Hiệu quả giải giãn cơ trong mổ bằng sugammadex để phẫu thuật cắt tuyến giáp có sử dụng máy phát hiện thần kinh

Trong phẫu thuật cắt tuyến giáp có sử dụng máy phát hiện tổn thương thần kinh quặt ngược, bệnh nhân

cần không bị liệt cơ hay được giải giãn cơ hoàn toàn trong phẫu thuật để ảnh hưởng thấp nhất tới máy NIM

(Nerve integrity monitor). Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của giải giãn cơ bằng

sugammadex và so sánh với không dùng giãn cơ trong phẫu thuật tuyến giáp có sử dụng NIM. Phương pháp

nghiên cứu can thiệp lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng, thực hiện từ 01/06/2018 đến 01/06/2019 trên 68

bệnh nhân chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm I - rocuronium 0,5 mg/kg để đặt nội khí quản và giải giãn

cơ sugammadex trước khi dùng NIM, nhóm II - không dùng giãn cơ. Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 3 phút

tiêm sugammadex, 100% TOF (Train Of Four) > 0,9, 100% hình thái và chức năng thần kinh còn nguyên

vẹn, nhóm II có nội khí quản khó cao gấp 8,56 lần nhóm I. Sử dụng giãn cơ và sugammadex trong phẫu

thuật tuyến giáp không làm ảnh hưởng đến chất lượng máy NIM trong khi điều kiện đặt nội khí quản tốt hơn.

pdf 8 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả giải giãn cơ trong mổ bằng sugammadex để phẫu thuật cắt tuyến giáp có sử dụng máy phát hiện thần kinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả giải giãn cơ trong mổ bằng sugammadex để phẫu thuật cắt tuyến giáp có sử dụng máy phát hiện thần kinh

Hiệu quả giải giãn cơ trong mổ bằng sugammadex để phẫu thuật cắt tuyến giáp có sử dụng máy phát hiện thần kinh
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019 105
HIỆU QUẢ GIẢI GIÃN CƠ TRONG MỔ 
BẰNG SUGAMMADEX ĐỂ PHẪU THUẬT CẮT TUYẾN GIÁP 
CÓ SỬ DỤNG MÁY PHÁT HIỆN THẦN KINH
Nguyễn Hải Hà Trang, Nguyễn Hữu Tú
 Trường Đại học Y Hà Nội
Trong phẫu thuật cắt tuyến giáp có sử dụng máy phát hiện tổn thương thần kinh quặt ngược, bệnh nhân 
cần không bị liệt cơ hay được giải giãn cơ hoàn toàn trong phẫu thuật để ảnh hưởng thấp nhất tới máy NIM 
(Nerve integrity monitor). Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của giải giãn cơ bằng 
sugammadex và so sánh với không dùng giãn cơ trong phẫu thuật tuyến giáp có sử dụng NIM. Phương pháp 
nghiên cứu can thiệp lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng, thực hiện từ 01/06/2018 đến 01/06/2019 trên 68 
bệnh nhân chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm: nhóm I - rocuronium 0,5 mg/kg để đặt nội khí quản và giải giãn 
cơ sugammadex trước khi dùng NIM, nhóm II - không dùng giãn cơ. Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 3 phút 
tiêm sugammadex, 100% TOF (Train Of Four) > 0,9, 100% hình thái và chức năng thần kinh còn nguyên 
vẹn, nhóm II có nội khí quản khó cao gấp 8,56 lần nhóm I. Sử dụng giãn cơ và sugammadex trong phẫu 
thuật tuyến giáp không làm ảnh hưởng đến chất lượng máy NIM trong khi điều kiện đặt nội khí quản tốt hơn.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khóa: Phẫu thuật cắt tuyến giáp, sugammadex, máy phát hiện thần kinh.
