Hiệu quả tín dụng chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số qua các chương trình của Ngân hàng Chính sách xã hội
Với mục tiêu tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn, từng bước
cải thiện và nâng cao điều kiện sống cho hộ dân tộc thiểu số nghèo,
giảm dần chênh lệch trong phát triển giữa vùng dân tộc thiểu số và
miền núi với các vùng khác trong cả nước, Chính phủ Việt Nam đã
có những chính sách tín dụng ưu đãi đối với đồng bào dân tộc thiểu
số (DTTS), được thực hiện thông qua các chương trình tín dụng của
Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH). Bằng dữ liệu thứ cấp và
sơ cấp thu được qua khảo sát các hộ đồng bào DTTS và cán bộ tín
dụng tại các tỉnh Yên Bái, Lâm Đồng, Trà Vinh và Hà Giang, bài viết
đánh giá hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách cho đồng
bào DTTS ở Việt Nam và đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả tín dụng cho đồng bào DTTS tại NHCSXH trong tương lai.
Từ khóa: tín dụng chính sách, đồng bào DTTS, NHCSXH
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả tín dụng chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số qua các chương trình của Ngân hàng Chính sách xã hội
27 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+ 201- Tháng 1&2. 2019 Hiệu quả tín dụng chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số qua các chương trình của Ngân hàng Chính sách xã hội CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ Đỗ Thị Kim Hảo Chu Khánh Lân Trần Huy Tùng Ngày nhận: 15/01/2019 Ngày nhận bản sửa: 22/01/2019 Ngày duyệt đăng: 29/01/2019 Với mục tiêu tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn, từng bước cải thiện và nâng cao điều kiện sống cho hộ dân tộc thiểu số nghèo, giảm dần chênh lệch trong phát triển giữa vùng dân tộc thiểu số và miền núi với các vùng khác trong cả nước, Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách tín dụng ưu đãi đối với đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), được thực hiện thông qua các chương trình tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH). Bằng dữ liệu thứ cấp và sơ cấp thu được qua khảo sát các hộ đồng bào DTTS và cán bộ tín dụng tại các tỉnh Yên Bái, Lâm Đồng, Trà Vinh và Hà Giang, bài viết đánh giá hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách cho đồng bào DTTS ở Việt Nam và đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng cho đồng bào DTTS tại NHCSXH trong tương lai. Từ khóa: tín dụng chính sách, đồng bào DTTS, NHCSXH 1. Tín dụng chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số ới mục tiêu tập trung giải quyết những vấn đề khó khăn, bức xúc nhất về đời sống, sản xuất; từng bước cải thiện và nâng cao điều kiện sống cho hộ DTTS nghèo; góp phần giảm nghèo bền vững, giảm dần chênh lệch trong phát triển giữa vùng DTTS và miền núi với các vùng khác trong cả nước, Chính phủ đã có những chính sách tín dụng ưu đãi đối với đồng bào DTTS. Tính đến hết 30/6/2018, trong số hơn 33 chương trình, dự án tín dụng đang triển khai tại NHCSXH, có 3 chương trình tập trung dành riêng cho hộ DTTS và 2 chương trình cho cả hộ DTTS và các đối tượng khác. Mặc dù rủi ro tín dụng lớn hơn so với các hộ gia đình sinh sống ở khu vực đồng bằng , Chính phủ Việt Nam vẫn dành sự ưu đãi tín dụng cho hộ nghèo DTTS. Theo đó, mức cho vay tối đa bình quân đối CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019 Bảng 1. Chương trình tín dụng cho hộ DTTS tại NHCSXH TT Chương trình Căn cứ pháp lý Đối tượng Mức cho vay tối đa Kỳ hạn tối đa Lãi suất 1 Cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ DTTS đặc biệt khó khăn Quyết định số 54/2012/QĐ-TTg (thay thế Quyết định 32/2007/QĐ-TTg) Hộ DTTS đặc biệt khó khăn hoặc sống tại vùng khó khăn 8 triệu đồng/hộ (cao hơn mức cũ: 5 triệu đồng/hộ) 5 năm 1,2%/ năm 2 Cho vay hỗ trợ giải quyết đất ở, giải quyết việc làm cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn Đồng bằng sông Cửu Long Quyết định số 29/2013/QĐ-TTg (thay thế Quyết định 74/2008/QĐ-TTg) Hộ DTTS nghèo, đời sống khó khăn vùng Đồng bằng sông Cửu Long Học nghề: 1,5 triệu đồng/tháng 7,2%/ năm Xuất khẩu lao động: tối đa bằng chi phí người vay phải đóng góp theo từng thị trường 3,6%/ năm Phát triển sản xuất kinh doanh: 8 triệu đồng/hộ 5 năm 1,2%/ năm 3 Cho vay hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào DTTS nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn Quyết định số 1592/2009/QĐ-TTg, Quyết định 755/2013/ QĐ-TTg Hộ DTTS nghèo Tạo đất sản xuất và chuyển đổi nghề: 15 triệu đồng/hộ 1,2%/ năm Xuất khẩu lao động: tối đa bằng chi phí người vay phải đóng góp theo từng thị trường 3,6%/ năm 4 Cho vay bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào DTTS giai đoạn 2015-2020 Nghị định 75/2015/ NĐ-CP Hộ DTTS; Hộ người Kinh nghèo sinh sống tại các xã điều kiện kinh tế khó khăn (khu vực II, III) thuộc vùng dân tộc và miền núi Trồng rừng: 15 triệu đồng/ha 20 năm 1,2%/ năm Phát triển chăn nuôi: 50 triệu đồng/hộ 10 năm 5 Cho vay theo chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2017-2020 Quyết định 2085/2016/QĐ-TTg Hộ DTTS nghèo; Hộ nghèo ở xã khu vực III, thôn, bản đặc biệt khó khăn 50 triệu đồng/hộ 10 năm 50% lãi suất cho vay hộ nghèo Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 29Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019 với đối tượng này tăng dần và hiện nay bằng với mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo là 50 triệu đồng/hộ. Kỳ hạn cho vay tối đa lên thành 10 năm, riêng đối với cho vay trồng rừng có thể lên tới 20 năm. Lãi suất cho vay bình quân cho hộ nghèo vùng DTTS chỉ bằng khoảng 20% lãi suất cho vay hộ nghèo vùng đồng bằng. Tính tới 30/6/2018, 3 chương trình tín dụng dành riêng cho hộ DTTS có doanh số cho vay đạt 2.913 tỷ đồng, doanh Bảng 2. Kết quả các chương trình cho vay có hộ dân tộc thiểu số tại Ngân hàng Chính sách xã hội, 30/6/2018 Đơn vị: tỷ đồng, hộ Chương trình Thời gian thực hiện Doanh số tích lũy từ 01/01/2003 Tổng Dư nợ Số lượt hộ vay vốn Nợ Cho vay Thu nợ Xóa nợ Quá hạn Khoanh Cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ DTTS đặc biệt khó khăn 2008 – 2012 2013 – 2016 1.419 642 7,3 770 225.221 5,3 2,6 Cho vay hỗ trợ giải quyết đất ở, giải quyết việc làm cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đặc biệt khó khăn tại Đồng Bằng Sông Cửu Long 2009 – 2013 2014 – 2016 655 275 35 344 66.884 73 79 Cho vay hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào DTTS nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn 2010 – 2012 2014 – 2016 839 88 0,405 749 56.737 0,041 0,822 Tổng các chương trình dành riêng cho hộ DTTS 2.913 1.005 42,705 1.863 348.842 78,341 82,422 Cho vay theo Nghị định số 75/2015/NĐ-CP (*) 2015 - 2020 176 4 0 172 4.082 0 0 Cho vay theo Quyết định số 2085/2016/QĐ-TTg (*) 2017 – 2020 177 1 0 176 4.425 0 0 Tổng các chương trình dành cho hộ DTTS và các đối tượng khác 3.266 1.010 42,705 2.211 357.349 78.341 82.442 Nguồn: NHCSXH, 2018 (*) Số liệu bao gồm cả hộ DTTS và các đối tượng khác trong chương trình được thể hiện trong Hình 1 và Hình 2. Theo đó, tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân đạt khoảng 32% trong giai đoạn 2008- 2017. Năm 2012 và 2013 là các năm ban hành các Quyết định thay thế, chuyển tiếp các chương trình cũ được thực hiện từ năm 2008 nên tăng trưởng dư nợ và doanh số cho vay giảm trong thời gian này. Về chất lượng dư nợ, tỷ lệ nợ trong hạn giảm xuống từ năm 2014, giảm từ mức 98% số thu nợ đạt 1.005 tỷ đồng; doanh số xóa nợ khoảng 42,7 tỷ đồng , chiếm 2,29% tổng dư nợ; số lượt hộ được tiếp cận vốn vay lên tới 348.842 hộ (NHCSXH, 2018). Nếu tính cả số liệu cho vay hộ DTTS từ 2 chương trình mới là cho vay theo Quyết định số 2085/NĐ-TTg và Nghị định số 75/2015/NĐ-CP thì doanh số cho vay và số hộ được tiếp cận vốn vay còn cao hơn nữa. Theo thời gian, kết quả cho vay các chương trình tín dụng CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 30 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019 Hình 1. Dư nợ và tỷ lệ nợ trong hạn của các chương trình tín dụng chính sách (*) cho hộ DTTS, 2008- 2017 Hình 2. Doanh số cho vay, Doanh số thu nợ và Khách hàng còn dư nợ hàng năm của các chương trình tín dụng chính sách (*) cho hộ DTTS, 2008- 2017 Nguồn: NHCSXH, 2018 (*): Không bao gồm chương trình cho vay theo Nghị định 75/2015 và Quyết định 2085/2016 xuống 91% trong năm 2017. Việc suy giảm chất lượng tín dụng đến chủ yếu từ chương trình cho vay hỗ trợ giải quyết đất ở, giải quyết việc làm cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đặc biệt khó khăn tại Đồng bằng sông Cửu Long. Theo đó, Chương trình này tính tới 30/6/2018, tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khoanh chiếm tỷ lệ cao so với tổng dư nợ, xấp xỉ 21%. Nếu phân theo đối tượng dân tộc thụ hưởng, các DTTS thụ hưởng được nhiều tín dụng của NHCSXH xét theo tiêu chí doanh số cho vay, tổng dư nợ và số hộ có dư nợ, theo thứ tự gồm có: Tày, Thái, Mường. Về chất lượng dư nợ, nếu như năm 2014 dân tộc Hmông dẫn đầu về tỷ lệ nợ quá hạn so với dư nợ (khoảng 0,11%, chiếm 18,8% dư nợ quá hạn của toàn bộ các DTTS) thì năm 2017 vị trí này thuộc về dân tộc Khơ-me với con số khoảng 4,7% (chiếm đến 67,5% trong tổng số dư nợ quá hạn của tất cả các DTTS). Chất lượng dư nợ của dân tộc Hmông được cải thiện nhờ nỗ lực của NHCSXH trong công tác thu hồi nợ thông qua tích cực phối hợp với chính quyền xã và các tổ chức chính trị xã hội. Hơn nữa, bản thân người Hmông có thiện chí trả nợ tốt, cộng thêm việc họ có thể sang Trung Quốc để kiếm việc làm thêm và sử dụng làm nguồn trả nợ vay ngân hàng. Ngược lại, dân tộc Khơ-me sinh sống ở khu vực giáp biên giới Campuchia, điều kiện vượt biên làm ăn khó khăn hơn so với dân tộc Hmông sinh sống ở khu vực biên giới với Trung Quốc. Chất lượng dư nợ của các DTTS ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng cho đồng bào DTTS tại các địa phương nơi chủ yếu có dân tộc đó sinh sống. Nếu như năm 2014, dư nợ quá hạn tại Hà Giang cao nhất thì tới năm 2017 vị trí này thuộc về lần lượt Sóc Trăng, An Giang (nơi có nhiều đồng bào dân tộc Khơ- me). Xét về quy mô tín dụng và khách hàng thụ hưởng tín dụng, các tỉnh phía bắc được tiếp cận với nhiều tín dụng chính sách của NHCSXH hơn. 2. Hiệu quả của tín dụng chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số 2.1. Phân tích từ dữ liệu thứ cấp Các chương trình cho vay đối với hộ đồng bào DTTS đã đạt được hiệu quả thiết thực, thể hiện rõ nhất là tỷ lệ hộ nghèo vùng DTTS tiếp tục giảm mạnh và số hộ thoát nghèo tăng lên. Theo Ngân hàng Thế giới (WB, 2018), tỷ lệ nghèo của Việt Nam tiếp tục giảm, đặc biệt tỷ lệ nghèo của DTTS giảm mạnh còn 13% từ mức 23% năm 2017. Tỷ lệ hộ nghèo vùng DTTS và miền núi trung bình mỗi CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 31Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019 Bảng 3. Cơ cấu theo dân tộc về doanh số cho vay, tổng dư nợ, dư nợ quá hạn và số hộ dư nợ tại Ngân hàng Chính sách xã hội Đơn vị tính: % TT Dân tộc 2014 2017 Doanh số cho vay Dư nợ Dư nợ quá hạn Số hộ dư nợ Doanh số cho vay Dư nợ Dư nợ quá hạn Số hộ dư nợ 1 Cơ-ho 1,2 1,2 0,0 1,3 1,2 1,2 0,2 1,3 2 Khơ-me 5,8 5,7 9,6 9,3 4,7 6,2 67,5 10,3 3 Chăm 0,9 0,9 1,3 1,2 1,4 1,3 1,4 1,5 4 Ê-đê 1,6 1,6 0,4 1,9 2,0 2,0 0,4 2,4 5 Sán Dìu 0,9 0,9 0,0 0,9 0,9 0,9 0,3 0,8 6 Ra-glai 1,1 1,0 0,0 1,3 1,1 1,1 0,2 1,3 7 Gia-rai 4,1 3,9 2,2 4,2 3,9 3,3 0,3 3,5 8 Tày 23,3 23,7 25,3 21,4 20,3 20,8 7,8 17,6 9 Ba-na 1,8 1,7 0,2 1,9 2,0 