Giới hạn phát triển hệ thống tài chính ngân hàng tại các quốc gia châu Á
Bằng phương pháp hồi quy ngưỡng cho dữ liệu bảng, bài nghiên cứu
cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mức ngưỡng giới hạn để phát
triển hệ thống tài chính- ngân hàng hướng tới mục tiêu thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế tại 33 quốc gia châu Á (bao gồm Việt Nam). Kết quả
nghiên cứu này xác định rằng mối quan hệ giữa mức độ phát triển
của hệ thống tài chính-ngân hàng trong nền kinh tế lên tăng trưởng
kinh tế không phải là tuyến tính mà tồn tại giá trị ngưỡng giới hạn.
Khi hệ thống tài chính-ngân hàng chưa vượt mức ngưỡng giới hạn
này thì khu vực tài chính có ảnh hưởng tích cực, thúc đẩy tăng trưởng
GDP. Ngược lại, vượt trên mức ngưỡng giới hạn thì phát triển của hệ
thống tài chính-ngân hàng lại cản trở và kìm hãm tăng trưởng kinh
tế. Phân tích của bài viết hàm ý rằng tập trung quá mức cho sự phát
triển của hệ thống tài chính-ngân hàng tại Việt Nam cũng như các
quốc gia châu Á khác không phải lúc nào cũng có lợi. Các chính sách
để phát triển khu vực tài chính -ngân hàng cần được cân nhắc ở một
mức độ phù hợp để phát huy vai trò tích cực lên tăng trưởng kinh tế
là một vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách cần phải quan tâm.
Từ khóa: Phát triển hệ thống tài chính-ngân hàng, tăng trưởng kinh
tế, quan hệ phi tuyến
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giới hạn phát triển hệ thống tài chính ngân hàng tại các quốc gia châu Á
55 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 199- Tháng 12. 2018 Giới hạn phát triển hệ thống tài chính ngân hàng tại các quốc gia châu Á THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ Phan Thị Bích Nguyệt Phạm Dương Phương Thảo Ngày nhận: 21/12/2018 Ngày nhận bản sửa: 26/12/2018 Ngày duyệt đăng: 26/12/2018 Bằng phương pháp hồi quy ngưỡng cho dữ liệu bảng, bài nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm về mức ngưỡng giới hạn để phát triển hệ thống tài chính- ngân hàng hướng tới mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại 33 quốc gia châu Á (bao gồm Việt Nam). Kết quả nghiên cứu này xác định rằng mối quan hệ giữa mức độ phát triển của hệ thống tài chính-ngân hàng trong nền kinh tế lên tăng trưởng kinh tế không phải là tuyến tính mà tồn tại giá trị ngưỡng giới hạn. Khi hệ thống tài chính-ngân hàng chưa vượt mức ngưỡng giới hạn này thì khu vực tài chính có ảnh hưởng tích cực, thúc đẩy tăng trưởng GDP. Ngược lại, vượt trên mức ngưỡng giới hạn thì phát triển của hệ thống tài chính-ngân hàng lại cản trở và kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Phân tích của bài viết hàm ý rằng tập trung quá mức cho sự phát triển của hệ thống tài chính-ngân hàng tại Việt Nam cũng như các quốc gia châu Á khác không phải lúc nào cũng có lợi. Các chính sách để phát triển khu vực tài chính -ngân hàng cần được cân nhắc ở một mức độ phù hợp để phát huy vai trò tích cực lên tăng trưởng kinh tế là một vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách cần phải quan tâm. Từ khóa: Phát triển hệ thống tài chính-ngân hàng, tăng trưởng kinh tế, quan hệ phi tuyến 1. Giới thiệu ặc dù phát triển sau khu vực châu Âu và châu Mỹ, các nền kinh tế mới nổi châu Á có tốc độ tăng trưởng nhanh đã thu hút nhiều sự quan tâm trên thế giới. Tuy nhiên trong bối cảnh kinh tế thế giới thời gian gần đây nhiều bất ổn, các nước trong khu vực châu Á phải đối mặt với hàng loạt thách thức và tốc độ tăng trưởng có xu hướng suy giảm. Theo dự báo của IMF, trong vòng ba thập kỷ tới, xu hướng này ngày càng nghiêm trọng hơn. Cho dù được đánh giá là còn nhiều khả năng để phát triển, nhưng các nền kinh tế châu Á cần có những đối sách phù hợp với bối QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 56 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 199- Tháng 12. 