 1 to 2 days later than those patients. Từ khóa: exposure dose. Biology elimination, I-131. ĐẶT VẤN ĐỀ Điều trị ung thư tuyến giáp bằng đồng vị I-131 là phương pháp đặc hiệu nhất hiện nay. Khi bệnh nhân điều trị bằng chất phóng xạ này, bệnh nhân trở thành nguồn phóng xạ hở, vì vậy bệnh nhân cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định an toàn bức xạ trong điều trị, đặc biệt là bệnh nhân phải điều trị cách ly tại bệnh viện cho đến hoạt độ phóng xạ còn lại trong cơ thể bệnh nhân nhỏ hơn 400MBq (11mCi) có thể được phép ra viện [1]. Hiện nay, các cơ sở điều trị xác định thời gian điều trị cách ly cho bệnh nhân chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, điều này dẫn đến bệnh nhân ra về có thể đã đảm bảo hoặc chưa đảm bảo an toàn bức xạ. Những năm gần đây, lượng bệnh nhân mắc ung thư tuyến giáp ngày càng tăng trong khi điều kiện về cơ sở hạ tầng của các bệnh viện còn hạn hẹp, việc kiểm soát được ngày ra viện sẽ giúp cho cơ sở điều trị có thể lên kế hoạch cho các đợt điều trị kế tiếp. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đã tiến hành thực hiện đề tài này với mục tiêu: “Xác định thời điểm ra viện hợp lý cho bệnh nhân điều trị bằng TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 14 I-131”. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu: 1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn: - Các bệnh nhân ung thư tuyến giáp đã phẫu thuật hoàn toàn và có sử dụng liều điều trị I-131; - Bệnh nhân được lưu trú cách ly tại bệnh viện, - Bệnh nhân tuân thủ đúng các quy định An toàn bức xạ của cơ sở điều trị. 1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: - Bệnh nhân nôn ói trong 24 giờ tính từ thời điểm dùng I-131; - Bệnh nhân bị tiêu chảy; - Bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn lựu chọn nhưng không tham gia nghiên cứu hoặc tham gia không liên tục. 2. Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu thống kê mô tả. 3. Tiến hành thực nghiệm: 3.1 Địa điểm: Thực nghiệm được tiến hành tại hành lang nối từ phòng phân liều tới khu điều trị cách ly, Khoa Y học hạt nhân, Bệnh viện quân y 175. 3.2. Phương tiện nghiên cứu: - Máy đo suất liều Inspector độ chính xác 98%; - Tấm chắn kim loại pha chì cao 2m, dày 1cm, có cửa sổ nhỏ ở vị trí 1,5m; - Liều kế cá nhân, áo chì, yếm chì, khẩu trang và gang tay. 3.3. Bố trí thực nghiệm: Trước khi tiến hành đo suất liều, các bệnh nhân cần phải tắm rửa và đi tiểu. Bệnh nhân đứng ở vị trí cách tấm chì 1m, đứng thẳng, hướng về phía tấm chì sao cho vị trí tuyến giáp ngang tầm với của sổ nhỏ trên tấm chì. Nhân viên đo suất liều đừng sau tấm chì, đặt máy đo tại vị trí cửa sổ nhỏ, hướng trường thu tín hiều về phía bệnh nhân. 3.4. Tiến hành đo: Thực hiện phép đo ngay sau khi bệnh nhân uống I-131 (thời điểm 0 giờ) - Đo phông; - Đo suất liều bệnh nhân Mỗi phép đo lặp lại 3 lần, ghi lại