Giải phẫu tuyến giáp và sự phổ biến của các 
rối loạn do tổn thương tuyến giáp sau các can 
thiệp làm cho tuyến giáp trở thành một trong 
những cơ quan khó phẫu thuật nhất [1]. Máy 
phát hiện tổn thương thần kinh (Intraoperative 
Neuromonitoring – IONM) phát hiện thần kinh 
thanh quản quặt ngược (TKTQQN) giúp bảo 
tồn giải phẫu và chức năng của dây trong phẫu 
thuật tuyến giáp. Lựa chọn giãn cơ rất quan 
trọng với việc sử dụng IONM trong phẫu thuật 
cắt tuyến giáp. Thuốc giãn cơ lí tưởng trong 
phẫu thuật này là có mức độ giãn cơ phù hợp 
cho đặt ống nội khí quản (NKQ) và nhanh hồi 
phục sự co cơ với ảnh hưởng thấp nhất trên 
máy điện cơ NIM (Nerve Integrity Monitor). 
Sử dụng đầy đủ thuốc giãn cơ giúp tăng chất 
lượng đặt NKQ, giảm tổn thương thanh khí 
quản (giảm khàn giọng và các di chứng khác 
của dây thanh âm) [2]. Tuy nhiên việc sử dụng 
giãn cơ là nguyên nhân chính gây nhiễu trên 
máy phát hiện tổn thương thần kinh IONM [3]. 
Một hướng tiếp cận mới tới giải giãn cơ nhanh 
với thuốc giãn cơ không khử cực là sử dụng 
rocuronium và giải giãn cơ bằng sugammadex. 
Trên thế giới đã có một vài nghiên cứu so sánh 
về việc sử dụng succinyl choline, sử dụng liều 
thấp thuốc giãn cơ không khử cực có giải giãn 
cơ bằng sugammadex và không sử dụng thuốc 
giãn cơ trong phẫu thuật cắt tuyến giáp có sử 
dụng máy phát hiện tổn thương thần kinh IONM 
[4], cũng như đánh giá liều rocuronium được sử 
dụng cho gây mê phẫu thuật tuyến giáp [5]. Tại 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Hải Hà Trang, 
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: [email protected]
Ngày nhận: 20/09/2019
Ngày được chấp nhận: 03/10/2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019106
Việt Nam hiện tại chưa có nghiên cứu nào đánh 
giá tác dụng của sugammadex để giải giãn cơ 
bằng rocuronium, cũng như đánh giá phương 
thức gây mê hiệu quả và phù hợp trên phẫu 
thuật cắt tuyến giáp có sử dụng máy phát hiện 
tổn thương thần kinh. Do đó, nghiên cứu này 
được thực hiện với mục tiêu sau: Đánh giá hiệu 
quả giải giãn cơ trong mổ bằng Sugammadex 
và kết quả phát hiện tổn thương thần kinh quặt 
ngược và đánh giá các tác dụng không mong 
muốn của phương pháp này.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Tiêu chuẩn lựa chọn
Từ 18 đến 70 tuổi, được phẫu thuật cắt 
tuyến giáp theo chương trình có sử dụng máy 
phát hiện tổn thương thần kinh thanh quản quặt 
ngược và được gây mê NKQ. Tình trạng sức 
khỏe trước mổ ASA I – II, kết quả cận lâm sàng 
trước mổ trong giới hạn bình thường.
Tiêu chuẩn loại trừ
Các bệnh nhân xuất hiện các biến chứng 
liên quan đến gây mê, không muốn tham gia 
nghiên cứu hoặc có diễn biến nặng sau mổ 
buộc phải chuyển về phòng hồi sức tích cực 
thở máy > 24h.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu
Can thiệp lâm sàng ngẫu nhiên có đối 
chứng.
Địa điểm – Thời gian nghiên cứu: Khoa Gây 
mê hồi sức và chống đau, Bệnh viện Đại học Y 
Hà Nội từ 01/06/2018 đến 01/06/2019.