2018 cảnh và tình hình mới để giải quyết các thách thức, nhằm hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững. Hơn thế nữa, đối với các nước đang phát triển châu Á, trong đó có Việt Nam, làm thế nào để thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh nhưng bền vững là một câu hỏi đầy thử thách và không dễ tìm ra câu trả lời duy nhất. Dùng phương pháp hồi quy ngưỡng cho dữ liệu bảng được đề xuất bởi Hansen (1999) và được kế thừa tiếp tục phát triển kết hợp với Fixed Effect bởi Wang (2015), bài nghiên cứu này phân tích mối quan hệ giữa sự phát triển của hệ thống tài chính- ngân hàng và tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam. Trên cơ sở đó xác định mức độ phát triển tối ưu của hệ thống tài chính trong nền kinh tế. 2. Cơ sở lý thuyết và khung phân tích Hệ thống tài chính-ngân hàng của một quốc gia, thường được gọi vắn tắt là hệ thống tài chính (financial system) hoặc khu vực tài chính (financial sector), được định nghĩa là một nhóm các định chế trong nền kinh tế giúp kết nối tiết kiệm của người này với đầu tư của người khác. Các định chế tài chính có thể phân làm hai loại: các thị trường tài chính và các trung gian tài chính. Theo Mankiw (2011), thị trường tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế là thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu; những trung gian tài chính quan trọng nhất đó là các ngân hàng và các quỹ đầu tư. Nguyễn Trọng Hoài (2006) giải thích rõ hơn về khái niệm trên, theo đó hệ thống tài chính là một tập hợp rộng lớn các mối quan hệ cung cầu về vốn diễn ra dưới hình thức vay mượn, mua bán vốn hoặc tiền tệ hoặc các chứng từ có giá, nhằm dịch chuyển vốn từ nơi cung cấp đến nơi có nhu cầu về vốn. Vốn có thể được chuyển trực tiếp bằng việc sử dụng các công cụ tài chính và thông qua các thị trường tài chính, hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức tài chính trung gian như các ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, công ty tài chính. Lý thuyết truyền thống tin tưởng rằng hệ thống tài chính- ngân hàng càng phát triển thì càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Levine (2005) phát biểu rằng sự phát triển của hệ thống tài chính- ngân hàng (mà sau đây được gọi tắt là sự phát triển tài chính) là việc cải thiện các chức năng được cung cấp bởi hệ thống tài chính bao gồm: tích lũy tiết kiệm, phân phối nguồn vốn đến các cơ hội đầu tư sinh lợi, giám sát và quản trị rủi ro các khoản đầu tư này, đa dạng hóa rủi ro, tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi hàng hóa và cung cấp dịch vụ. Mỗi chức năng nói trên của hệ thống tài chính có thể ảnh hưởng đến tiết kiệm và các quyết định đầu tư cũng như ảnh hưởng đến mức độ hiệu quả của các nguồn vốn được phân bổ. Sự phát triển tài chính còn được hiểu là quá trình đổi mới cũng như cải thiện thể chế và tổ chức trong hệ thống tài chính- ngân hàng, làm giảm bất cân xứng thông tin, tăng sự hoàn thiện của thị trường, tăng khả năng cho các tổ chức tham gia vào các giao dịch tài chính bằng hợp đồng, giảm chi phí giao dịch, tăng sự cạnh tranh (Hartmann và cộng sự, 2007). Ngày nay, sự phát triển tài chính cần được hiểu cả theo chiều rộng và chiều sâu, đó là một quá trình cải thiện về số lượng, chất lượng và hiệu quả của dịch vụ, trung gian tài chính liên quan đến sự hoạt động và tương tác của nhiều tổ chức, cá nhân khác nhau. Các bằng chứng thực nghiệm trước đây trên thế giới tựu chung thành hai xu hướng chính là: (1) Sự phát