Khảo sát sự đào thải sinh học của bệnh nhân ung thu tuyến giáp sau khi uống iốt - 131

Mục tiêu: Xác định thời gian điều trị cách ly hợp lý của bệnh nhân ung thu tuyến

giáp được chỉ định điều trị bằng I-131.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trên 122 bệnh nhân được điều trị với các

liều I-131 khác nhau, từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 3 năm 2016. Bằng phương pháp

tiến cứu mô tả, suất liều chiếu của 86,1% bệnh nhân nữ và 14,9 % bệnh nhân nam được

xác định tại vị trí 1 m, và phép đo được lặp lại sau mỗi 24 giờ. Kết quả đo được so sánh

với giá trị giới hạn đã quy định theo thông tư 13/2014/TTLT-BKHCN-BYT.

Kết quả

84,5% bệnh nhân có kết quả như sau: bệnh nhân dùng liều 100mCi hoặc 150mCi

được phép ra viện sau 48 giờ kể từ khi uống thuốc, bệnh nhân uống liều 30mCi hoặc

50mCi có thể ra viện sau 24 giờ.

pdf 9 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát sự đào thải sinh học của bệnh nhân ung thu tuyến giáp sau khi uống iốt - 131", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Khảo sát sự đào thải sinh học của bệnh nhân ung thu tuyến giáp sau khi uống iốt - 131