1,7 0,3 1,9 10 Mnông 1,0 1,0 0,0 1,1 1,4 1,3 0,3 1,3 11 Sán Chay 1,0 1,0 0,0 1,0 1,0 1,0 0,8 1,0 12 Bru-Vân Kiều 0,9 0,8 0,0 0,8 0,8 0,9 0,3 0,9 13 Hmông 6,3 6,3 18,8 5,9 7,6 7,6 4,4 7,6 14 Dao 6,4 6,3 4,7 5,5 6,9 6,5 1,6 5,6 15 Hrê 1,3 1,2 1,1 1,1 1,1 1,4 0,2 1,3 16 Mường 9,9 10,2 8,3 10,8 10,1 10,0 2,1 10,1 17 Nùng 7,9 7,7 5,2 6,7 6,9 6,6 1,4 5,8 18 Hoa 0,9 0,9 1,5 1,0 NA NA NA NA 19 Xơ-đăng 1,5 1,5 0,6 1,4 1,9 1,8 1,6 1,8 20 Thái 15,6 16,0 11,9 14,8 17,4 16,9 4,5 15,8 21 Dân tộc khác 6,3 6,2 8,9 6,5 6,3 6,6 4,4 7,2 Nguồn: NHCSXH, 2018 Bảng 4. Xếp hạng các tỉnh theo doanh số cho vay, dư nợ, dư nợ quá hạn và số hộ dư nợ cho hộ dân tộc thiểu số tại Ngân hàng Chính sách xã hội Xếp hạng Năm 2014 Năm 2017 Doanh số cho vay Dư nợ Dư nợ quá hạn Số hộ dư nợ Doanh số cho vay Dư nợ Dư nợ quá hạn Số hộ dư nợ 1 Lạng Sơn Lạng Sơn Hà Giang Sơn La Sơn La Sơn La Sóc Trăng Sơn La 2 Sơn La Sơn La Thanh Hóa Lạng Sơn Hòa Bình Lạng Sơn An Giang Hòa Bình 3 Cao Bằng Cao Bằng Bắc Kạn Hòa Bình Hà Giang Hòa Bình Nghệ An Hà Giang Nguồn: Tổng hợp dữ liệu từ NHCSXH, 2018 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 32 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019 năm giảm 3- 4%, nhanh hơn tỷ lệ giảm nghèo chung của cả nước. Trong khi đó, số hộ thoát nghèo của vùng DTTS trong cả nước tăng liên tiếp trong những năm gần đây. Nếu như năm 2015, tổng số hộ thoát nghèo của DTTS vào khoảng trên 15.000 hộ thì tính đến tháng 5/2017, số hộ DTTS thoát nghèo lên tới trên 61.000 Hình 3. Số hộ và tỷ trọng dân tộc thiểu số thoát nghèo của các vùng Nguồn: NHCSXH, 2017. Bảng 5. Số phiếu thu thập đối với hộ gia đình được phân bố theo từng địa phương TT Tỉnh Huyện Số phiếu hộ gia đình Thời gian khảo sát 1 Yên Bái Lục Yên 19 13/06/2018 Yên Bình 20 14/06/2018 Trấn Yên 20 15/06/2018 Tổng 59 2 Trà Vinh 8 11 – 18/06/2018 3 Lâm Đồng Bảo Lâm 3 11/06/2018 – 18/06/2018 Đơn Dương 3 Di Linh 3 Đam Rông 4 Tổng 13 Tổng các tỉnh 80 Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả hộ. Vùng Tây Nam Bộ có tỷ lệ hộ thoát nghèo tăng nhanh nhất trong cả nước. Trong 6 năm từ 2010- 2016, đã có 1,8 triệu người DTTS ở Việt Nam thoát nghèo, khiến số người DTTS nghèo giảm từ 8,4 triệu năm 2010 xuống còn 6,6 triệu người trong năm 2016 (WB, 2018). Đây là mức giảm lớn nhất trong thập niên vừa qua, góp phần gia tăng cơ hội nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển kinh tế hộ DTTS và giảm bất bình đẳng kéo dài cho những đối tượng này. 2.2. Phân tích từ dữ liệu sơ cấp Nhằm đánh giá tác động của tín dụng chính sách tới các hộ CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 33Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019 Hình 4. Kết quả khảo sát đánh giá của hộ về tác động của tín dụng tới tình hình tài chính, điều kiện sống, đời sống văn hóa tinh thần của hộ Nguồn: Kết quả khảo sát hộ gia đình, 2018 Hình 5. Kết quả khảo sát những khó khăn các hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số thường gặp phải trong quá trình sử dụng vốn vay Nguồn: Kết quả khảo sát hộ gia đình, 2018 gia đình đồng bào DTTS qua các chương trình triển khai tại NHCSXH, nhóm tác giả thực hiện điều tra khảo sát thông qua bảng hỏi đối với các hộ gia đình DTTS đang tham gia vay vốn tại NHCSXH tại 3 tỉnh Yên Bái, Lâm Đồng và Trà Vinh. Ngoại trừ Yên Bái là tỉnh mà nhóm tác giả trực tiếp thực hiện phỏng vấn qua bảng hỏi đối với các hộ gia đình, tại tỉnh Lâm Đồng và Trà Vinh, bảng hỏi được gửi tới NHCSXH, tiếp đó cán bộ tín dụng của NHCSXH huyện xuống địa bàn phỏng vấn trực tiếp hộ gia đình tại nhà hoặc tại buổi phát vốn và gửi lại nhóm tác giả theo đường bưu điện. Kết quả, tổng số phiếu thu được là 80, phân bố theo từng tỉnh Yên Bái, Trà Vinh và Lâm Đồng lần lượt là 59, 8 và 13. Để có thêm cơ sở đề xuất các khuyến nghị phù hợp qua đó nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số, nhóm tác giả thực hiện khảo sát cán bộ tín dụng đang công tác tại NHCSXH tại 3 tỉnh Yên Bái, Lâm Đồng và Trà Vinh bằng cách gửi bảng hỏi qua email tới cán bộ tín dụng NHCSXH. Số phiếu khảo sát cán bộ tín dụng thu thập được là 31 và phân bố theo từng địa phương Yên Bái, Lâm Đồng và Trà Vinh lần lượt là 3, 16 và 13. Thời gian gửi phiếu và nhận phiếu ... số 32/2007/QĐ-TTg về Cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ DTTS: Tồn tại một số xã chỉ có 20% số hộ nghèo được vay vốn vì nguồn vốn cho vay khiêm tốn. Tổng mức vay để phát triển sản xuất với lãi suất 0% đối với hộ DTTS đặc biệt khó khăn chỉ là 5 triệu đồng/hộ, không đủ để làm ăn hiệu quả. Thậm chí có xã, mức vay cao nhất chỉ 2 triệu đồng/hộ. Hỗ trợ rủi ro trong sản xuất còn quá thấp, không đủ cho hộ nghèo có thể tái đầu tư. Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg: có xã có tới 70% số hộ nghèo không được tiếp cận nguồn vốn của NHCSXH, điển hình một xã có 668 hộ nghèo nhưng chỉ có 68 hộ nghèo được vay vốn (chiếm 13% số hộ nghèo). Vẫn còn những xã, thôn/ấp có nhiều hộ nghèo chưa tiếp cận được với chính sách xóa đói giảm nghèo- những vùng lõm chính sách. Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg: Chính phủ mới có mục tiêu đầu tư làm đường liên huyện và xã, đường liên thôn chưa có nguồn. Người dân nghèo, xã nghèo không có kinh phí cải tạo đường liên thôn. Định mức nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng trong Chương trình 135 quá ít để thực hiện đầu tư và cải thiện đồng bộ một bước cơ sở hạ tầng của các vùng có tỷ lệ nghèo cao. Giai đoạn 1 đầu tư bình quân 500 triệu đồng/xã, nay nâng lên 700 triệu đồng/ xã. Số vốn này chưa đủ làm đường giao thông, còn thủy lợi, điện, nước; mới chỉ xây được một số phòng học mẫu giáo, còn rất nhiều nhu cầu khác. Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP: Để đầu tư đầy đủ công trình cơ sở hạ tầng, một đề án của huyện cần 3.000 tỷ đồng, trong khi đó năm 2009 Ngân sách Nhà nước đầu tư được 25 tỷ đồng, năm 2010 được 20 tỷ đồng- như vậy nguồn lực Ngân sách Nhà nước chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ của nhu cầu. Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg: Định mức hỗ trợ về nhà ở 5 triệu đồng/hộ, nước sinh hoạt phân tán 300.000 đồng/hộ, hỗ trợ khai hoang đất 5 triệu đồng/ha là thấp so với giá thực tế hiện nay. Kế hoạch xây dựng hồ treo cung cấp nước sinh hoạt tập trung cần 62 hồ, nay còn 16 hồ chưa được xây dựng. Dung tích hồ treo còn nhỏ, chưa đáp ứng nhu cầu. Hỗ trợ xây bể chứa nước 1 triệu đồng/bể là thấp, mới chỉ đủ tiền mua xi măng, dung tích nhỏ, chưa đáp ứng nhu cầu dùng nước trong mùa hạn hán. Mức hỗ trợ kinh phí chỉ 1 triệu đồng cho xây dựng hố xí hợp vệ sinh, trong khi để làm được cần 4-5 triệu đồng. Ngoài ra, còn một loạt các chính sách về ổn định dân cư, giáo dục, đào tạo đều có mức hỗ trợ thấp nên xã nghèo, người nghèo không thể tìm thêm nguồn kinh phí khác. Nguồn: UNDP, 2012 và nhóm chính sách hỗ trợ vốn hướng tới đối tượng thụ hưởng rộng rãi cần nguồn vốn rất lớn. Một số chính sách khi thực hiện không có đủ nguồn lực được minh chứng trong Hộp 2. e. Công tác khuyến nông tại địa phương còn hạn chế CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 38 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019 Kết quả khảo sát 80 hộ gia đình cho thấy trong quá trình vay vốn, tỷ lệ hộ cho biết nhận được sự hỗ trợ từ phía tổ chức chính trị xã hội và tổ tiết kiệm và vay vốn trong những vấn đề như hỗ trợ kỹ thuật, đầu vào và đầu ra cho sản xuất kinh doanh là rất khiêm tốn. Cụ thể, chỉ 16% hộ cho rằng tổ chức chính trị xã hội hỗ trợ họ kỹ thuật sản xuất kinh doanh nhưng lần lượt chỉ 8% và 6% cho rằng tổ chức này hỗ trợ đầu vào và đầu ra cho hoạt động kinh tế của hộ. Tình hình cũng không khả quan