triển tài chính ảnh hưởng tuyến tính và tác động tích cực lên tăng trưởng kinh tế, tiêu biểu như các nghiên cứu ban đầu trong giai đoạn thế kỷ 20 của Schumeter và Opie (1934); Gurley và Shaw (1955). McKinnon (1973), Shaw (1973) cho rằng những biện pháp hạn chế của chính phủ can thiệp vào hệ thống ngân hàng như áp dụng trần lãi suất, yêu cầu dự trữ bắt buộc cao và các chương trình tín dụng chỉ định sẽ làm giảm tính linh hoạt, đa dạng của các sản phẩm, dịch vụ tài chính, gây tồn đọng vốn, do đó tác động bất lợi đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ tương quan thuận giữa sự phát triển của hệ thống tài chính – ngân hàng và tăng trưởng kinh tế được ủng hộ mạnh mẽ hơn bởi các nghiên cứu tiếp nối King và Levine (1993a, b), Levine (1997, 2003), Rajan và Zingales (1998), Levine và cộng sự (2000), Beck và Levine (2004), Beck và cộng sự (2000, 2005). Levine và Zervos (1998) dùng phương pháp hồi quy trên dữ liệu chéo của 41 quốc gia QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 57Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 199- Tháng 12. 2018 trong giai đoạn 1976-1993 và tìm thấy bằng chứng chứng minh rằng sự phát triển tài chính thể hiện mối tương quan tích cực lên thành quả hoạt động kinh tế thực, và mối tương quan này đặc biệt mạnh mẽ hơn tại các nước đang phát triển. Levine (2005) nghiên cứu và kết luận rằng các quốc gia có hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính thực hiện chức năng tốt hơn thì nền kinh tế quốc gia đó tăng trưởng nhanh hơn. Thời gian gần đây hơn, có các bằng chứng thực nghiệm như Johannes và cộng sự (2011) tìm thấy mối quan hệ tích cực dài hạn giữa sự phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế khi nghiên cứu dữ liệu chuỗi thời gian về Cameroon giai đoạn 1970-2005; Shun-Jen và cộng sự (2013) cho thấy rằng các biến đại diện cho sự phát triển tài chính thì có tác động định hướng cho tăng trưởng kinh tế ở một vài nước Châu Á, đặc biệt là Trung Quốc; hay nghiên cứu của Durusu và cộng sự (2016) phân tích trên dữ liệu bảng 40 quốc gia giai đoạn 1989-2011; Zarrouk và cộng sự (2016) phân tích với mẫu là Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất (UAE) trong khoảng thời gian từ 1990- 2012. Tóm lại, các học giả thuộc trường phái thứ nhất này cho rằng sự phát triển của hệ thống tài chính- ngân hàng liên quan đến việc tích lũy vốn, chính là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Do vậy, chính sách của chính phủ phải hướng tới khuyến khích sự phát triển của hệ thống tài chính- ngân hàng (2) Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 đã buộc cả giới nghiên cứu lẫn các nhà hoạch định chính sách thực tiễn phải cân nhắc lại kết luận trước đây của họ. Cuộc khủng hoảng này là minh chứng cho thấy khả năng hệ thống tài chính- ngân hàng hoạt động sai lệch sẽ trực tiếp và gián tiếp làm lãng phí nguồn lực quốc gia như thế nào. Trái với quan điểm của các tác giả đã nêu trên, các học giả trong trường phái thứ hai này lập luận rằng hệ thống tài chính- ngân hàng chỉ tạo ra cơ hội cho khu vực tư nhân tìm kiếm lợi nhuận hoặc họ sẽ bị thua lỗ (Lucas, 1988). Deidda và Fattouh (2002) đã xem xét mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế trên mẫu dữ liệu khá lớn gồm 119 quốc gia phát triển và đang phát triển giai đoạn 1960- 1989 trên dữ liệu chéo. Bước đầu, các tác giả này tìm thấy rằng sự phát triển của hệ thống tài chính- ngân hàng là nhân tố quyết định có ý nghĩa thống kê lên tăng trưởng kinh tế ở nhóm nước có thu nhập cao nhưng lại không đạt ý nghĩa thống kê ở nhóm nước có thu nhập thấp. Các tác giả này hoài nghi mối quan hệ giữa mức độ phát triển của hệ thống