Khảo sát sự đào thải sinh học của bệnh nhân ung thu tuyến giáp sau khi uống iốt - 131
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016
12
(1) Bệnh viện Quân y 175
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Thị Thúy Nhâm (Email: [email protected])
Ngày nhận bài: 5/7/2016. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 20/7/2016. 
Ngày bài báo được đăng: 30/9/2016
Tóm tắt
Mục tiêu: Xác định thời gian điều trị cách ly hợp lý của bệnh nhân ung thu tuyến 
giáp được chỉ định điều trị bằng I-131.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Trên 122 bệnh nhân được điều trị với các 
liều I-131 khác nhau, từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 3 năm 2016. Bằng phương pháp 
tiến cứu mô tả, suất liều chiếu của 86,1% bệnh nhân nữ và 14,9 % bệnh nhân nam được 
xác định tại vị trí 1 m, và phép đo được lặp lại sau mỗi 24 giờ. Kết quả đo được so sánh 
với giá trị giới hạn đã quy định theo thông tư 13/2014/TTLT-BKHCN-BYT.
Kết quả
84,5% bệnh nhân có kết quả như sau: bệnh nhân dùng liều 100mCi hoặc 150mCi 
được phép ra viện sau 48 giờ kể từ khi uống thuốc, bệnh nhân uống liều 30mCi hoặc 
50mCi có thể ra viện sau 24 giờ.
Một số trường hợp đặc biệt: bệnh nhân đào thải nhanh hoặc chậm hơn so với 
nhóm84,5% bên trên, đối với nhóm đào thải chậm, bệnh nhân phải điều trị cách ly nhiều 
giờ hơn bình thường.
Kết luận
Nghiên cứu ban đầu cho thấy 93,5% bệnh nhân được điều trị bằng I-131 với liều 
điều trị từ 30mCi đến 150mCi có thể ra viện sau khi điều trị 2 hoặc 3 ngày. 6,5% bệnh 
nhân còn lại có thể được ra viện trẽ hơn nhóm kia 1 hoặc 2 ngày. Với thời gian cách ly 
này, cơ sở và bệnh nhân đã đảm bảo được An toàn bức xạ trong điều trị.
KHẢO SÁT SỰ ĐÀO THẢI SINH HỌC CỦA BỆNH NHÂN UNG THU 
TUYẾN GIÁP SAU KHI UỐNG IỐT – 131
Nguyễn Thị Thúy Nhâm1, Vũ Đình Tuyển1, Đào Tiến Mạnh1
Cao Văn Khánh1, Nguyễn Đăng Hải1
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016
13
Từ khóa: liều chiếu, đào thải sinh học, I-131.
Abstracts
EVALUTING BIOLOGICAL ELIMINATION OF I-131 FOR THYROID 
CANCER PATIENTS AFTER IODINE THERAPY
Objective: The purpose is to determine the insulating time of the thyroid cancer 
patients who were treated by radioiodine 131.
Materials and methods: The studied patients were 122 people with different 
radioactive doses, began from Octorber 2015 to March 2016, included 86,1% female 
and 14,9% male. Exposure dose per hour was measured at 1m distance from the patient. 
The measurements were operated sequentially with 24 hours per times. The result is 
compared with a limited value. 
Result: 84,5% of patients have general results: After consume drug with dose 150 
mCi and 100 mCi, the patients can leave hospital after 48 hours. When the patients use 
50 mCi and 30 mCi radioactive doses, they can leave hospital after 24 hours.
There are some paticular cases, the patients need to stay in hospital longer. However, 
they should have a clear safety guideline when they come back home.
Conclution:
Throung initial research: 93.5% of patients who were treated by I-131 can go out 
the hospital after 2 or 3 days with exposure doses per hour lower than limited value. 
6,5% of patients come back home 1 to 2 days later than those patients. 
Từ khóa: exposure dose. Biology elimination, I-131.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Điều trị ung thư tuyến giáp bằng đồng 
vị I-131 là phương pháp đặc hiệu nhất 
hiện nay. Khi bệnh nhân điều trị bằng chất 
phóng xạ này, bệnh nhân trở thành nguồn 
phóng xạ hở, vì vậy bệnh nhân cần phải 