đối với Tổ tiết kiệm và vay vốn khi chỉ 6% số hộ được hỏi tổ chức này hỗ trợ họ kỹ thuật sản xuất và 2% hộ khảo sát cho rằng nhận được hỗ trợ đầu vào trong quá trình sản xuất. Khác với mô hình tín dụng cho hộ nghèo ở vùng đồng bằng, mô hình tín dụng cho hộ nghèo ở vùng DTTS rất cần chú trọng công tác khuyến nông ngay tại Tổ tiết kiệm Hình 6. Sự hỗ trợ của tổ chức chính trị xã hộ và tổ tiết kiệm vay vốn trong quá trình sử dụng vốn vay của hộ đồng bào dân tộc thiểu số Nguồn: Kết quả khảo sát hộ gia đình, 2018 và vay vốn. Tuy nhiên, dù Ủy ban Nhân dân xã đã nhận thức được điều này, công tác khuyến nông tại đa số các Tổ tiết kiệm và vay vốn ở vùng DTTS còn khiêm tốn. Tỷ lệ người DTTS hiểu biết về khuyến nông và đang công tác tại cơ quan quản lý nhà nước còn rất thấp (khoảng 10,9% và 11,32%) (UNDP, 2012). Hơn nữa, theo báo cáo của UNDP (2012), trong tổng số 48.200 cán bộ DTTS cấp xã, số người có trình độ học vấn trung học cơ sở chiếm 45,7%, tiểu học là 18,7%, chỉ có 1,9% có trình độ cao đẳng và đại học. Sự thiếu hụt nhân sự là người DTTS có trình độ không những ảnh hưởng đến chất lượng cung cấp dịch vụ công, quá trình truyền tải những yêu cầu, tính đặc thù của đồng bào DTTS vào trong các chương trình, chính sách của Chính phủ mà còn ảnh hưởng không tốt tới việc ứng dụng công nghệ, kỹ thuật, đẩy mạnh khuyến nông đối với hộ DTTS tại địa phương. 4. Khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số Thứ nhất, phát triển sản phẩm dịch vụ tài chính phù hợp với nhu cầu của hộ đồng bào DTTS. Một trong những trở ngại khiến các chương trình tín dụng chính sách chưa phát huy hiệu quả tối đa một phần do các sản phẩm, dịch vụ chưa được thiết kế phù hợp với nhu cầu của khách hàng mà cụ thể ở đây là hộ đồng bào DTTS. Kết quả khảo sát 31 cán bộ tín dụng của NHCSXH khi chấm điểm về sự cần thiết của các giải pháp cần được ngân hàng áp dụng trong thời gian tới cho thấy nhu cầu tăng giá trị khoản vay và phát triển thêm các sản phẩm cho vay mới phù hợp với đặc thù sản xuất CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 39Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019 Hình 7. Sự cần thiết áp dụng các biện pháp từ phía Ngân hàng Chính sách xã hội Nguồn: Kết quả phỏng vấn các cán bộ tín dụng NHCSXH, 2018. Hình 8. Chấm điểm sự cần thiết của các giải pháp hỗ trợ đồng bào DTTS trong quá trình vay vốn Nguồn: Kết quả phỏng vấn các cán bộ tín dụng NHCSXH, 2018. kinh doanh của hộ được coi là 2 biện pháp cần thiết nhất. Để có được sản phẩm dịch vụ tài chính phù hợp với nhu cầu khách hàng, cán bộ NHCSXH trước hết cần tìm hiểu rõ nhu cầu của người dân về quy mô vay vốn tương ứng với phương án sản xuất kinh doanh, về thời hạn, lãi suất vay vốn và về cách thức thu nợ. Theo đó, đối với từng vùng miền khác nhau, các sản phẩm tín dụng cũng cần được thiết kế một cách phù hợp. Công tác thẩm định phương án, dự án theo dòng tiền nên được khuyến khích nhằm xác định nhu cầu của các hộ gia đình khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Cụ thể, sau khi xác định quy mô vốn đầu tư cho phương án, dự án của hộ, cần xác định rõ thời gian để họ thu hồi vốn, số tiền gốc, lãi có thể thu phù hợp với nhu cầu chi tiêu của toàn hộ. Đối với riêng việc xác định phương án, dự án sản xuất kinh doanh của hộ, cán bộ ngân hàng nên tập huấn cho công tác bình xét, góp ý về các phương án, dự án tại tổ tiết kiệm và vay vốn như xác định các nguồn lực phục vụ cho phương án, dự án đó như sức lao động, máy móc, đất đai, thổ nhưỡng Bên cạnh các sản phẩm tín dụng, ngân hàng chính sách nên bổ sung thêm các loại hình sản phẩm tiết kiệm phù hợp hơn với nhu cầu khách hàng nhằm tạo thêm nguồn trả nợ và tăng cường khả năng phòng chống với các rủi ro trong quá trình sử dụng vốn vay. Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đào tạo, phổ biến kiến thức, đặc biệt là hỗ trợ kỹ thuật, đầu vào, đầu ra trong sản xuất kinh doanh cho các hộ gia đình DTTS. Kết quả khảo CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 40 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019 sát 31 cán bộ tín dụng của NHCSXH tại 3 tỉnh Yên Bái, Lâm Đồng và Trà Vinh cho thấy hoạt động hỗ trợ đầu vào, đầu ra, kỹ thuật sản xuất kinh doanh là cần thiết nhất trong bối cảnh hiện nay bên cạnh tuyên truyền phổ biến các chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước. Trong ngắn hạn, các chương trình về giáo dục tài chính, khuyến nông cũng cần được tổ chức với tần suất thường xuyên hơn, thu hút sự tham gia của các tổ chức tư nhân, Hội đoàn thể. Cán bộ tham gia tập huấn phải đảm bảo là người có trình độ, am hiểu địa phương để có những nội dung trao đổi thực tế và hiệu quả. Đối với bản thân NHCSXH, cần đưa vấn đề khuyến nông trở thành trọng tâm khi cấp tín dụng cho đồng bào DTTS. Cụ thể, trong quy trình cho vay cần yêu cầu rõ Tổ trưởng Tổ tiết kiệm và vay vốn phải là người hiểu biết về khuyến nông hoặc đã từng tham gia đào tạo về khuyến nông tại địa phương. Để làm được điều này, NHCSXH nên phối hợp với Ủy ban Dân tộc xây dựng đề án đào tạo cán bộ là người DTTS tham gia các lớp đào tạo bài bản về nông nghiệp trước khi trở về địa phương làm công tác tại xã hoặc các tổ chức đoàn thể. Trong dài hạn, các chương trình hỗ trợ cho giáo dục đối với con em đồng bào DTTS cần được quan tâm hơn nữa. Các hệ thống trường liên cấp cần được đầu tư bài bản và được quy hoạch một cách phù hợp nhằm giảm thiểu khoảng cách di chuyển của các học sinh vùng DTTS. Các trường nên được trang bị điều kiện về vệ sinh, nội trú đảm bảo chất lượng cho việc học tập của các học sinh. Bên cạnh đó, có thêm các hình thức hỗ trợ đặc biệt nhằm khuyến khích con em của vùng DTTS theo học, chẳng hạn bên cạnh việc hỗ trợ chi phí học tập văn phòng như hiện nay có thể hỗ trợ thêm tiền đi lại, ăn uống cho mỗi học sinh. Thứ ba, xây dựng khung chính sách toàn diện, phù hợp và đảm bảo nguồn lực thực hiện hỗ trợ đồng bào DTTS. Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành, cơ quan liên quan như Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Dân tộc, NHCSXH xây dựng khung chính sách toàn diện, bao quát hỗ trợ vùng DTTS nhằm tránh sự chồng chéo về nội dung, đối tượng thụ hưởng và thời gian thực hiện các chương trình. Bổ sung thêm các chính sách hỗ trợ liên quan tới phân vùng đồng bào DTTS tùy vào điều kiện tự nhiên của từng vùng. Đồng thời, xây dựng mô hình tín dụng theo chuỗi giá trị nhằm kết nối sản phẩm đặc thù của vùng DTTS tới thị trường. Nếu làm được mô hình này, công tác khuyến nông cũng sẽ được nâng cao nhờ sự tham gia của các doanh nghiệp phân phối sản phẩm. Do đó, Chính phủ nên có cơ chế, chính sách ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị này. Bên cạnh đó, vấn đề nguồn lực ngân sách thực hiện các chương trình cũng cần được quan tâm. Mỗi chương trình cần được xây dựng khái toán cụ thể dựa trên khảo sát thực tế tại địa phương nhằm đảm bảo hiệu quả thực hiện chương trình, tránh sự thiếu hụt và không kịp thời về nguồn vốn (Trần Hữu Ý, 2016&2017). Bản thân NHCSXH cũng cần kiến nghị với Chính phủ cho phép quay vòng vốn đã cho vay của 3 chương trình tín dụng cho đồng bào DTTS trước năm 2016 để sử dụng làm nguồn thực hiện tiếp chương trình hiện tại. Bên cạnh đó, NHCSXH thu hút thêm nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế, ngân hàng thương mại khác nhằm tăng thêm nguồn cho vay đối với các chương trình tín dụng cho hộ DTTS. 5. Kết luận Hoạt động tín dụng chính sách cho đồng bào DTTS thông qua các chương trình của NHCSXH đã giúp cho các hộ gia đình đồng bào DTTS cải thiện thu nhập, môi trường sống và sinh kế. Tuy nhiên, thực tế cũng chỉ ra rằng điều kiện tự nhiên không thuận