tài chính- ngân hàng và tăng trưởng kinh tế không phải là tuyến tính. Khan và Senhadji (2003) tìm thấy bằng chứng rằng hệ số hồi quy của biến đại diện cho sự phát triển tài chính lên tăng trưởng kinh tế là không có ý nghĩa thống kê; đồng thời cũng tìm thấy trong khi sự phát triển tài chính có thể diễn ra một cách chậm chạp ở một số quốc gia, tăng trưởng kinh tế vẫn gia tăng nhanh hơn, do đó hai nhà nghiên cứu này kết luận không có ảnh hưởng từ sự phát triển tài chính lên tăng trưởng kinh tế. Tương tự, Andersen và Tarp (2003) kết luận rằng không có bằng chứng rõ ràng về mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và phát triển kinh tế. Gần đây hơn, Cecchetti và Kharroubi (2012) đã tìm thấy rằng khu vực tài chính càng phát triển nhanh thì tổng thể nền kinh tế lại tăng trưởng chậm lại. Trong phạm vi nào đó, sự phát triển tài chính có ảnh hưởng tích cực lên tăng trưởng kinh tế nhưng vượt qua một giá trị ngưỡng, tác động của sự phát triển tài chính sẽ thay đổi và gây ảnh hưởng tiêu cực lên tăng trưởng kinh tế (Arcand và cộng sự, 2012). Các bằng chứng thực nghiệm của Law và Singh (2014), Samargandi và cộng sự (2014), Bayar (2014) cũng ủng hộ lập luận này. Riêng đối với Việt Nam, Anwar và Nguyen (2011) nghiên cứu dữ liệu bảng số liệu 61 tỉnh thành của Việt Nam trong giai đoạn 1997- 2006 để xem xét mối liên hệ giữa sự phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế. Dựa trên phân tích về lý thuyết tăng trưởng nội sinh, kết quả nghiên cứu này cho thấy sự phát triển tài chính đóng góp cho tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu chính thức nào phối hợp đầy đủ cả hai phương diện của sự phát triển tài chính là sự phát triển của khu vực ngân hàng và sự phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK) được thực hiện. Các nghiên cứu trước đây về nền kinh tế Việt Nam chỉ mới phân tích một trong hai khía cạnh này một cách độc lập. Hầu hết các nghiên cứu không có dữ QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 58 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 199- Tháng 12. 2018 liệu với độ dài đủ để phân tích bằng các mô hình phù hợp. Hơn nữa, các học giả tập trung nhiều vào các nền kinh tế châu Âu với đặc thù văn hóa- xã hội, kinh tế, chính trị không giống như các nước châu Á. Cho nên, các kết luận tìm thấy từ mẫu các nước châu Âu có thể không phù hợp để áp dụng tại các nước châu Á. Sự mâu thuẫn và hoài nghi trong các kết luận tìm thấy về mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế đã dẫn đến khoảng trống nghiên cứu và nhu cầu cần thiết làm sáng tỏ, kiểm định lại tác động thực của sự phát triển tài chính lên tăng trưởng kinh tế. Vì vậy bài nghiên cứu này phân tích tác động của sự phát triển tài chính lên tăng trưởng kinh tế với mẫu các quốc gia châu Á với những đặc thù của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, từ đó xác định mức ngưỡng phát triển tối ưu cho hệ thống tài chính- ngân hàng của các nền kinh tế này và đề xuất các gợi ý chính sách về phát triển hệ thống tài chính- ngân hàng để duy trì tăng trưởng kinh tế. 3. Phương pháp và dữ liệu nghiên cứu Mẫu nghiên cứu gồm 33 quốc gia châu Á trong giai đoạn 2004- 2016. Số liệu về các nước trong mẫu được đánh giá trên cả hai phương diện: Khu vực ngân hàng và TTCK. Ngoài ra, khi phân tích về TTCK, mẫu phải loại trừ 5 trường hợp Brunei, Maldives, Cambodia, Myanmar, Taijikistan vì các nước này không có TTCK hoặc khoảng thời gian thiếu dữ liệu, do phương pháp hồi quy ngưỡng trên Fixed Effect đòi hỏi dữ liệu phải là dạng bảng cân bằng. Vì thế các phân tích dựa trên số liệu TTCK chỉ còn 28 quốc gia trong giai đoạn 2004- 2012. Dữ liệu được