Cỡ mẫu: Chọn mẫu thuân tiện, 68 bệnh 
nhân đủ điều kiện nghiên cứu khi vào phòng 
mổ được phân chia bằng cách bốc thăm ngẫu 
nhiên vào một trong hai nhóm sau:
+ Nhóm I: sử dụng giãn cơ rocuronium liều 
0,5 mg/kg để đặt NKQ và được giải giãn cơ 
bằng sugammadex
+ Nhóm II: không sử dụng thuốc giãn cơ khi 
đặt NKQ.
Cách thức tiến hành:
- Trước mổ: làm các xét nghiệm cơ bản, 
khám gây mê trước ngày phẫu thuật. Đánh 
giá phân loại sức khỏe theo ASA và tiên lượng 
NKQ khó theo phân độ Mallampati.
- Tại phòng mổ:
+ Bệnh nhân được lắp monitor theo dõi nhịp 
tim, huyết áp, ECG, SpO2, BIS, thở oxy qua 
mask 6-8 lít/phút, lắp máy theo dõi độ giãn cơ 
(TOF – scan).
+ Gây mê nôi khí quản, khởi mê bằng 
fentanyl 2 µg/kg tiêm tĩnh mạch, sử dụng 
propofol – TCIcp.
+ Với bệnh nhân ở nhóm I (có sử dụng 
rocuronium để đặt NKQ): tiêm rocuronium 0,5 
mg/kg ngay khi bệnh nhân bị mất tri giác (mất 
phản xạ mi mắt). Theo dõi độ giãn cơ bằng TOF 
‒ scan mỗi 15 giây. Khi TOF không có đáp ứng 
và BIS < 60 thì bắt đầu đặt nội khí quản.
+ Với bệnh nhân ở nhóm II (không sử dụng 
rocuronium để đặt NKQ): Tiêm lidocaine liều 
1,5 mg/kg đường tĩnh mạch. Khi BIS < 60 thì 
bắt đầu đặt NKQ. Nếu khi đưa đèn macintosh 
bộc lộ dây thanh, bác sĩ gây mê đánh giá chưa 
đủ điều kiện đặt ống nội khí quản thì tiến hành 
úp mask thông khí trở lại bằng bóp bóng, tăng 
liều propofol (thêm Cp 0,5 µg/ml hoặc tiêm tĩnh 
mạch propofol 0,25 mg/kg). Nếu không thể 
đặt NKQ sau 3 lần thì bệnh nhân được tiêm 
succinylcholine liều 1 mg/kg và được loại trừ 
khỏi nghiên cứu.
+ Đặt ống NKQ sao cho 2 dây thanh âm nằm 
giữa hai điện cực của ống NKQ máy theo dõi 
tổn thương thần kinh. Người đặt NKQ đánh giá 
các phản ứng của bệnh nhân trong quá trình 
đặt NKQ
+ Phẫu thuật viên (PTV) lắp hệ thống theo 
dõi tổn thương thần kinh NIM gắn vào ống NKQ 
đã đặt.
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019 107
+ PTV cài đặt thông số cường độ dòng 
điện kích thích dây TKTQQN là 0.8 mA, hiệu 
điện thế 100 µV và đánh giá hình thái, chức 
năng dây thần kinh trong mổ.
+ Hóa giải giãn cơ: Với bệnh nhân nhóm I 
(có sử dụng rocuronium để đặt nội khí quản), 
khi PTV yêu cầu giải giãn cơ để sử dụng máy 
phát hiện tổn thương thần kinh, tiến hành giải 
giãn cơ, liều sugammadex dựa theo số kích 
thích xuất hiện trong chuỗi đáp ứng 4 kích 
thích TOF:
+ Nếu TOF count = 0: sugammadex 4mg/
kg tiêm tĩnh mạch
+ Nếu TOF count = 1 – 4 : sugammadex 
2mg/kg, tiêm tĩnh mạch
+ Sau khi giải giãn cơ cài đặt chế độ đo chỉ 
số TOF tự động 15 giây/lần cho đến khi đạt 
TOF > 0,9. Sau đó đặt chế độ đo TOF tự động 
5 phút/lần cho đến khi kết thúc cuộc mổ. Đánh 
giá tình trạng tái giãn cơ sau giải giãn cơ.
