Hiệu quả của nội soi mật tụy ngược dòng với gây mê nội khí quản trong điều trị sỏi ống mật chủ ở người cao tuổi
Mở đầu: Nội soi mật tụy ngược dòng (NSMTND) được phương pháp điều trị được ưu tiên hàng đầu
trong các trường hợp sỏi ống mật chủ (OMC), đặc biệt là khi không kèm với sỏi trong gan và sỏi túi mật. Ít các
nghiên cứu trong nước đề cập đến hiệu quả và độ an toàn của NSMTND lấy sỏi OMC ở bệnh nhân cao tuổi.
Mục tiêu: Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả và độ an toàn của NSMTND dưới gây
mê nội khí quản trong điều trị sỏi OMC ở bệnh nhân cao tuổi.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên các bệnh nhân ≥ 60 tuổi bị sỏi OMC được
thực hiện nội soi mật tụy ngược dòng (NSMTND) điều trị tại Bệnh viện ĐHYD TP. HCM trong thời gian
06/2010 – 06/2012.
Bạn đang xem tài liệu "Hiệu quả của nội soi mật tụy ngược dòng với gây mê nội khí quản trong điều trị sỏi ống mật chủ ở người cao tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Hiệu quả của nội soi mật tụy ngược dòng với gây mê nội khí quản trong điều trị sỏi ống mật chủ ở người cao tuổi

Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Ngoại Khoa 418 HIỆU QUẢ CỦA NỘI SOI MẬT TỤY NGƯỢC DÒNG VỚI GÂY MÊ NỘI KHÍ QUẢN TRONG ĐIỀU TRỊ SỎI ỐNG MẬT CHỦ Ở NGƯỜI CAO TUỔI Quách Trọng Đức*, Trần Văn Huy*, Lê Quang Nhân*, Phạm Công Khánh*, Nguyễn Thúy Oanh*, Trịnh Đình Hỷ* TÓM TẮT Mở đầu: Nội soi mật tụy ngược dòng (NSMTND) được phương pháp điều trị được ưu tiên hàng đầu trong các trường hợp sỏi ống mật chủ (OMC), đặc biệt là khi không kèm với sỏi trong gan và sỏi túi mật. Ít các nghiên cứu trong nước đề cập đến hiệu quả và độ an toàn của NSMTND lấy sỏi OMC ở bệnh nhân cao tuổi. Mục tiêu: Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả và độ an toàn của NSMTND dưới gây mê nội khí quản trong điều trị sỏi OMC ở bệnh nhân cao tuổi. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên các bệnh nhân ≥ 60 tuổi bị sỏi OMC được thực hiện nội soi mật tụy ngược dòng (NSMTND) điều trị tại Bệnh viện ĐHYD TP. HCM trong thời gian 06/2010 – 06/2012. Kết quả: Có 139 bệnh nhân trong nghiên cứu với tuổi trung bình là 75,1 ± 9,8 (nhỏ nhất: 60, lớn nhất: 100); tỉ lệ nam: nữ là 1:2. Có 33,8% (47/139) trường hợp có tiền sử điều trị sỏi đường mật trước đó. 92,1% (128/139) được lấy sỏi OMC thành công, trong đó tỉ lệ lấy hết sỏi OMC ở lần thực hiện NSMTND đầu tiên là 82% (114/139). Tán sỏi qua nội soi được tiến hành trong 31/128 trường hợp. Chỉ có 1/11 trường hợp không lấy được sỏi là do kích thước sỏi lớn. Tỉ lệ viêm tụy cấp và chảy máu sau thủ thuật là 4,3% và 0,8%. Không có trường hợp nào bị biến chứng nhiễm trùng hoặc thủng. Không có biến chứng nặng liên quan vô cảm. Kết luận: NSMTND với gây mê nội khí quản là một phương pháp an toàn và hữu hiệu trong điều trị sỏi OMC ở bệnh nhân cao tuổi. Từ khóa: nội soi mật tụy ngược dòng, sỏi mật, cao tuổi ABSTRACT THE EFFICACY OF ERCP UNDER INTUBATED GENERAL ANESTHESIA FOR THE MANAGEMENT OF COMMON BILE DUCT STONES IN ELDERLY PATIENTS Quach Trong Duc, Tran Van Huy, Le Quang Nhan, Pham