tuân thủ nghiêm ngặt các quy định an toàn 
bức xạ trong điều trị, đặc biệt là bệnh nhân 
phải điều trị cách ly tại bệnh viện cho đến 
hoạt độ phóng xạ còn lại trong cơ thể bệnh 
nhân nhỏ hơn 400MBq (11mCi) có thể 
được phép ra viện [1]. Hiện nay, các cơ 
sở điều trị xác định thời gian điều trị cách 
ly cho bệnh nhân chủ yếu dựa trên kinh 
nghiệm, điều này dẫn đến bệnh nhân ra về 
có thể đã đảm bảo hoặc chưa đảm bảo an 
toàn bức xạ. Những năm gần đây, lượng 
bệnh nhân mắc ung thư tuyến giáp ngày 
càng tăng trong khi điều kiện về cơ sở hạ 
tầng của các bệnh viện còn hạn hẹp, việc 
kiểm soát được ngày ra viện sẽ giúp cho 
cơ sở điều trị có thể lên kế hoạch cho các 
đợt điều trị kế tiếp. Trên cơ sở đó, nhóm 
nghiên cứu đã tiến hành thực hiện đề tài 
này với mục tiêu: “Xác định thời điểm ra 
viện hợp lý cho bệnh nhân điều trị bằng 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016
14
I-131”.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu: 
1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn: 
- Các bệnh nhân ung thư tuyến giáp 
đã phẫu thuật hoàn toàn và có sử dụng liều 
điều trị I-131;
- Bệnh nhân được lưu trú cách ly tại 
bệnh viện,
- Bệnh nhân tuân thủ đúng các quy 
định An toàn bức xạ của cơ sở điều trị.
1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: 
- Bệnh nhân nôn ói trong 24 giờ tính 
từ thời điểm dùng I-131;
- Bệnh nhân bị tiêu chảy;
- Bệnh nhân thỏa mãn tiêu chuẩn lựu 
chọn nhưng không tham gia nghiên cứu 
hoặc tham gia không liên tục.
2. Phương pháp nghiên cứu: 
Tiến cứu thống kê mô tả. 
3. Tiến hành thực nghiệm:
3.1 Địa điểm: 
Thực nghiệm được tiến hành tại hành 
lang nối từ phòng phân liều tới khu điều trị 
cách ly, Khoa Y học hạt nhân, Bệnh viện 
quân y 175.
3.2. Phương tiện nghiên cứu:
- Máy đo suất liều Inspector độ chính 
xác 98%;
- Tấm chắn kim loại pha chì cao 2m, 
dày 1cm, có cửa sổ nhỏ ở vị trí 1,5m;
- Liều kế cá nhân, áo chì, yếm chì, 
khẩu trang và gang tay.
3.3. Bố trí thực nghiệm:
Trước khi tiến hành đo suất liều, các 
bệnh nhân cần phải tắm rửa và đi tiểu. 
Bệnh nhân đứng ở vị trí cách tấm chì 1m, 
đứng thẳng, hướng về phía tấm chì sao cho 
vị trí tuyến giáp ngang tầm với của sổ nhỏ 
trên tấm chì.
Nhân viên đo suất liều đừng sau tấm 
chì, đặt máy đo tại vị trí cửa sổ nhỏ, hướng 
trường thu tín hiều về phía bệnh nhân.
3.4. Tiến hành đo: 
Thực hiện phép đo ngay sau khi bệnh 
nhân uống I-131 (thời điểm 0 giờ)
- Đo phông;
- Đo suất liều bệnh nhân 
Mỗi phép đo lặp lại 3 lần, ghi lại số 
liệu và tính trung bình cho mỗi lần đo. 
Cứ sau mỗi 24 giờ, bệnh nhân lại 
được đo suất liều như lần trước cho đến 
khi bệnh nhân ra viện.
3.5. Xử lý số liệu: bằng phần mềm SPSS.
3.6 Tính suất liều lý thuyết
Suất liều tại thời điểm 0 giờ [2]:
Với: 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016
15
Suất liều P2, P3, P4 tại thời điểm sau mỗi 24 giờ được tính theo công thức bán thực 
nghiệm dưới đây:
Trong đó: P
i
 là suất liều của bệnh 
nhân sau mỗi 24 giờ, T
c
 là chu kì bán rã vật 
lý, T
1/2
 = 8,06 ngày [3]. Theo kinh nghiệm 
của các cơ sở điều trị, cứ sau 24 giờ, liều 
phóng xạ còn lại trong cơ thể là 30%, 
khoảng 70% phóng xạ được đào thải qua 
đường tiểu tiện.
3.7 Cơ sở xác định thời gian cách ly
Căn cứ Thông tư số 13/2014/TTLT-
BKHCN-BYT: bệnh nhân được phép ra 
viện khi hoạt độ bức xạ trong người không 
vượt quá 400 MBq. Suất liều chiếu của 
liều 400MBq tại vị trí 1m là 30,58 μSv/h. 
Như vậy, nếu suất liều chiếu của bệnh nhân 
thấp hơn 30,58 μSv/h thì bệnh nhân được 
phép xuất viện.
KẾT QUẢ
Trong tổng số n = 122 bệnh nhân được 