- Tại phòng hồi tỉnh: Rút ống nội khí quản 
khi đủ tiêu chuẩn và đánh giá tác dụng không 
mong muốn trong vòng 24h.
- Tại bệnh phòng: Sau mổ 24h bệnh nhân 
được nội soi thanh quản ống cứng 70 độ đánh 
giá sự di động của dây thanh.
Các tiêu chuẩn đánh giá
Các đặc điểm nhân trắc học, phân loại sức 
khỏe theo ASA, tiên lượng NKQ khó theo phân 
độ Mallampati, thời gian phục hồi sau giải giãn 
cơ (thời gian từ khi tiêm sugammadex đến khi 
chỉ số TOF đạt trên 0,7 va 0,9), tác động của 
sugammadex lên máy NIM và kết quả bảo tồn 
TK TQQN về hình thái và chức năng trong 
mổ và sau mổ theo quan sát của PTV và soi 
thanh quản ống cứng sau phẫu thuật, tình 
trạng tái giãn cơ sau giải giãn cơ (theo dõi 
TOF dưới 90% trong vòng 60 phút sau tiêm 
sugammadex), tác động của rocuronium 0,5 
mg/kg lên tình trạng đặt NKQ so với không 
dùng giãn cơ theo thang điểm Copenhagen 
và điểm IDS đánh giá NKQ khó ở hai nhóm, 
tình trạng bệnh nhân trong vòng 24h sau phẫu 
thuật (ho, khàn tiếng, đau họng, nôn buồn 
nôn).
3. Xử lý số liệu
Các biến định lượng được trình bày theo 
giá trị trung bình và độ lệch chuẩn ( X ± SD). 
Các biến định tính được trình bày theo tỷ lệ 
phần trăm (%). Kiểm định sự khác biệt của các 
biến định lượng bằng các test tham số (t-test, 
ANOVA test), các biến định tính: sử dụng testv 
Khi bình phương hoặc Fisher’s exact test. Sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 
Các số liệu thu thập trong nghiên cứu được 
nhập và xử lý theo các thuật toán thống kê y 
học bằng phần mềm SPSS 20.
4. Đạo đức nghiên cứu
Đề cương nghiên cứu đã thông qua bởi 
Hội đồng chấm đề cương nghiên cứu của 
Trường Đại học Y Hà Nội. Các thuốc sử 
dụng trong nghiên cứu đã được Bộ Y tế cấp 
phép sử dụng. Đối tượng nghiên cứu được 
cung cấp đầy đủ thông tin và chấp nhận tình 
nguyện tham gia nghiên cứu, mọi thông tin 
liên quan đến đối tượng đều được mã hóa và 
giữ bí mật. Nghiên cứu chỉ nhằm mục tiêu tìm 
ra lợi ích của việc sử dụng giải giãn cơ bằng 
sugammadex trong phẫu thuật cắt tuyến giáp 
có sử dụng máy phát hiện tổn thương thần 
kinh. 
III. KẾT QUẢ
1. Một số đặc điểm chung liên quan đến bệnh nhân
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019108
Bảng 1. Đặc điểm chung liên quan đến bệnh nhân (n = 68 )
(trình bày dưới dạng ± SD, Min – Max)
Chỉ số Nhóm I Nhóm II p
Giới tính (% nữ) 94,12 88,23 > 0,05
Tuổi (năm) 47,59 ± 12,47(27 – 70)
42,56 ± 14,01
(17 – 73) > 0,05
Cân nặng (kg) 53,26 ± 5,31(44 – 64)
52 ± 6,63
(40 – 68) > 0,05
Chiều cao (cm) 155,56 ± 3,92(150 – 163)
155,97 ± 5,86
(145 – 172) > 0,05
BMI (kg/m2) 22,03 ± 2,32(18,31 – 27,70)
21,36 ± 2,35
(18,26 – 25,97) > 0,05
ASA
I (n, %)
II (n, %)
24 (70,59)
10 (29,41)
30 (88,24)
4 (11,76)
> 0,05
Mallampati
I (n, %)
II (n, %)
14 (41,18)
20 (58,82)
12 (35,29)
22 (64,71)
> 0,05
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về giới, tuổi, chiều cao, cân nặng, BMI, tình trạng sức 
khỏe ASA và phân độ Mallampati giữa 2 nhóm bệnh nhân.