thu thập từ Ngân hàng Thế giới (WB), Thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP). Phương pháp phân tích dùng ước lượng hồi quy ngưỡng cho dữ liệu bảng được đề xuất bởi Hansen (1999) kết hợp với Fixed Effect theo Wang (2015), dùng ước lượng bootstrap để kiểm định giả thuyết Ho là không tồn tại ngưỡng. Các nước trong mẫu bao gồm Bahrain, Brunei, Israel, Japan, South Korea, Kuwait, Qatar, Saudia Arab, Singapore, UAE, Armenia, China, Bảng 1. Các biến số trong mô hình nghiên cứu Nhân tố Ký hiệu biến Nội dung Đơn vị Nguồn Biến phụ thuộc Tăng trưởng kinh tế GROWTH tốc độ tăng trưởng GDP thực hằng năm % WDI Biến độc lập Sự phát triển của hệ thống tài chính – ngân hàng (FD) privatecre Tỷ số tín dụng cho khu vực tư nhân trên GDP % WDI domescre Tỷ số tín dụng trong nước trên GDP % WDI liq Cung tiền M3 trên GDP % GFDD sm_turnover Tỷ suất sinh lợi của TTCK % GFDD sm_capliz Tỷ số Quy mô vốn hóa của TTCK trên GDP % GFDD Biến kiểm soát Dân số pop Tỷ lệ gia tăng dân số hàng năm % WDI Thu nhập income GDP bình quân đầu người WDI Đầu tư invest Tỷ số đầu tư vốn gộp trên GDP % WDI Thương mại tradeop Độ mở thương mại % so với GDP % WDI Lạm phát infla chỉ số lạm phát tính theo CPI % WDI Thể chế inst Điểm số trung bình trên 6 phương diện WGI Vốn con người mys Số năm đi học trung bình năm UNDP hci Chỉ số phát triển con người UNDP Nguồn: Law và Singh (2014) QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 59Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 199- Tháng 12. 2018 Iran, Jordan, Kazakhstan, Maldives, Malaysia, Russia, Thailand, Turkey, Bangladesh, Cambodia, India, Indonesia, Kyrgyz Republic, Mongolia, Myanmar, Pakistan, Phillipines, Sri Lanka, Vietnam, Nepal, Taijikistan. Kế thừa từ nghiên cứu của Law và Singh (2014), phương trình nghiên cứu có dạng: GROWTH it = μ i + β 1 FD it-1 I(FD it-1 ≤ λ) + δ 1 I(FD it-1 ≤ λ) + β 2 FD it-1 I(FD it-1 > ... hụ thuộc. Các kết quả này đều có ý nghĩa thống kê. Trong mô hình hồi quy này, biến mys vẫn không đạt ý nghĩa thống kê. Tác giả thay thế biến mys bằng biến hci (phản ánh chỉ số chất lượng con người); kết quả hệ số tương quan của biến này đạt ý nghĩa thống kê nhưng lại phản ánh tác động ngược chiều với tăng trưởng, là sự khác biệt so với các kết quả nghiên cứu trước đây tại các nền kinh tế châu Âu và Mỹ, đó cũng là điểm đặc trưng của các nước châu Á. Nền kinh tế tăng trưởng nhưng chỉ số thu nhập của người dân không được cải thiện, các đô thị lớn phát triển kinh tế mạnh mẽ cũng là nơi dân cư đổ dồn về sinh sống, mật độ tập trung dân cư cao, chất lượng cuộc sống không được cải thiện. Tăng trưởng nóng thì các chỉ số phát triển con người lại sụt giảm Tóm lại, kết quả hồi quy là nhất quán cho thấy mức tối ưu tín dụng dành cho khu vực tư nhân chỉ nên là 8,8375% so với GDP, Tín dụng trong nước là 10,3827% so với GDP, cung tiền mở rộng M3 chỉ nên là 18,4802% so với GDP, Quy mô vốn hóa TTCK không vượt quá 95,68% so với GDP, tỷ suất sinh lợi của TTCK là 31,7437%. Sự phát triển tài chính có vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi giá trị của nó chưa vượt mức ngưỡng tối ưu, hàm ý rằng trong dài hạn, sự phát triển của hệ thống tài chính- ngân hàng vẫn giữ vai trò là nhân tố quan trọng trong việc làm gia tăng mức sản lượng của nền kinh tế, miễn là đừng phát triển vượt quá mức tối ưu của nó. 5. Kết luận và đề xuất cho phát triển hệ thống tài chính- ngân hàng hướng đến tăng trưởng kinh tế Kết quả phân tích với các chỉ tiêu đo lường sự phát triển tài chính đều đạt ý nghĩa thống kê và các kết quả nhất quán với nhau, cũng như tương đồng với nhận định của các chuyên gia kinh tế của IMF trong thời gian gần đây. Điều