lợi, cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện đồng bộ, đặc biệt, trình độ học vấn thấp cũng như sự hỗ trợ của công tác khuyến nông chưa rộng và toàn diện đã hạn chế hiệu quả các chương trình tín dụng này. Để khắc phục những mặt hạn chế, bài viết đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng cho đồng bào DTTS tại CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 41Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019 NHCSXH trong thời gian tới như: (i) phát triển sản phẩm dịch vụ tài chính phù hợp với nhu cầu của hộ đồng bào DTTS; (ii) đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đào Tài liệu tham khảo 1. NHCSXH, 2017, Báo cáo Kết quả hoạt động năm 2017, Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm 2018. 2. NHCSXH, 2018, Báo cáo kết quả cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách từ 01/01/2003-30/6/2018. 3. NHCSXH, Tài liệu đào tạo cán bộ mới tuyển dụng: Bài 3, 4 và 5, truy cập tại: dung.html 4. Phùng Đức Tùng, Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Cao Thịnh, Nguyễn Thị Nhung và Tạ Thị Khánh Vân, 2015, Tổng quan thực trạng kinh tế- xã hội của 53 DTTS: Dựa trên kết quả phân tích số liệu điều tra thực trạng kinh tế- xã hội của 53 DTTS năm 2015, Tiểu dự án Hỗ trợ giảm nghèo PRPP- Ủy ban Dân tộc do UNDP và Irish Aid tài trợ hỗ trợ thực hiện nghiên cứu. 5. Trần Hữu Ý, 2016, Nâng cao hiệu quả của các chương trình tín dụng chính sách của NHCSXH đối với đồng bào DTTS, Đề tài NCKH cấp Bộ, Mã số: ĐTNH.020/16. 6. Trần Hữu Ý, 2017, Tín dụng chính sách đối với hộ đồng bào DTTS, kết quả đạt được sau 10 năm thực hiện và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Ngân hàng số 18 tháng 9/2017. 7. UNDP, 2012, Báo cáo nghiên cứu rà soát các chính sách dân tộc và đề xuất xây dựng hệ thống chính sách DTTS đến năm 2020. 8. WB, 2018, Bước tiến mới: Giảm nghèo và thịnh vượng chung tại Việt Nam. Thông tin tác giả Đỗ Thị Kim Hảo, Phó giáo sư, Tiến sĩ Phó Giám đốc Học viện Ngân hàng Email: haodk@hvnh.edu.vn Chu Khánh Lân, Tiến sĩ Viện Nghiên cứu khoa học Ngân hàng, Học viện Ngân hàng Email: lanck@hvnh.edu.vn Trần Huy Tùng, Thạc sĩ Khoa Kinh tế, Học viện Ngân hàng Email: tungth@hvnh.edu.vn Summary Knowledge competency approaches in organizations, orientation of application to the banking field The efficiency of priority credit for ethnic minority through programs of Vietnam bank for social policy With purposes of gradually improving and enhancing living conditions for poor ethnic minority households, reducing development gap between ethnic minority, people living in mountainous areas and others within the country, Vietnamese Government has had preferential credit policies for ethnic minorities implemented through credit programs of the Vietnam Bank for Social Policy. Using secondary and primary data obtained by questionnaire surveying ethnic minority households and credit officers in Yen Bai, Lam Dong, Tra Vinh and Ha Giang provinces, the article assesses the effectciency of credit programs for ethnic minority people in Vietnam and proposes some recommendations to improve the credit effectiveness for ethnic minority people in Vietnam Bank for Social Policy in the future. Key words: priority credit, ethnic minority people, Vietnam Bank for Social Policy. Hao Thi Kim Do, Assoc.Prof. PhD. Banking Academy of Vietnam Lan Khanh Chu, PhD. Research Institute for Banking, Banking Academy of Vietnam Tung Huy Tran, M.Ec. Economic faculty, Banking Academy of Vietnam tạo, phổ biến kiến thức, đặc biệt là hỗ trợ kỹ thuật, đầu vào, đầu ra trong sản xuất kinh doanh cho các hộ gia đình DTTS; và (iii) xây dựng khung chính sách toàn diện, phù hợp và đảm bảo nguồn lực thực hiện hỗ trợ đồng bào DTTS. ■
File đính kèm:
- hieu_qua_tin_dung_chinh_sach_cho_dong_bao_dan_toc_thieu_so_q.pdf