2. Chỉ số TOF
Bảng 2. Thời gian đạt TOF 0,7 và đạt TOF 0,9
Thời gian (phút)
Nhóm I
(n = 34)
Thời gian đạt TOF ≥ 0,7 ( ± SD) 2,38 ± 0,92
Thời gian đạt TOF ≥ 0,9 ( ± SD) 2,94 ± 1,01
Thời gian trung bình đạt TOF ≥ 0,7 là 2,38 ± 0,92 phút và TOF ≥ 0,9 là 2,94 ± 1,01 phút với nhóm 
bệnh nhân được tiêm giãn cơ rocuronium với liều 0,5 mg/kg và giải giãn cơ 10 – 15 phút sau đó.
Biểu đồ 1. Chỉ số TOF theo thời gian
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019 109
Sau 2,5 phút, 100% số bệnh nhân đạt TOF trên 70% và sau 3 phút, 100% số bệnh nhân đạt TOF 
trên 90%, đạt giải giãn cơ hoàn toàn.
3. Tác động của Sugammadex trên máy kích thích thần kinh NIM
Bảng 3. Tác động của Sugammadex trên máy kích thích thần kinh NIM
Chỉ số
Nhóm I 
(n = 34)
Chất lượng sử dụng máy NIM sau giải giãn 
cơ theo ý kiến PTV
Tốt 34 (100%)
Trung bình 0 (0,00 %)
Kém 0 (0,00%)
TKTQQN toàn vẹn về hình thái Có 34 (100%)
Không 0 (0,00%)
TKTQQN toàn vẹn về chức năng Có 34 (100%)
Không 0 (0,00%)
TOF < 0,9 trong 60 phút giải giãn cơ
Có 0 (0,00%)
Không 34 (100%)
Đánh giá dây thanh âm 24h sau mổ 
Di động tốt 34 (100%)
Hạn chế, liệt dây thanh 0 (0,00%)
Tất cả bệnh nhân trong nhóm đều có chỉ số chất lượng sử dụng máy NIM sau giải giãn cơ đạt 
mức tốt. Không có trường hợp nào bị tổn thương TKTQQN trong và sau mổ.
4. Đặc điểm tác dụng của rocuronium liều 0,5 mg/kg để đặt nội khí quản
Bảng 4. Tình trạng đặt NKQ theo thang điểm Copengagen
Chỉ số Nhóm I (n, %) Nhóm II (n,%) p
Tình trạng đặt NKQ 
Tốt 29 (85,29) 8 (23,53)
0,003Trung bình 4 (11,76) 12 (35,29)
Khó 1 (2,94) 14 (41,18)
Ở nhóm I, số trường hợp được đánh giá ở mức tốt là 29 ca, gần gấp 4 lần so với số lượng 8 ca 
ở nhóm II. Khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
5. Đánh giá tình trạng đặt NKQ khó và tình trạng bệnh nhân 24h sau phẫu thuật ở hai nhóm
Bảng 5. Tình trạng đặt NKQ khó và tình trạng 24h sau phẫu thuật
Tình trạng
Nhóm I
n (%)
Nhóm II
n (%)
OR
(95%CI)
p
Điểm IDS
> 0 12 (35,29) 28 (82,35)
8,56
(2,35 – 31,2) 0,001< 0 22 (64,71) 6 (17,65)
Trung bình 0,38 ± 0,55 1,94 ± 1,63
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019110
Ho
Có 1 (2,94) 4 (11,76) 4,4
(0,44 - 43,72) > 0,05Không 33 (97,06) 30 (88,24)
Nôn, 
buồn nôn
Có 0 (0,00) 1 (2,94)
- > 0,05
Không 34 (100,00) 33 (97,06)
Khàn tiếng
Có 5 (14,71) 17 (50,00) 5,8
(1,64 – 20,55) 0,002Không 29 (85,29) 17 (50,00)
Đau họng
Có 6 (17,65) 23 (67,65) 9,76
(2,59 – 36,82) 0,000Không 28 (82,35) 11 (32,35)
Nhóm II không sử dụng thuốc giãn cơ có tình trạng đặt NKQ khó cao gấp 8,56 lần so với nhóm I 
có sử dụng rocuronium để giãn cơ với mức tin cậy 95%.