nghiên cứu, từ 20 đến 79 tuổi:
Bảng 1: Tuổi
Tuổi Số lượng (n) Tỉ lệ (%)
20 - 29 16 13
30 - 39 41 33,6
40 - 49 35 28,7
50 - 59 24 19,7
60 - 79 27 22
Bệnh nhân tập trung ở lứa tuổi 30 – 59 là cao nhất chiếm 82%
Bảng 2: Giới
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016
16
Giới Số lượng (n) Tỉ lệ %
Nam 17 13,9
Nữ 105 86,1
Tỉ lệ nam:nữ là 6:1
Bảng 3: Liều đi ều trị
Liều điểu trị (mCi) Số lượng (n) Tỉ lệ (%)
150 15 12,3
100 34 27,8
50 24 20
30 49 40
Liều điều trị tập trung chủ yếu ở mức liều 30 mCi và 100 mCi chiếm 67,8 %
Kết quả suất liều 
Bảng 4: Suất liều của nhóm liều 150 mCi (n =11) 
Kết quả 
Suất liều chiếu (μSv/h) 
0 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ 96 giờ
Lý thuyết 432,69±4,09 112,81±4,07 33,65±1,07 7,87±0,28 2,08±0,07
Thực 
nghiệm
445,87 ± 
94,93
63,19 ± 
14,28
14,58 ± 2,89 4,55 ± 1,21 1,83 ± 0,56
P 0,532 0,00 0,00 0,00 0.51
Nhận xét: Có sự khác biệt giữa tính lý thuyết và kết quả thực nghiệm tại các thời 
điểm khác nhau. Tại thời điểm 0 giờ và 96 giờ, thực nghiệm phù hợp với lý thuyết (P > 
0.05)
Bảng 5: Suất liều của nhóm liều 100 mCi (n=30)
Kết quả 
Suất liều chiếu (μSv/h) 
0 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ 96 giờ
Lý thuyết 282,3±13,40 74,81±3,53 19,52±0.92 5,13±0,24 1,34±0,06
Thực nghiệm
302,16 
±50,87
41,08 ± 9,25 9,36 ± 3,44 2,78 ± 1,22 1,24 ± 0,56
P 0,168 0,00 0,00 0,00 0,536
Nhận xét: Tại thời điểm 0 giờ, thực nghiệm phù hợp với lý thuyết (P > 0.05). Khoảng 
thời gian giữa 24 giờ đến 72 giờ, tốc độ đào thải giữa lý thuyết và thực nghiệm là khác biệt.
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016
17
Bảng 6: Suất liều của nhóm liều 50 mCi (n=19)
Kết quả Suất liều chiếu (μSv/h) 
0 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ
Lý thuyết 142,34±8,34 37,70±2.50 10,23±0,65 2,65±0,17
Thực nghiệm 159,87 ±27,71 20,05 ± 3,8 5,33 ± 1,49 1,69±0,59
P 0,029 0,00 0,00 0,00
Nhận xét: Thực nghiệm và lý thuyết không tương đồng nhau, tốc độ đào thải thực 
nghiệm nhanh hơn lý thuyết.
Bảng 7: Suất liều của nhóm liều 30 mCi (n = 43)
Kết quả 
Suất liều chiếu (μSv/h) 
0 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ
Lý thuyết 83,88±7,97 23,16±2,39 5,81±0,61 1,54±0,16
Thực nghiệm 95,76 ±15,29 13,13±2,91 3,6 ± 1,18 1,36±0,61
P 0,00 0,00 0,00 0,050
Nhận xét: Thực nghiệm và lý thuyết không tương đồng nhau, tốc độ đào thải thực 
nghiệm nhanh đạt tới giá trị ngưỡng hơn.
Bảng 8: Một số trường hợp đặc biệt
Liều 
(mCi)
Nhóm
Suất liều chiếu (μSv/h) 
0 giờ 24 giờ 48 giờ 72 giờ 96 giờ
150 
(n=4)
Chậm (n=1) 435,34 98,70 59,44 34,63 22,77
Nhanh 430,41±5,23 38,2±3,67 5,07±2,80 0,9±0.12 0,58±0,18
100 
(n=4)
Chậm (n=1) 298,8 66,1 38,89 16,08 9,94
Nhanh 263,22±17,71
22,05 ± 
3,8
3,2 ±0,86 0,91±0,19 0,4±0,03
50 
(n=5)
Chậm (n=2) 171±0,9 50,2±1,4 32,66±8,8 15,6±2,43
Nhanh 150,9±10,6 11,34± 5,3 2,0±0,92 0,6±0,47
30 
(n=6)
Chậm (n=3) 87,44±6,3 35,5±5,78 13,2±3,8 8,0±2,15
Nhanh 75,7± 5,8 14,6±2,57 2,8±1,3 0,8±0,32
Nhận xét: trong các nhóm liều điều trị, có trường hợp suất liều giảm theo thời gian 
rất nhanh nhưng cũng có nhiều trường hợp suất liều giảm chậm. 
BÀN LUẬN
1. Đặc điểm bệnh nhân
Thu thập số liệu, chúng tôi nhận thấy 
rằng, nhóm bệnh nhân mắc bệnh ung thư 
tuyến giáp có chỉ định điều trị bằng đồng 
vị phóng xạ I-131 tập trung chủ yếu vào 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016
18
giới nữ (86,1%). Độ tuổi mắc bệnh từ 20 – 
79, tuổi trưởng thành 30-50 chiếm 62,3%, 
đây là độ tuổi lao động và ở độ tuổi này, 
các cơ quan trong cơ thể đang hoạt động 
trong giai đoạn tốt, kể cả các cơ quan bài 