này cho thấy sự phát triển của hệ thống tài chính- ngân hàng thực sự là nhân tố quan trọng, đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế. Kết quả nghiên cứu này xác nhận rằng không chỉ tại các quốc gia châu Âu hay châu Mỹ, mà tại các nước đang phát triển châu Á- là các nền kinh tế đang tập trung hết nguồn lực hướng đến tăng trưởng nhanh- thì sự phát triển dành cho hệ thống tài chính nói chung và khu vực ngân hàng nói riêng cũng chỉ nên đạt đến mức ngưỡng. Đó là mức tối ưu mà các chính phủ cần hướng đến và có chính sách khuyến khích phát triển để có thể phát huy các nguồn lực về vốn vật chất một cách hiệu quả, để đạt được tăng trưởng kinh tế như mục tiêu mà các nước này kỳ vọng. Phát triển hệ thống tài chính- ngân hàng quá nhiều sẽ dẫn đến khu vực tài chính cạnh tranh nguồn lực khan hiếm với phần còn lại của nền kinh tế, dẫn đến là khu vực này càng tăng trưởng mạnh thì các ngành còn lại bị thiệt hại, không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn mà còn gây tác động tiêu cực, kìm hãm nền kinh tế tăng trưởng. Vì vậy, vấn đề ở đây là phát triển hệ thống tài chính- ngân hàng tại các quốc gia châu Á không phải là hoạt động mở rộng hệ thống ngân hàng hay TTCK mà các giải pháp cần tập trung hướng đến khai thác tính hiệu quả và vai trò tích cực của khu vực này. Có như vậy trong dài hạn mới hướng đến mục tiêu mà các nước này đang theo đuổi là tăng trưởng nền kinh tế bền vững, giảm khoảng cách với các quốc gia đã phát triển trên thế giới. Do đó, để tăng tính hiệu quả và vai trò tích cực của hệ thống tài chính- ngân hàng tại các quốc gia châu Á, chúng tôi đề xuất các giải pháp sau: Thứ nhất, cơ cấu phát triển và cách thức quản lý hệ thống tài chính- ngân hàng cần linh hoạt, tăng khả năng cạnh tranh. Thực trạng hiện tại của các nước châu Á đang phát triển, trong đó có Việt Nam, việc cung ứng vốn cho nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng. Mặc dù còn một số ít quốc gia chưa hình thành TTCK do nền kinh tế còn lạc hậu và chưa đủ tiềm lực như Myanmar, Cambodia, Taijikistan hay do điều kiện đặc biệt về địa lý và tài nguyên thiên nhiên như Brunei, Maldives, thì hầu hết các nước châu Á đều có thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, TTCK và thị trường QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 63Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 199- Tháng 12. 2018 trái phiếu. Tuy nhiên, các thị trường này phát triển không đồng đều, không tạo nên một môi trường cạnh tranh thực sự về vốn. Vì thế việc các nước này cần làm trong chiến lược phát triển hệ thống tài chính- ngân hàng của họ không phải là bành trướng, mở rộng về quy mô hay số lượng mà phải tập trung hướng đến phát triển theo chiều sâu, tăng hiệu quả và tăng giá trị mới là mục đích hướng đến. Việc chọn lựa cơ cấu để phát triển hệ thống tài chính- ngân hàng cần đảm bảo nguyên tắc linh hoạt, tôn trọng thị trường. Các giải pháp cụ thể bao gồm: Cải thiện thể chế và tổ chức trong hệ thống tài chính- ngân hàng; quy định và luật pháp liên quan đến hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính cần chặt chẽ, rõ ràng để thực thi, đảm bảo việc giám sát chặt chẽ để làm giảm bất cân xứng thông tin, tăng sự hoàn thiện của thị trường; trao quyền hợp lý để tăng khả năng cho các tổ chức tham gia vào các giao dịch tài chính bằng hợp đồng, giảm chi phí giao dịch, tăng sự cạnh tranh; cải tiến, đổi mới sản phẩm tài chính, nâng cao năng lực của các chủ thể và tổ chức trong hệ thống tài chính- ngân hàng. Thứ hai, nhằm nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động của hệ thống tài chính- ngân hàng thì minh bạch thông tin cần là mục tiêu