Nhóm bệnh nhân không được sử dụng phương pháp giãn bằng rocuronium rồi giải giãn cơ bằng 
sugammadex có nguy cơ bị khàn tiếng cao gấp 5,8 lần và nguy cơ đau họng cao gấp 9,76 lần so với 
nhóm bệnh nhân được sử dụng.
IV. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy về đặc 
điểm chung của bệnh nhân: có sự tương đồng 
giữa hai nhóm nghiên cứu, do đó ảnh hưởng 
lên kết quả nghiên cứu của 2 nhóm là như 
nhau. Chúng tôi thấy rằng khi sử dụng giãn cơ 
với rocuronium liều 0,5 mg/kg và được hóa giải 
giãn cơ bằng sugammadex, thời gian trung bình 
đạt TOF ≥ 0,7 và TOF ≥ 0,9 trong nghiên cứu 
của chúng tôi dài hơn của các tác giả Dương 
Thị Phương Thảo là 1,60 ± 1,30 phút và 2,36 
± 1,37 phút, Nguyễn Thị Thu Huyền là 107,57 
± 54,87 phút và 155,29 ± 62,51 phút [6; 7]. Có 
thể giải thích là do chúng tôi tiến hành tiêm 
sugammadex ngay sau khi phẫu thuật viên bộc 
lộ mô tuyến giáp và sử dụng máy NIM, khoảng 
thời gian từ khi tiêm giãn cơ đến khi giải giãn 
cơ từ 10 – 15 phút ngắn hơn trong các nghiên 
cứu khác. Chúng tôi nhận thấy tất cả các bệnh 
nhân sau giải giãn cơ đều có chỉ số chất lượng 
sử dụng máy NIM đạt mức tốt theo ý kiến của 
phẫu thuật viên. Các dây thần kinh được quan 
sát còn nguyên vẹn về hình thể theo quan sát 
của PTV trong mổ và 100% có đáp ứng với 
kích thích NIM. Kết quả này tương đồng với 
Margarita và cộng sự (2016) với 96% bệnh 
nhân có tín hiệu tốt trên máy theo dõi TKTQQN 
và kết luận của Lu IC và cộng sự về hiệu quả 
tốt của sugammadex trong cả gây mê và phẫu 
thuật [4; 8]. Trong suốt 60 phút theo dõi chỉ số 
TOF, tất cả bệnh nhân đều không có TOF dưới 
90%, tương đồng với kết luận của các tác giả 
Dương Thị Phương Thảo (2016), Nguyễn Thị 
Thu Huyền (2018) đều không ghi nhận trường 
hợp tái giãn cơ nào sau khi đã đạt TOF ≥ 0,9. 
Theo một nghiên cứu gộp meta – analysis trên 
41 nghiên cứu có chỉ ra sugammadex tỏ ra ưu 
việt hơn hẳn trong thời gian hồi phục từ khi có 2 
đáp ứng T2 đến khi TOF > 0,9, ít tác dụng phụ 
và các dấu hiệu tái giãn cơ sau phẫu thuật [9]. 