Cong Khanh, Nguyen Thuy Oanh, Trinh Đinh Hy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 418 ‐ 423 Background: Endoscopic retrograde cholangio‐pancreaticography (ERCP) is preferred in the management of common bile duct (CBD) stones, especially when not accompanying with gallstones and intrahepatic stones. Few Vietnamese studies have reported on the efficacy and the safety profile of this technique in elderly patients. Aim: To assess the efficacy and the safety profile of therapeutic ERCP under general anesthesia with intubation in elderly patients with CBD stones. Patients and Methods: A retrospective cohort study in elderly patients (i.e. ≥ 60 year‐of‐age) who suffered from CBD stones and underwent therapeutic ERCP at the HCMC University Medical Center from June 2010 to June 2012. * Đại học Y Dược TPHCM Tác giả liên lạc: TS. Quách Trọng Đức ĐT: 0918080225 Email: [email protected] Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Ngoại Tổng Quát 419 Results: There were 139 patients with the mean age of 75.1 ± 9.8 (60 – 100) and the male‐to‐female ratio of 1:2. 33.8% (47/139) patients have had prior history treatment for biliary stones. The rates of successful CBD stone removal and completely CBD stone removal at the first time ERCP were 92.1% (128/139) and 82% (114/139), respectively. Mechanical lithotripsy were performed in 24.2% (31/128). Of 11 patients who was failed to remove CBD stones, only one patients was due the large size of stone. The rates of post‐ERCP pancreatitis and gastrointestinal bleeding were 4.3% and 0.8%, respectively. No patients suffered from perforation or severe anesthetic‐related complications. Conclusion: Therapeutic ERCP under general anesthesia is an effective and safe procedure for the management of CBD stones in elderly patients. Key words: ERCP, billiary stone, elderly ĐẶT VẤN ĐỀ Sỏi mật là một bệnh lý thường gặp ở Việt Nam và có thể gây nhiều biến chứng cấp tính có thể đe dọa tử vong như nhiễm trùng đường mật và viêm tụy cấp. Với xu hướng can thiệp ngày càng ít xâm lấn, các kỹ thuật lấy sỏi qua nội soi ngày càng được áp dụng rộng rãi và rất thành công tại Việt Nam. Phương pháp nội soi mật tụy ngược dòng (NSMTND) được ưu tiên hàng đầu trong các trường hợp sỏi OMC, đặc biệt là khi không kèm với sỏi trong gan và sỏi túi mật do có vị trí tiếp cận đơn giản, hiệu quả điều trị cao trong khi tránh được cho bệnh nhân nguy cơ phẫu thuật. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm đánh giá hiệu quả và độ an toàn của kỹ thuật NSMTND dưới gây mê nội khí quản trong điều trị sỏi OMC ở bệnh nhân cao tuổi. ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng Các bệnh nhân cao tuổi được chẩn đoán sỏi OMCđược chỉ định thực hiện nội soi mật tụy ngược dòng (NSMTND) lấy sỏi tại Bệnh viện ĐHYD TP. HCM trong thời gian 06/2010 – 06/2012. Phương pháp Đoàn hệ hồi cứu. Tiêu chuẩn chọn bệnh Tuổi ≥ 60. Được xác lập chẩn đoán sỏi OMCvà chì định thực hiện NSMTND lấy sỏi. Thực hiện thủ thuật NSMTND dưới gây mê nội khí quản. Tiêu chuẩn loại trừ Không được thực hiện siêu âm bụng & Amylase máu kiểm tra sau thực hiện thủ thuật. Các bước tiến hành nghiên cứu Ghi nhận bệnh cảnh lâm sàng, tiền sử bệnh lý nội khoa phối hợp và các phương pháp điều trị sỏi đường mật trước đó. Khi thực hiện NSMTND, ghi nhận giải phẫu tá tràng và đặc điểm của sỏi OMC, các phương pháp can thiệp lấy sỏi, kết quả lấy sỏi. Sau thủ thuật bệnh nhân được nhịn ăn uống 12 giờ, theo dõi sinh hiệu, tình trạng đau bụng, xuất huyết tiêu hóa, xét nghiệm Amylase máu và siêu âm bụng kiểm tra. Các định nghĩa biến sử dụng trong nghiên cứu Kích thước sỏi OMC được ghi nhận đo theo đường kính ngắn hơn của sỏi (do đường kính dài của sỏi nằm dọc trục OMC, ít ảnh hưởng đến chiến lược lấy sỏi qua NSMTND). NSMTND lấy hết sỏi OMC: nếu chụp đường mật kiểm tra trước khi ngưng thủ thuật NSMTND VÀ siêu âm bụng kiểm tra sau thủ thuật đểu không ghi nhận sót sỏi OMC. Các biến chứng do NSMTND được định nghĩa như sau(1) Viêm tụy cấp sau NSMTND: nếu bệnh nhân đau bụng và men Amylase máu ≥ 3 lần giá trị bình thường (ở thời điểm 24 giờ) sau khi thực hiện thủ thuật. Chảy máu sau NSMTND: nếu bệnh nhân có Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Ngoại Khoa 420 biểu hiện xuất huyết tiêu hóa trên lâm sàng và giảm Hb huyết. Nhiễm trùng đường mật: sốt mới khởi phát > 38oC trong vòng 24 – 48 giờ sau thủ thuật. KẾT QUẢ Có 139 bệnh nhân trong nghiên cứu với tuổi trung bình là 75,1 ± 9,8; bao gồm 45 (32,4%) nam và 94 (67,6%) nữ. Bệnh nhân cao tuổi nhất trong nghiên cứu là 100 tuổi. Phân bố tuổi và biểu hiện lâm sàng và bệnh lý phối hợp của bệnh nhân trong nghiên cứu được trình bày ở bảng 1,2 và 3. Bảng 1: Phân bố theo tuổi của bệnh nhân trong nghiên cứu Nhóm tuổi n % % tích lũy 60 – 69 45 32,4 32,4 70 – 79 46 33,1 65,5 80 – 89 37 26,6 92,1 90 – 100 11 7,9 100 Total 139 100 Bảng 2: Biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân trong nghiên cứu Bệnh cảnh lâm sàng n % Sốc nhiễm trùng đường mật 6 4,3 Nhiễm trùng đường mật 57 41 Viêm tụy cấp 4 2,9 Viêm túi mật cấp 2 1,4 Vàng da tắc mật 13 9,4 Đau hạ sườn phải 20 14,4 Đau thượng vị 21 15,1 Sốt 7 5 Phát hiện khi phẫu thuật cắt túi mật nội soi 1 0,7 Không triệu chứng 8 5,8 Tổng cộng 139 100 Bảng 3: Bệnh lý nội khoa phối hợp Bệnh nội khoa phối hợp n % Tăng huyết áp 61 43,9 Bệnh động mạch vành 19 13,7 Đái tháo đường týp II 17 12,2 Bệnh van tim 9 6,5 Bệnh phổi mạn tính (hen, COPD, lao phổi) 9 6,5 Tai biến mạch máu não cũ 8 5,8 Suy tim 5 3,6 Xơ gan 4 2,9 Rung nhĩ / ngoại tâm thu thất 4 2,9 Suy thận mạn 3 2,2 Bảng 4: Tiền sử đã điều trị sỏi đường mật n % Phẫu thuật đường mật chính 20 14,4 NSMTND 14 10,1 Cắt túi mật nội soi 13 9,4 Không 92 66,2 Tổng cộng 139 100 Bảng 5: Đặc điểm của sỏi OMC ở các trường hợp được can thiệp lấy sỏi Đặc điểm sỏi OMC(n =128) n % Số lượng sỏi 1 sỏi 2 sỏi 3 sỏi ≥ 3 68 28 20 12 53,1 21,9 15,6 9,4 Kích thước sỏi (mm) ≤ 10 11 – 15 16 – 20 21 – 30 > 30 42 52 22 11 1 32,8 40,6 17,2 8,6 0,8 Bảng 6: Tỉ lệ thành công của các phương pháp lấy sỏi OMC n % % tích lũy Kéo sỏi (bằng rọ thường / bong bóng kéo sỏi) 97 75,8 75,8 Tán sỏi cơ học & kéo sỏi 30 23,4 99,2 Tán sỏi cấp cứu (do kẹt rọ) 1 0,8 100 Trong các trường hợp tán sỏi cơ học chủ động có 5 trường hợp sỏi đường kính 10 – 15mm và 5 trường hợp sỏi 16 – 20 mm. Có 1 trường hợp sỏi d=15mm cần phải tán cấp cứu do kẹt rọ. Tỉ lệ bệnh nhân có túi thừa tá tràng ở vị trí nhú Vater là 40,3% (56/139). Tỉ lệ thông đường mật thành công là 130 / 139, trong đó thông bằng kỹ thuật kinh điển với dao cắt cơ và dây dẫn là 124 (89,2%) và cần sử dụng phương pháp chọc phễu / cắt trước là 6 (4,3%) trường hợp. Có 128 (92,1%) được thực hiện lấy sỏi OMC thành công, trong đó tỉ lệ lấy hết sỏi OMC ở lần thực hiện NSMTND đầu tiên là 82% (114/139). Nguyên nhân không lấy được sỏi ở 11 (7,9%) trường hợp còn lại trong nghiên cứu được trình bảy ở bảng 8. Bảng 8: Các trường hợp không thể thực hiện lấy sỏi qua NSMTND n Sẹo loét tá tràng gây hẹp 2 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Ngoại Tổng Quát 421 n Biến dạng tá tràng sau phẫu thuật, không tiếp cận được 1 Không tìm được nhú Vater 1 Phễu mật nằm trong túi thừa to 3 Thông thất bại 2 Sỏi to 1 Choáng nhiễm trùng đường mật / đang điều trị ức chế kết tập tiểu cầu kép + nhú Vater nằm cạnh túi thừa * 1 (*) Đặt stent tạm do không thể ngưng thuốc ức chế kết tập tiểu cầu kép Có 6 (4,3%) trường hợp viêm tụy cấp trong đó 5 trường hợp nhẹ (cần kéo dài thời gian nằm viện thêm 2 – 3 ngày) và 1 trường hợp mức độ trung bình (kéo dài thời gian nằm viện thêm 6 ngày). Cả 6 đều hồi phục sau khi hồi sức nội khoa và không cần can thiệp gì thêm (bảng 9). Bảng 9. Biến chứng của thủ thuật NSMTND lấy sỏi OMC (n = 139) n % Viêm tụy cấp (n = 139) Mức độ nhẹ Mức độ vừa Mức độ nặng 6 5 1 0 4,3 Xuất huyết (n = 128) Xuất huyết tiêu hóa có biểu hiện lâm sàng Chảy máu sau cắt cơ vòng cần chích cầm máu Chảy máu tự cầm sau cắt cơ vòng 0 1 24/128 0,8 Nhiễm trùng đường mật 0 0 Thủng 0 0 BÀN LUẬN Trong nghiên cứu của chúng tôi có đến 1/3 số bệnh nhân từ 80 tuổi trở lên. Phân bố giới tính của bệnh nhân cũng không có sự khác biệt gì với các nghiên cứu trước đây với phần lớn bệnh nhân là nữ..(2,7,8). Các bệnh nội khoa phối hợp thường gặp nhất là tăng huyết áp, bệnh mạch vành và đái tháo đường. Về bệnh cảnh lâm sàng, có 21 (15,1%) bệnh nhân chỉ có triệu chứng đau thượng vị và 7 (5%) chỉ biểu hiện sốt và được phát hiện nhiễm trùng đường mật khi tìm ổ nhiễm. Điều này cho thấy cần lưu ý khi tiếp cận chẩn đoán nguyên nhân gây sốt và đau thượng vị ở người cao tuổi. Trong nghiên cứu cũng ghi nhận 1 trường hợp vào viện vì viêm túi mật cấp do sỏi được chỉ định phẫu thuật nhưng chụp đường mật trong mổ ghi nhận có sỏi OMC và do kích thước OMC khá nhỏ không thuận lợi cho việc mở OMC lấy sỏi nên chỉ định NSMTND được đặt ra và thực hiện thành công. Về tiền sử điều trị sỏi OMC bằng phẫu thuật, trong nghiên cứu của chúng tôi có 14,4% thấp hơn so với La Văn Phương (2010 ‐ 2011) là 38% và Đào Xuân Cường (2008 – 2010) là 28%(2, 7). Đặc biệt Đào Xuân Cường ghi nhận có 9,8% trường hợp được làm NSMTND sau khi bị sỏi OMC tái phát đã phẫu thuật từ 2 lần trở lên. Điều này cho