số liệu và tính trung bình cho mỗi lần đo. Cứ sau mỗi 24 giờ, bệnh nhân lại được đo suất liều như lần trước cho đến khi bệnh nhân ra viện. 3.5. Xử lý số liệu: bằng phần mềm SPSS. 3.6 Tính suất liều lý thuyết Suất liều tại thời điểm 0 giờ [2]: Với: TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 15 Suất liều P2, P3, P4 tại thời điểm sau mỗi 24 giờ được tính theo công thức bán thực nghiệm dưới đây: Trong đó: P i là suất liều của bệnh nhân sau mỗi 24 giờ, T c là chu kì bán rã vật lý, T 1/2 = 8,06 ngày [3]. Theo kinh nghiệm của các cơ sở điều trị, cứ sau 24 giờ, liều phóng xạ còn lại trong cơ thể là 30%, khoảng 70% phóng xạ được đào thải qua đường tiểu tiện. 3.7 Cơ sở xác định thời gian cách ly Căn cứ Thông tư số 13/2014/TTLT- BKHCN-BYT: bệnh nhân được phép ra viện khi hoạt độ bức xạ trong người không vượt quá 400 MBq. Suất liều chiếu của liều 400MBq tại vị trí 1m là 30,58 μSv/h. Như vậy, nếu suất liều chiếu của bệnh nhân thấp hơn 30,58 μSv/h thì bệnh nhân được phép xuất viện. KẾT QUẢ Trong tổng số n = 122 bệnh nhân được nghiên cứu, từ 20 đến 79 tuổi: Bảng 1: Tuổi Tuổi Số lượng (n) Tỉ lệ (%) 20 - 29 16 13 30 - 39 41 33,6 40 - 49 35 28,7 50 - 59 24 19,7 60 - 79 27 22 Bệnh nhân tập trung ở lứa tuổi 30 – 59 là cao nhất chiếm 82% Bảng 2: Giới TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 16 Giới Số lượng (n) Tỉ lệ % Nam 17 13,9 Nữ 105 86,1 Tỉ lệ nam:nữ là 6:1 Bảng 3: Liều đi ều trị Liều điểu trị (mCi) Số lượng (n) Tỉ lệ (%) 150 15 12,3 100 34 27,8 50 24 20 30 49 40 Liều điều trị tập trung chủ yếu ở mức liều 30 mCi và 100 mCi chiếm 67,8 % Kết quả suất liều Bảng 4: Suất liều của nhóm liều 150 mCi (n =11) Kết quả Suất liều chiếu (μSv/h) 0 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ 96 giờ Lý thuyết 432,69±4,09 112,81±4,07 33,65±1,07 7,87±0,28 2,08±0,07 Thực nghiệm 445,87 ± 94,93 63,19 ± 14,28 14,58 ± 2,89 4,55 ± 1,21 1,83 ± 0,56 P 0,532 0,00 0,00 0,00 0.51 Nhận xét: Có sự khác biệt giữa tính lý thuyết và kết quả thực nghiệm tại các thời điểm khác nhau. Tại thời điểm 0 giờ và 96 giờ, thực nghiệm phù hợp với lý thuyết (P > 0.05) Bảng 5: Suất liều của nhóm liều 100 mCi (n=30) Kết quả Suất liều chiếu (μSv/h) 0 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ 96 giờ Lý thuyết 282,3±13,40 74,81±3,53 19,52±0.92 5,13±0,24 1,34±0,06 Thực nghiệm 302,16 ±50,87 41,08 ± 9,25 9,36 ± 3,44 2,78 ± 1,22 1,24 ± 0,56 P 0,168 0,00 0,00 0,00 0,536 Nhận xét: Tại thời điểm 0 giờ, thực nghiệm phù hợp với lý thuyết (P > 0.05). Khoảng thời gian giữa 24 giờ đến 72 giờ, tốc độ đào thải giữa lý thuyết và thực nghiệm là khác biệt. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 17 Bảng 6: Suất liều của nhóm liều 50 mCi (n=19) Kết quả Suất liều chiếu (μSv/h) 0 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ Lý thuyết 142,34±8,34 37,70±2.50 10,23±0,65 2,65±0,17 Thực nghiệm 159,87 ±27,71 20,05 ± 3,8 5,33 ± 1,49 1,69±0,59 P 0,029 0,00 0,00 0,00 Nhận xét: Thực nghiệm và lý thuyết không tương đồng nhau, tốc độ đào thải thực nghiệm nhanh hơn lý thuyết. Bảng 7: Suất liều của nhóm liều 30 mCi (n = 43) Kết quả Suất liều chiếu (μSv/h) 0 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ Lý thuyết 83,88±7,97 23,16±2,39 5,81±0,61 1,54±0,16 Thực nghiệm 95,76 ±15,29 13,13±2,91 3,6 ± 1,18 1,36±0,61 P 0,00 0,00 0,00 0,050 Nhận xét: Thực nghiệm và lý thuyết không tương đồng nhau, tốc độ đào thải thực nghiệm nhanh đạt tới giá trị ngưỡng hơn. Bảng 8: Một số trường hợp đặc biệt Liều (mCi) Nhóm Suất liều chiếu (μSv/h) 0 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ 96 giờ 150 (n=4) Chậm (n=1) 435,34 98,70 59,44 34,63 22,77 Nhanh 430,41±5,23 38,2±3,67 5,07±2,80 0,9±0.12 0,58±0,18 100 (n=4) Chậm (n=1) 298,8 66,1 38,89 16,08 9,94 Nhanh 263,22±17,71 22,05 ± 3,8 3,2 ±0,86 0,91±0,19 0,4±0,03 50 (n=5) Chậm (n=2) 171±0,9 50,2±1,4 32,66±8,8 15,6±2,43 Nhanh 150,9±10,6 11,34± 5,3 2,0±0,92 0,6±0,47 30 (n=6) Chậm (n=3) 87,44±6,3 35,5±5,78 13,2±3,8 8,0±2,15 Nhanh 75,7± 5,8 14,6±2,57 2,8±1,3 0,8±0,32 Nhận xét: trong các nhóm liều điều trị, có trường hợp suất liều giảm theo thời gian rất nhanh nhưng cũng có nhiều trường hợp suất liều giảm chậm. BÀN LUẬN 1. Đặc điểm bệnh nhân Thu thập số liệu, chúng tôi nhận thấy rằng, nhóm bệnh nhân mắc bệnh ung thư tuyến giáp có chỉ định điều trị bằng đồng vị phóng xạ I-131 tập trung chủ yếu vào TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 18 giới nữ (86,1%). Độ tuổi mắc bệnh từ 20 – 79, tuổi trưởng thành 30-50 chiếm 62,3%, đây là độ tuổi lao động và ở độ tuổi này, các cơ quan trong cơ thể đang hoạt động trong giai đoạn tốt, kể cả các cơ quan bài tiết. Bên cạnh đó, sau khi thăm khám bệnh nhân, các bệnh nhân thực hiện nghiêm các quy định trong điều trị, 100% bệnh nhân thực hiện việc tắm rửa, đi vệ sinh trước giờ đo suất liều. Thông thường, liều phóng xạ được coi là liều điêu trị gồm các nhóm liều: 30, 50, 100 và 150 mCi, 200mCi. Trong 122 bệnh nhân được theo dõi, liều điều trị tập trung ở 4 nhóm liều với giá trị liều trung bình lần lượt là: 29,71±2,18 mCi, 50,31±2,15 mCi, 99,78±4,02 mCi, 149,39±3,55 mCi. Khả năng đào thải phóng xạ nhanh hay chậm cũng tùy thuộc vào mỗi nhóm liều. Bên cạnh đó, khả năng đào thải phóng xạ còn phụ thuộc vào các yếu tố như: lượng tế bào mô giáp, chức năng cơ quan thận, tiền sử bệnh đường ruột, TSH, TG và anti TG. Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi chưa thống kê được thứ tự lần điều trị bằng I-131, chúng tôi chắc chắn rằng, trên cùng một bệnh nhân đã điều trị nhiều lần, khả năng đào thải phóng xạ của lần sau chắc chắn tốt hơn lần trước do lượng tế bào tuyến giáp đã bị diệt trong lần điều trị trước đó (với các điều kiện tương tự nhau trong mỗi lần điều trị). Đề tài chưa phản ảnh được mối liên quan giữa các chỉ số như: chức năng thận, các thông số TSH, TG và anti TG với khả năng đào thải phóng xạ. 2. Kết quả suất liều chiếu Trên cả 4 nhóm liều điều trị, tại thời điểm ngay sau khi bệnh nhân uống I-131 – thời điểm 0 giờ, giá trị lý thuyết tính được thấp hơn thực nghiệm đo đạc, có thể nói là giá trị lý thuyết nằm ở ngưỡng dưới của thực nghiệm. Nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch này là do sự phân bố phóng xạ I-131 khi đi vào cơ thể. Bệnh nhân sử dụng I-131 dưới dạng lỏng, do đó lượng thuốc này tập trung nhiều từ khoang miệng tới dạ dày. Bệnh nhân trở thành nguồn phóng xạ hở (không phải nguồn điểm) phát bức xạ tới thiết bị đo. Tuy nhiên, các bức xạ này gây ra nhiều tán xạ, do đó, suất liều ghi nhận được là bao gồm của các bức xạ trực tiếp và các tán xạ gây ra. Vì vậy, suất liều đo được cao hơn suất liều tính theo công thức (1). Theo kinh nghiệm của các nhà điều trị trước đây, cứ sau 24 giờ tính từ khi uống thuốc, khoảng 70 % lượng thuốc phóng xạ được đào thải ra khỏi cơ thể bệnh nhân qua hệ thống bài tiết. Thực nghiệm cho thấy lượng phóng xạ của bệnh nhân đào thải trong 1 ngày lớn hơn con số 70% mà kinh nghiệm đưa ra. Kinh nghiệm là suất phát từ quá trình điều trị trước đây truyền lại, vì vậy, kết quả kinh nghiệm này mang tính ước lượng và được các nhà điều trị lâm sàn sử dụng làm căn cứ quy định thời gian điều trị cách ly cho bệnh nhân khi điều trị bằng I-131. Chấp hành theo thông tư số 13/2014/ TTLT-BKHCN-BYT, suất liều chiếu của nguồn I-ốt 131 có hoạt độ 400 MBq tại vị TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 19 trí cách nguồn 100 cm là 30,58 μSv/h – đây là giá trị giới hạn, kết quả thực nghiệm chỉ ra rằng: từng nhóm liều khác nhau sẽ đưa ra thời gian cách ly khác nhau, dẫn đến thời điểm được phép ra viện cũng khác nhau. Bệnh nhân uống liều 30 mCi và 50 mCi thì được phép suất viện sau 24 giờ, bệnh nhân uống liều 100 mCi và 150m Ci thì được phép suất viện sau 48 giờ. Như vậy, có sự khác biệt giữa kinh nghiệm trước đây và kết quả đo thực tế. Đặc biệt là nhóm liều cao 100 mCi và 150 mCi, thực tế cho thấy, sau 48 giờ, bác sĩ điều trị có thể xem xét và quyết định cho bệnh nhân ra viện để có khu vực cách ly cho các nhận bệnh nhân khác, giải quyết được vấn đề nan giải hiện nay (bệnh nhân ngày càng đông, khu vực lưu trú cách ly hạn chế) mà vẫn đảm bảo quy định ATBX. Sau khi được xuất viện, bệnh nhân vẫn phải thực hiện cách ly tại nhà cho tới khi suất liều trong cơ thể bằng với phông môi trường là 0,48 μSv/h. 3. Một số trường hợp đặc biệt Thực nghiệm cũng cho thấy rằng: không phải tất cả bệnh nhân đều đào thải như nhau. Trong quá trình nghiên cứu đã chỉ ra một số trường hợp không phổ biến: * Một số bệnh nhân đào thải tốt: Bệnh nhân dùng liều 150 mCi, 48 giờ (2 ngày) kể từ khi uống thuốc, kết quả suất liều còn lại từ 3 đến 4 μSv/h. Bệnh nhân dùng