Chúng tôi đánh giá tình trạng đặt NKQ theo 
thang điểm Copenhagen theo 5 tiêu chí: khả 
năng soi thanh quản, vị trí dây thanh âm, độ di 
động dây thanh, mức độ cử động và kích thích 
ho trên bệnh nhân [10]. Nhìn chung, sau khi sử 
dụng giãn cơ, số trường hợp được đánh giá đặt 
nội khí quản ở mức tốt là 29 ca chiếm 85,29%, 
gần gấp 4 lần so với 8 ca ở nhóm không dùng 
giãn cơ (23,53%), gần tương đồng với Margarita 
(2016) với số ca mức tốt chiếm lần lượt 84% và 
31,8% ở cả hai nhóm, X. Combes (2007) với 
85,57% mức tốt đối với nhóm có giãn cơ và 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019 111
51,3% với nhóm không giãn cơ [2; 4]. 
Chúng tôi đánh giá tình trạng đặt NKQ khó 
dựa trên thang điểm IDS (Intubation Difficult 
Scale - tổng của 7 tiêu chí: số lần đặt NKQ, 
số người đặt NKQ, lựa chọn phương tiện đặt 
NKQ khác, khả năng bộc lộ dây thanh theo 
thang điểm Cormack – Lehane, nhu cầu ấn sụn 
thanh quản từ phía ngoài và vị trí dây thanh 
âm khi đặt ống). Chúng tôi nhận thấy nhóm II 
không sử dụng giãn cơ có điểm IDS trung bình 
là 1,94 cao gấp 5 lần nhóm I sử dụng giãn cơ 
có IDS 0,38, đồng thời có tình trạng đặt NKQ 
khó cao gấp 8,56 lần với mức tin cậy 95%. Kết 
quả chúng tôi đưa ra tương tự như Combes và 
cộng sự (2007) với IDS > 5 ở nhóm không sử 
dụng giãn cơ (chiếm 12%) cao hơn đáng kể so 
với nhóm có sử dụng giãn cơ (chiếm 1%) [2]. 
Theo Margarita và cộng sự (2016), điểm IDS 
trung bình của nhóm sử dụng giãn cơ bằng 0, 
trong khi với nhóm không sử dụng giãn cơ là 
1 [4]. Đồng thời, có tới 50% bệnh nhân có tình 
trạng khàn tiếng và 67,65% có đau họng sau 
khi đặt ống NKQ không có giãn cơ. Trong khi 
đó, khi có giãn cơ, tỷ lệ bệnh nhân gặp phải 
2 tình trạng này đều dưới 20%. Theo tác giả 
Võ Văn Hiển (2017), có đến 12,22% bệnh nhân 
đau họng, 5,56% bệnh nhân khàn tiếng và 
3,33% bệnh nhân vừa đau họng vừa khàn tiếng 
khi không sử dụng giãn cơ trong đặt NKQ [11]. 
Qua các kết quả nghiên cứu, chúng tôi thấy liều 
rocuronium ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng 
đặt NKQ.
V. KẾT LUẬN
Sử dụng giãn cơ rocuronium 0,5 mg/
kg để đặt nội khí quản và giải giãn cơ bằng 
sugammadex đảm bảo điều kiện đặt nội khí 
quản thuận lợi và đáp ứng đầy đủ điều kiện sử 
dụng máy phát hiện tổn thương thần kinh thanh 
quản quặt ngược trong quá trình phẫu thuật cắt 
tuyến giáp.
Lời cảm ơn
Chúng tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn tới 
các bệnh nhân, gia đình bệnh nhân cùng toàn 
thể nhân viên khoa Gây mê hồi sức và Chống 
đau Bệnh viện Đại học Y Hà Nội đã giúp đỡ 
chúng tôi trong quá trình làm nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Koçak S., Aydintug S. (2001). Surgeon's 
approach to the thyroid gland: Surgical anatomy 
and the importance of technique. World Journal 
of Surgery, 25, 968.
2. Combes X., Andriamidify L., Dures E. 
(2007). Comparison of two induction regimens 
using or not using muscle relaxant: impact on 
postoperative upper airway discomfort. British 
Journal of Anaesthesia, 99, 276-281.