thấy quan điểm hiện tại vẫn chưa có một sự đồng thuận cao giữa các nhà lâm sàng tiêu hóa rằng NSMTND nên là phương pháp được ưu tiên hàng đầu trong các trường hợp có sỏi OMC. Một nguyên nhân khác góp phần lý giải cho sự khác biệt giữa nghiên cứu của chúng tôi so với các tác giả khác có lẽ là do các nghiên cứu đề cập ở trên khảo sát trên cả những bệnh nhân không phải là người cao tuổi nên điều trị phẫu thuật được mạnh dạn đưa ra hơn và có tỉ lệ cao hơn nghiên cứu của chúng tôi. Tuy nhiên trong chiến lược xử trí sỏi mật hiện nay, NSMTND nên là chọn lựa đầu tay đối với sỏi OMC ngay cả ở những đối tượng trẻ tuổi. Ngay cả trong những trường hợp sỏi OMC kết hợp với sỏi túi mật, nghiên cứu của Đỗ Trọng Hải và cộng sự cũng cho thấy chiến lược phối hợp NSMTND và phẫu thuật cắt túi mật nội soi (có thể tiến hành một thì hoặc hai thì) đều có thới gian nằm viện ngắn hơn so với chiến lược cắt túi mật nội soi và mở OMC lấy sỏi hoặc mổ mở(4). Ngoài ra, xét về khía cạnh thẩm mỹ và mức độ đau sau khi lấy sỏi thì NSMTND cũng có nhiều ưu điểm vượt trội. Do đặc tính sỏi đường mật thường có khuynh hướng tái phát, NSMTND đặc biệt có ưu điểm trong các trường hợp này vì kỹ thuật khi thực hiện lại rất an toàn do cơ vòng mật đã được cắt, sỏi thường mềm và thao tác chính chỉ là kéo sỏi đơn giản bằng rọ hoặc bong bóng kèm với bơm rửa đường mật, bệnh nhân gần như không bị các biến chứng nguy hiểm như chảy máu do cắt cơ vòng và viêm tụy cấp gần như không có và chỉ cần theo dõi trong thời gian ngắn sau thủ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Ngoại Khoa 422 thuật. Về đặc điểm của sỏi OMC trong nghiên cứu, so sánh về phân bố kích thước và số lượng sỏi OMC, chúng tôi ghi nhận không có sự khác biệt đáng kể vể đặc điểm của sỏi OMC ở nhóm bệnh nhân cao tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi so với các nghiên cứu tính chung trên dân số làm NSMTND lấy sỏi OMC theo y văn trong nước trước đây(2,8). Trong nghiên cứu của chúng tôi, kích thước sỏi được ghi nhận theo đường kính nhỏ hơn theo trục dọc của OMC vì liên quan đến chiến lược lấy sỏi: thông thường thì các sỏi có đường kính ≤10 mm có thể lấy bằng rọ Dormia hoặc bong bóng trong khi các sỏi có kích thước ≥ 15 mm cấn xem xét khả năng có thể phải thực hiện tán sỏi cơ học. Chiến lược lấy sỏi còn tùy thuộc rất nhiều vào đường kính của OMC đoạn dưới sỏi và giải phẫu của vùng nhú tá lớn (quyết định độ rộng của đường ra sau khi cắt rộng tối đa cơ vòng mật)(8). Một điểm cần thận trọng nữa là không ít trường hợp kết quả siêu âm trước thủ thuật ghi nhận có sỏi OMC với kich thước nhỏ nhưng khi chụp đường mật qua NSMTND có thể ghi nhận sỏi cây với kích thước rất lớn. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 7,1% (10/139) trường hợp có sỏi đường kính 11 – 20 mm cần tán sỏi, đặc biệt có 1 trường hợp sỏi 15mm nhưng đoạn dưới OMC hẹp tương đối bị kẹt rọ phải tán cấp cứu. Tỉ lệ cần tán sỏi tính chung chiếm ¼ số trường hợp lấy sỏi thành công. Điều này cho thấy việc chuẩn bị dụng cụ tán sỏi cơ học và cấp cứu sẽ quyết định khả năng lấy sỏi thành công, do đó các dụng cụ này nên được chuẩn bị sẵn khi thực hiện NSMTND lấy sỏi ở bệnh nhân cao tuổi. Về khả năng lấy sỏi thành công, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ đạt được là 92,1%. Nguyên nhân chính của các trường hợp không thể lấy sỏi liên quan đến giải phẫu của tá tràng và nhú Vater không phù hợp để thực hiện lấy sỏi qua NSMTND (sẹo hẹp tá tràng, biến dạng tá tràng sau phẫu thuật, nhú Vater nằm ở vị trí bất thường không tìm thấy hoặc nằm trong túi thừa to dễ có biến chứng thủng khi cắt cơ vòng kéo sỏi). Chúng tôi chỉ có 1 trường hợp sỏi > 20mm và đường kính OMC không đủ rộng để bung rọ tán bắt sỏi. Tương tự, nghiên cứu của Trần Như Nguyên Phương cũng cho thấy chỉ có 1,2% trường hợp không lấy sỏi thành công liên quan đến kích thước sỏi: lấy sỏi đơn thuần bằng rọ đạt 85,2%, phối hợp tán sỏi giúp tăng tỉ lệ thành công lên thêm 13,6%. Theo Hồ Đăng Quý Dũng(5), có 18,8% (128/682) trường hợp không lấy sỏi được, trong đó nguyên nhân do kích thước sỏi > 20mm là nguyên nhân chính không lấy được sỏi, chiếm tỉ lệ 71,8%. Con số này khác biệt khá nhiều với nghiên cứu của chúng tôi và Trần Như Nguyên Phương và La Văn Phương(7,8). Với các rọ tán tiêu chuẩn hiện tại thì các sỏi 20 – 35mm cũng có thể đưa vào rọ được và không gặp khó khăn. Điểm khác biệt giữa các nghiên cứu là phương pháp vô cảm sử dụng trong nghiên cứu của Trần Như Nguyên Phương và nghiên cứu của chúng tôi là mê nội khí quản trong khi nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu của Hồ Đăng Quý Dũng chủ yếu là được tiền mê. Mặc dù xu hướng nói chung của thế giới là hướng đến phương pháp mê tĩnh mạch bằng propofol, các trường hợp sỏi khó cần sử dụng đến tán sỏi thì thời gian thủ thuật thường kéo dài hơn do các công đoạn thao tác tán sỏi, kéo mảnh sỏi, bơm rửa làm sạch đường mật mà nhiều khi cần lặp lại nhiều lần nếu đồng thời có nhiều sỏi to. Do đó, việc vô cảm tốt giúp bệnh nhân nằm thoải mái yên tạo tâm lý thoải mái để thủ thuật NSMTND được thực hiện thành công. Đặc biệt ở đối tượng người cao tuổi, chúng tôi cho rằng phương pháp vô cảm này lại đặc biệt ưu thế do giúp chủ động kiểm soát được tình trạng bệnh nhân trong các trường hợp khó. Trong nhóm bệnh nhân của chúng tôi không ghi nhận tai biến nặng liên quan đến gây mê nội khí quản. Biến chứng thường gặp nhất liên quan đến thủ thuật là viêm tụy cấp với tỉ lệ tương tự với phần lớn các nghiên cứu trong nước khác và đa số ở mức độ nhẹ (bảng 10). Mặc dù tỉ lệ túi thừa tá tràng D2 trong nghiên cứu là 40,2%, tỉ lệ tai biến chảy máu trong nghiên cứu của chúng tôi cũng ở mức thấp và không ghi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Ngoại Tổng Quát 423 nhận trường hợp nào bị tai biến thủng. Một số trung tâm trong nước ghi nhận tỉ lệ biến chứng chảy máu và thủng cao hơn các trung tâm khác. Vai trò của máy cắt đốt và chế độ điện sử dụng có lẽ đóng góp một phần quan trọng trong việc tạo ra sự khác biệt này, tuy nhiên điều này gần như chưa từng được đề cập trong các nghiên cứu trong nước trước đây. Một nghiên cứu đa trung tâm ở trong nước