liều 100 mCi, 50 mCi, 30mCi, sau 24 giờ, bệnh nhân có thể ra viện với lượng phóng xạ còn lại trong người rất thấp, ít gây ảnh hưởng đến cộng đồng. Một đặc điểm nổi bật là những bệnh nhân này đều là phụ nữ và có độ tuổi từ 30 đến 50 tuổi, khả năng vận động tốt. * Một số đào thải chậm: Số lượng bệnh nhân đào thải chậm chiếm 6,5% tổng số bệnh nhân. Khả năng đào thải của họ đều chậm hơn so với 84,5% bệnh nhân là một ngày. Khảo sát cho thấy nhóm bệnh nhân này gồm chủ yếu những người tuổi cao và không đi lại được, một số có di căn hạch. Số bệnh nhân này đều mắc một trong số các nguyên nhân sau: tiểu tiện và đại tiện kém, vận động kém. KẾT LUẬN Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2016 cho thấy, 93,5 % bệnh nhân điều trị bằng dược chất phóng xạ I-131 có thể xuất viện mà vẫn đảm bảo đúng quy định về an toàn bức xạ sau thời gian điều trị cách ly như sau: TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016 20 Liều điều trị Thời gian điều trị cách ly tại cơ sở điều trị (giờ) 150 mCi 48 100 mCi 48 50 mCi 24 30 mCi 24 KIẾN NGHỊ Như vậy: đối với nhóm liều 30 mCi và 50mCi, bệnh nhân có thể ra viện cách ngày uống thuốc 1 ngày; nhóm bệnh nhân điều trị liều 100 mCi và 150 mCi điều trị cách ly đến ngày thứ 4 có thể về nhà. Các trường hợp đặc biệt: bệnh nhân cao tuổi, không đi lại được, có di căn xa và tiền sử bệnh về bài tiết, cần được theo dõi kỹ hơn và đảm bảo thời gian cách ly phù hợp. Những bệnh nhân này thường ra viện trễ hơn khoảng 1 đến 2 ngày so với những bệnh nhân thông thường. Trên kết quả nghiên cứu, cơ sở điều trị có thể lên kế hoạch tiếp nhận các bệnh nhân điều trị tiếp theo. Tại Bệnh viện quân y 175, để đảm bảo an toàn bức xạ môi trường và cộng đồng, bệnh viện luôn thực hiện theo quy tắc ALARA, cụ thể: Đối với liều cao: 100 mCi, 150 mCi, sau một tuần bệnh nhân được xuất viện. Đối với liều thấp: 30 mCi, 50 mCi, bệnh nhân được xuất viện sau 4 ngày. Khi xuất viện, suất liều ra viện của bệnh nhân tại khoảng cách 2 m luôn nhỏ hơn hoặc bằng 0,5 μSv/h. Điều này hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Hầu hết, bệnh nhân xuất viện đều có xuất liều nhỏ, khi đo ở vị trí 2m – cách bệnh nhân, suất liều có thể đạt dưới ngưỡng phông môi trường . TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Khoa học Công nghệ và Bộ Y tế (2014), Thông tư liên tịch Quy định về bảo đảm an toàn bức xạ trong y tế số 13/2014/ TTLT-BKHCN-BYT, Hà Nội. 2. Châu Văn Tạo (2004), An toàn bức xạ ion hoá, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 3. The American Thyroid Association Taskforce on Radioiodine Safety, Radiation Safety in the Treatment of Patients with Thyroid Diseases by Radioiodine 131I: Practice Recommendations of the American Thyroid Association, THYROID Volume 21, Number 4, 2011
File đính kèm:
khao_sat_su_dao_thai_sinh_hoc_cua_benh_nhan_ung_thu_tuyen_gi.pdf