3. Chu K. S.,Tsai K. (2010). Influence 
of nondepolarizing muscle relaxants on 
intraoperative neuromonitoring during thyroid 
surgery. Journal of Otolaryngology-Head & 
Neck Surgery, 39, 397 – 402.
4. Margarita K., Maria G. (2016). 
Intraoperative Rocuronium Reversion by Low 
doses of Sugammadex in Thyroid Surgery with 
Monitoring of the recurrent laryngeal nerves. 
ARC Journal of Anesthesiology, 1, 19-28.
5. Yang-dong H., Feng L., Peng C. (2014). 
Dosage effect of Rocuronium on Intraoperative 
neuromonitoring in patients undergoing thyroid 
surgery. Cell Biochemistry Biophysiology, 4, 
180 – 184.
6. Dương Thị Phương Thảo, Nguyễn 
Hữu Tú (2018). So sánh hiệu quả giải giãn 
cơ và một số tác dụng không mong muốn của 
sugammadex với neostigmin ở bệnh nhân cao 
tuổi sau phẫu thuật vùng bụng. Tạp chí Y học 
thực hành, 1075, 57-60.
7. Nguyễn Thị Thu Huyền, Nguyễn Quốc 
Kính, Lưu Quang Thùy (2018). Đáng giá 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TCNCYH 123 (7) - 2019112
hiệu quả giải giãn cơ bằng sugammadex so 
với neostigmine cho phẫu thuật lấy thận ghép 
ở người cho sống. Tạp chí Y học thực hành, 
1075, 22-25. 
8. Lu I.C., Wu C.W. (2016). Reversal of 
rocuronium – induced neuromuscular blockade 
by sugammadex allows for optimization of 
neural monitoring of the recurrent laryngeal 
nerve. Laryngoscope,126,1014-9
9. Hristovska A.M., Duch P., Allingstrup 
M., et al (2017). Efficacy and safety of 
sugammadex versus neostigmine in reversing 
neuromuscular blockade in adults. Cochrane 
Database System Review.
10. Viby – mogensen J., Engbaek J., 
Eriksson L.I. (1996). Good clinical resesearch 
practice (GCRP) in pharmacodynamics studies 
of neuromuscular blocking agents. Acta 
Anesthesiologica Scandinavica, 40, 59-74.
11. Võ Văn Hiển, Nguyễn Hữu Tú, Mai Văn 
Viện (2016). Gây mê bằng propofol TCI hoặc 
sevofluran không kèm thuốc giãn cơ trong phẫu 
thuật nội soi cắt tuyến ức điều trị bệnh nhược 
cơ. Tạp chí Y dược học quân sự, 41, 200-210.
Summary
EFFECTS OF SUGAMMADEX AS A NEUROMUSCULAR 
REVERSAL DRUG IN THYROIDECTOMY USING 
INTRAOPERATIVE NEURO-MONITORING
In performing thyroidectomy using intraoperative neuromonitoring, we need to provide an 
anesthetic procedure that is suitable for intubation with minimal impact to the NIM (Nerve integrity 
monitor). We performed this study to evaluate the effect of neuromuscular reversal blockage by 
sugammadex and compared with thyroidectomy using NIM with no muscle relaxant. A randomized 
controlled clinical intervention study was carrried out from June 1, 2018 to June 1, 2019. 64 
patients were randomly divided into 2 groups: group I received rocuronium 0.5 mg/kg with injection 
of sugammadex before using NIM, group II with no muscle relaxant used. The study results 
showed that after 3 minutes of injecting sugammadex, 100% TOF (Train Of Four) > 0.9, 100% 
nerve appearance and function in group I was preserved, group II had difficult intubation incidence 
8.56 times higher than group I. In conclusion addition of muscle relaxants and sugammadex 
in thyroidectomy not only did not affect NIM quality but also improve intubation condition.
Keywords: Thyroidectomy, sugammadex, intraoperative neuromonitoring.

File đính kèm:

  • pdfhieu_qua_giai_gian_co_trong_mo_bang_sugammadex_de_phau_thuat.pdf