về vấn đề này là rất cần thiết nhằm nhận ra các yếu tố nguy cơ và làm giảm hơn nữa tỉ lệ biến chứng của NSMTND. Bảng 10: Tỉ lệ biến chứng của NSMTND trong các nghiên cứu trong nước Viêm tụy cấp Nhiễm trùng Chảy máu Biến chứng do vô cảm Thủng Hồ Đăng Quý Dũng(5) 4,4% 0,8% 0,5% 2% 0,2% Trân Như Nguyên Phương(8) 3,4% 2,3% 6,9% 0 0,4% La Văn Phương(7) 0 0 4% 0 4% Đào Xuân Cường(2) - 1,5% 0,8% - 0 Hồ Văn Hân (6) 6% 0% 1,5% 0 1,5% Chúng tôi 4,3% 0 0,8% 0 0 KẾT LUẬN NSMTND là một phương pháp an toàn và hữu hiệu trong điều trị sỏi OMC ở bệnh nhân cao tuổi. Việc thực hiện vô cảm bằng phương pháp mê nội khí quản không làm tăng thêm nguy cơ biến chứng do vô cảm, nhưng cho thấy giúp làm tăng tỉ lệ lấy sỏi thành công, đặc biệt là sỏi ≥ 2cm, so với phương pháp tiền mê được sử dụng trong các nghiên cứu trong nước trước đây. Cần có thêm các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm đối chứng để chứng minh. Lời cám ơn: Chúng tôi xin cám ơn sự hỗ trợ của Bệnh Viện Đại Học Y Dược để hoàn thành công trình nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cotton P, Lehman G, Vennes J et al (1991). Endoscopic sphincterotomy complications and their management: an attempt at consensus. Gastrointest endosc; 37: 383 – 393. 2. Đào Xuân Cường và cs (2012). Ứng dụng kỹ thuật soi mật – tụy ngược dòng để điều trị sỏi ống mật chủ và ống gan chung tại bệnh viện Đa khoa Kiên Giang. Y học Thực hành, 832 + 833: 62 – 67. 3. Đỗ Đình Công, Võ Duy Long (2005). Nhận xét về viêm tụy cấp sau nội soi mật tụy ngược dòng. Y Học TP. Hồ Chí Minh, tập 9, phụ bản của số 1: 33 – 37. 4. Đỗ Trọng Hải, Nguyễn Hoàng Bắc, Nguyễn Thúy Oanh và cs (2009). Nghiên cứu chỉ định và đánh giá kết quả các phương pháp điều trị sỏi ống mật chủ kèm sỏi túi mật. Y Học TP. Hồ Chì Minh, tập 13, phụ bản của số 1 (chuyên đề Ngoại khoa): 51 – 58. 5. Hồ Đăng Quý Dũng, Phạm Hữu Tùng, Trần Đình Trí và cs (2012). Đánh giá tình hình nội soi chụp mật tụy ngược dòng tại Bệnh viện Chợ Rẫy năm 2011. Y học Thực hành, 832 + 833: 34 – 40. 6. Hồ Văn Hân, Trần Duy Bình, Nguyễn Văn Hải (2010). Can thiệp điều trị qua nội soi mật tụy ngược dòng. Y Học TP. Hồ Chí Minh, tập 14, phụ bản của số 4 (Hội nghị Phẫu Thuật Nội soi BV. Nhân Dân Gia Định): 67 – 73. 7. La Văn Phương và cộng sự (2012). Đánh giá kết quả nội soi mật‐tụy ngược dòng trong điều trị sỏi ống mật chủ tại bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ. Y học Thực hành, 832 + 833: 50 – 56. 8. Ng E, Chung S (2005). Common bile duct stones and cholangitis. In: Cotton P, Leung J (eds). Advanced digestive endoscopy: ERCP. 1st edition, pp 88 – 119. Blackwell and Wiley. 9. Trần Như Nguyên Phương, Hồ Ngọc Sang, Lê Phước Anh, Nguyễn Văn Duy (2012). Điều trị sỏi ống mật chủ bằng nội soi mật tụy ngược dòng tại BVTW Huế từ 5/2005 đến 5/2012. Y học Thực hành, 832 + 833: 41 – 49. Ngày nhận bài báo: 01/11/2013 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2013 Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
File đính kèm:
hieu_qua_cua_noi_soi_mat_tuy_nguoc_dong_voi_gay_me_noi_khi_q.pdf