tiết. Bên cạnh đó, sau khi thăm khám bệnh 
nhân, các bệnh nhân thực hiện nghiêm các 
quy định trong điều trị, 100% bệnh nhân 
thực hiện việc tắm rửa, đi vệ sinh trước giờ 
đo suất liều. 
Thông thường, liều phóng xạ được coi 
là liều điêu trị gồm các nhóm liều: 30, 50, 
100 và 150 mCi, 200mCi. Trong 122 bệnh 
nhân được theo dõi, liều điều trị tập trung 
ở 4 nhóm liều với giá trị liều trung bình 
lần lượt là: 29,71±2,18 mCi, 50,31±2,15 
mCi, 99,78±4,02 mCi, 149,39±3,55 mCi. 
Khả năng đào thải phóng xạ nhanh hay 
chậm cũng tùy thuộc vào mỗi nhóm liều. 
Bên cạnh đó, khả năng đào thải phóng xạ 
còn phụ thuộc vào các yếu tố như: lượng tế 
bào mô giáp, chức năng cơ quan thận, tiền 
sử bệnh đường ruột, TSH, TG và anti TG. 
Trong khuôn khổ của đề tài, chúng 
tôi chưa thống kê được thứ tự lần điều trị 
bằng I-131, chúng tôi chắc chắn rằng, trên 
cùng một bệnh nhân đã điều trị nhiều lần, 
khả năng đào thải phóng xạ của lần sau 
chắc chắn tốt hơn lần trước do lượng tế 
bào tuyến giáp đã bị diệt trong lần điều 
trị trước đó (với các điều kiện tương tự 
nhau trong mỗi lần điều trị). Đề tài chưa 
phản ảnh được mối liên quan giữa các 
chỉ số như: chức năng thận, các thông số 
TSH, TG và anti TG với khả năng đào thải 
phóng xạ.
2. Kết quả suất liều chiếu
Trên cả 4 nhóm liều điều trị, tại thời 
điểm ngay sau khi bệnh nhân uống I-131 – 
thời điểm 0 giờ, giá trị lý thuyết tính được 
thấp hơn thực nghiệm đo đạc, có thể nói 
là giá trị lý thuyết nằm ở ngưỡng dưới của 
thực nghiệm. Nguyên nhân dẫn đến sự 
chênh lệch này là do sự phân bố phóng xạ 
I-131 khi đi vào cơ thể. Bệnh nhân sử dụng 
I-131 dưới dạng lỏng, do đó lượng thuốc 
này tập trung nhiều từ khoang miệng tới dạ 
dày. Bệnh nhân trở thành nguồn phóng xạ 
hở (không phải nguồn điểm) phát bức xạ 
tới thiết bị đo. Tuy nhiên, các bức xạ này 
gây ra nhiều tán xạ, do đó, suất liều ghi 
nhận được là bao gồm của các bức xạ trực 
tiếp và các tán xạ gây ra. Vì vậy, suất liều 
đo được cao hơn suất liều tính theo công 
thức (1).
Theo kinh nghiệm của các nhà điều trị 
trước đây, cứ sau 24 giờ tính từ khi uống 
thuốc, khoảng 70 % lượng thuốc phóng xạ 
được đào thải ra khỏi cơ thể bệnh nhân qua 
hệ thống bài tiết. Thực nghiệm cho thấy 
lượng phóng xạ của bệnh nhân đào thải 
trong 1 ngày lớn hơn con số 70% mà kinh 
nghiệm đưa ra. Kinh nghiệm là suất phát 
từ quá trình điều trị trước đây truyền lại, 
vì vậy, kết quả kinh nghiệm này mang tính 
ước lượng và được các nhà điều trị lâm 
sàn sử dụng làm căn cứ quy định thời gian 
điều trị cách ly cho bệnh nhân khi điều trị 
bằng I-131. 
Chấp hành theo thông tư số 13/2014/
TTLT-BKHCN-BYT, suất liều chiếu của 
nguồn I-ốt 131 có hoạt độ 400 MBq tại vị 
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016
19
trí cách nguồn 100 cm là 30,58 μSv/h – đây 
là giá trị giới hạn, kết quả thực nghiệm chỉ 
ra rằng: từng nhóm liều khác nhau sẽ đưa 
ra thời gian cách ly khác nhau, dẫn đến thời 
điểm được phép ra viện cũng khác nhau. 
Bệnh nhân uống liều 30 mCi và 50 mCi thì 
được phép suất viện sau 24 giờ, bệnh nhân 
uống liều 100 mCi và 150m Ci thì được 
phép suất viện sau 48 giờ. Như vậy, có sự 
khác biệt giữa kinh nghiệm trước đây và 
kết quả đo thực tế. Đặc biệt là nhóm liều 
cao 100 mCi và 150 mCi, thực tế cho thấy, 
sau 48 giờ, bác sĩ điều trị có thể xem xét 
và quyết định cho bệnh nhân ra viện để có 
khu vực cách ly cho các nhận bệnh nhân 
khác, giải quyết được vấn đề nan giải hiện 
nay (bệnh nhân ngày càng đông, khu vực 
lưu trú cách ly hạn chế) mà vẫn đảm bảo 
quy định ATBX.