hàng đầu trong việc xây dựng các chiến lược hoạt động, hành lang pháp lý, quy chế và quy định cho hoạt động của hệ thống ngân hàng và các định chế tài chính trung gian khác, cho hoạt động giao dịch trên các thị trường vốn và TTCK. Thậm chí, trong công tác đào tạo từ bậc giáo dục đại học hay đào tạo nhân sự chuyên sâu cũng cần nhấn mạnh tầm quan trọng và hình thành thói quen, cách suy nghĩ và hành động hướng tới minh bạch thông tin. Tăng cường giám sát và xử lý phạt nặng các vi phạm về che dấu thông tin hay không đảm bảo minh bạch thông tin gây thiệt hại cho các chủ thể tham gia thị trường. Có như vậy mới có thể cải thiện dần tình trạng bất cân xứng thông tin rất phổ biến tại các nước nghèo, chậm phát triển. Ngoài ra, cần đảm bảo an toàn và hiện đại hóa hệ thống tài chính- ngân hàng; chính sách tiền tệ linh hoạt; cũng như nâng cao vai trò của các chủ thể tham gia hệ thống tài chính- ngân hàng; giảm chi tiêu Chính phủ để giảm bội chi ngân sách; cải thiện hiệu quả sử dụng các khoản chi của Chính phủ để khoản tiền ngân sách chi tiêu đem lại tác động tích cực cho GDP; đầu tư tập trung và hiệu quả, tăng cường hiệu quả đầu tư từ vốn nhà nước bằng cơ chế quản lý rõ ràng đối với các chủ thể tham gia. Các giải pháp nói trên không rời rạc mà nằm trong một tổng thể quá trình cải thiện về số lượng, chất lượng và hiệu quả của hệ thống tài chính- ngân hàng. Trên đây là một số đề xuất của tác giả, hy vọng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho giới chuyên môn. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng không tránh khỏi mặt hạn chế là số quốc gia có đủ dữ liệu để thu thập còn ít, nên cỡ mẫu nhỏ. Một số biến trong mô hình chưa đạt được ý nghĩa thống kê. Vì vậy, hướng nghiên cứu mở rộng cho tác giả sau này là mở rộng mẫu quan sát lớn hơn, nghiên cứu thêm các nhân tố khác như địa chính trị, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo để có những phân tích chuyên sâu phù hợp với những nền kinh tế đang phát triển và phù hợp với bối cảnh thế giới đang hướng đến cách mạng công nghiệp 4.0. ■ Tài liệu tham khảo 1. Anwar, S. & Lan Phi Nguyen, (2011), “Financial development and economic growth in Vietnam”, Journal of Economics and Finance, 35, 348-360. 2. Andersen, T.B.& Tarp, F. (2003), “Financial liberalization, financial development and economic growth in LDCs”, Journal of International Development, 15 (2), 189–209 3. Arcand, J., Berkes, E., Panizza, U. (2012), “Too Much Finance?”, International Monetary Fund.Research Department 4. Bayar, Y. (2014), “Financial Development and Economic Growth in Emerging Asian Countries”, Asian Social Science, Vol. 10, No. 9 5. Beck, T., Levine, R. & Loayza, N. (2000), “Finance and the sources of growth”, Journal of Financial Economics, 58(1), 261–300 6. Beck, T. & Levine, R. (2004), “Stock markets, banks, and growth: panel evidence”, Journal of Banking and Finance 28 (3), 423–442. 7. Beck, T., Demirgüç-Kunt, A. & Maksimovic, V. (2005), “Financial and legal constraints to firm growth: does size matter?”, QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 64 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 199- Tháng 12. 2018 Journal of Finance 60 (1), 137–177. 8. Ben-David, D. (1993), “Equalizing exchange: Trade liberalization and income convergence”, Quarterly Journal of Economics, 108(3). 9. Cecchetti, G. & Kharroubi, E. (2012), “Reassessing the impact of finance on growth”, BIS Working Paper No. 381. Bank for International Settlements. 10. Deidda, L. & Fattouh, B. (2002), “Non-linearity between finance and growth”, Economics Letters, 74(3), 339–345. 