Sau khi được xuất viện, bệnh nhân 
vẫn phải thực hiện cách ly tại nhà cho tới 
khi suất liều trong cơ thể bằng với phông 
môi trường là 0,48 μSv/h.
3. Một số trường hợp đặc biệt
Thực nghiệm cũng cho thấy rằng: 
không phải tất cả bệnh nhân đều đào thải 
như nhau. Trong quá trình nghiên cứu đã 
chỉ ra một số trường hợp không phổ biến:
* Một số bệnh nhân đào thải tốt: 
Bệnh nhân dùng liều 150 mCi, 48 giờ 
(2 ngày) kể từ khi uống thuốc, kết quả suất 
liều còn lại từ 3 đến 4 μSv/h. Bệnh nhân 
dùng liều 100 mCi, 50 mCi, 30mCi, sau 
24 giờ, bệnh nhân có thể ra viện với lượng 
phóng xạ còn lại trong người rất thấp, ít 
gây ảnh hưởng đến cộng đồng. Một đặc 
điểm nổi bật là những bệnh nhân này đều 
là phụ nữ và có độ tuổi từ 30 đến 50 tuổi, 
khả năng vận động tốt. 
* Một số đào thải chậm:
Số lượng bệnh nhân đào thải chậm 
chiếm 6,5% tổng số bệnh nhân. Khả năng 
đào thải của họ đều chậm hơn so với 84,5% 
bệnh nhân là một ngày. Khảo sát cho thấy 
nhóm bệnh nhân này gồm chủ yếu những 
người tuổi cao và không đi lại được, một 
số có di căn hạch. Số bệnh nhân này đều 
mắc một trong số các nguyên nhân sau: 
tiểu tiện và đại tiện kém, vận động kém. 
KẾT LUẬN
 Nghiên cứu của chúng tôi tiến hành 
từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2016 cho 
thấy, 93,5 % bệnh nhân điều trị bằng dược 
chất phóng xạ I-131 có thể xuất viện mà 
vẫn đảm bảo đúng quy định về an toàn bức 
xạ sau thời gian điều trị cách ly như sau:
TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 7 - 9/2016
20
Liều điều trị
Thời gian điều trị cách ly tại cơ sở 
điều trị (giờ)
150 mCi 48
100 mCi 48
50 mCi 24
30 mCi 24
KIẾN NGHỊ
Như vậy: đối với nhóm liều 30 mCi 
và 50mCi, bệnh nhân có thể ra viện cách 
ngày uống thuốc 1 ngày; nhóm bệnh nhân 
điều trị liều 100 mCi và 150 mCi điều trị 
cách ly đến ngày thứ 4 có thể về nhà.
Các trường hợp đặc biệt: bệnh nhân 
cao tuổi, không đi lại được, có di căn xa và 
tiền sử bệnh về bài tiết, cần được theo dõi 
kỹ hơn và đảm bảo thời gian cách ly phù 
hợp. Những bệnh nhân này thường ra viện 
trễ hơn khoảng 1 đến 2 ngày so với những 
bệnh nhân thông thường.
Trên kết quả nghiên cứu, cơ sở điều 
trị có thể lên kế hoạch tiếp nhận các bệnh 
nhân điều trị tiếp theo.
Tại Bệnh viện quân y 175, để đảm bảo 
an toàn bức xạ môi trường và cộng đồng, 
bệnh viện luôn thực hiện theo quy tắc 
ALARA, cụ thể:
Đối với liều cao: 100 mCi, 150 mCi, 
sau một tuần bệnh nhân được xuất viện.
Đối với liều thấp: 30 mCi, 50 mCi, 
bệnh nhân được xuất viện sau 4 ngày.
Khi xuất viện, suất liều ra viện của 
bệnh nhân tại khoảng cách 2 m luôn nhỏ 
hơn hoặc bằng 0,5 μSv/h. Điều này hoàn 
toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi. Hầu hết, bệnh nhân xuất viện 
đều có xuất liều nhỏ, khi đo ở vị trí 2m – 
cách bệnh nhân, suất liều có thể đạt dưới 
ngưỡng phông môi trường .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Khoa học Công nghệ và Bộ Y tế 
(2014), Thông tư liên tịch Quy định về bảo 
đảm an toàn bức xạ trong y tế số 13/2014/
TTLT-BKHCN-BYT, Hà Nội.
2. Châu Văn Tạo (2004), An toàn bức 
xạ ion hoá, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia 
Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ 
Chí Minh.
3. The American Thyroid Association 
Taskforce on Radioiodine Safety, Radiation 
Safety in the Treatment of Patients 
with Thyroid Diseases by Radioiodine 
131I: Practice Recommendations of 
the American Thyroid Association, 
THYROID Volume 21, Number 4, 2011

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_su_dao_thai_sinh_hoc_cua_benh_nhan_ung_thu_tuyen_gi.pdf