11. Dollar, D. (1992), “Outward-oriented developing economies really do grow more rapidly: Evidence from 95 LDCs 1976– 85”. Economic Development and Cultural Change, 523–544. 12. Dollar, D. & Kraay, A. (2003), “Institutions, trade, and growth”, Journal of International Economics, 50, 133–162. 13. Durusu, D., Serdar, I.M, Yetkiner, H. (2016), “Financial Development and Economic Growth: Some Theory and More Evidence”, Journal of Policy Modeling, 39, 290-306 14. Easterly, W. & Levine, R. (2001), “What have we learned from a decade of empirical research on growth? It’s not factor accumulation: Stylized facts and growth models”,World Bank Economic Review, 15(2), 177–219. 15. Gurley, J. G. & Shaw, E. S. (1955), “Financial aspects of economic development”,The American Economic Review, 45(4), 515–538. 16. Hansen, B.E. (1999), “Threshold effects in non-dynamic panels: Estimation, testing, and inference”, Journal of Econometrics 93 (1999) 345-368 17. Harrison, A. (1996), “Openness and growth: A time-series, cross-country analysis for developing countries”, Journal of Development Economics, 48, 419–447. 18. Hartmann, P., Heider, F., Papaioannou, E., Duca, M.L. (2007), The Role of Financial Markets and Innovation in Productivity and Growth in Europe. Occasional Paper Series No: 72. European Central Bank 19. Johannes, T.A., Njong, A.M., Cletus, N. (2011), Financial development and economic growth in Cameroon, 1970-2005. Journal of Economics and International Finance, 3, 367-375 20. Khan, M. S.& Senhadji, A. S. (2003), “Financial development and economic growth: A review and new evidence”, Journal of African Economies, 12(2), 89–110. 21. King, G.R. & Levine, R. (1993a), “Finance and growth: Schumpeter might be right”, Quarterly Journal of Economics 108 (3), 717–737. 22. King, G.R. & Levine, R. (1993b), “Finance, entrepreneurship and growth”, Journal of Monetary Economics 32 (3), 1–30. 23. Mankiw, N. G. (2011), Kinh tế học vĩ mô. Dịch từ tiếng Anh. Người dịch: GV Đại học Kinh tế Tp.HCM, 2014. Singapore: Cengage Learning. 24. Law, S. H. & Singh, N. (2014), “Does too much finance harm economic growth?”,Journal of Banking and Finance, 41, 36–44. 25. Levine, R. (1997), “Financial development and economic growth: views and agenda”, Journal of Economic Literature 35 (2), 688–726. 26. Levine, R., Zervos, S. (1998), Stock markets, banks and economic growth. American Economic Review 88 (3), 537–558 27. Levine, R., Loayze, N. & Beck, T. (2000), “Financial intermediation and growth: causality and causes”, Journal of Monetary Economics 46 (1), 31–77. 28. Levine, R. (2003), “More on finance and growth: more finance, more growth?”, Federal Reserve Bank of St. Louis Review 85 (July), 31–46. 29. Levine, R. (2005), Finance and Growth: Theory and Evidence, Handbook of Economic Growth, in: Philippe Aghion & Steven Durlauf (ed.), Handbook of Economic Growth, edition 1, volume 1, chapter 12, pages 865-934. 30. Lopez, L. & S. Weber. (2017), “Testing for Granger causality in panel data”,The Stata Journal, 17, Number 4, 972–984 31. Lucas, R. E. (1988), “On the mechanics of economic development”, Journal of Monetary Economics, 22, 3–42 32. Nguyễn Trọng Hoài (2006), Bài giảng môn Tài chính phát triển, Chương trình kinh tế Fulbright Việt Nam 33. McKinnon, R.I. (1973), Money and capital in economic development, Washington: Brookings Institution Press. 34. Rajan, R. & Zingales, L. (1998), Financial dependence and growth. American Economic Review 88 (3), 559–586. 35. Samargandi, N., J. Fidrmuc & S. Ghosh. (2014), “Is the relationship between Financial Development and Economic Growth monotonic? Evidence from a sample of Middle-income countries”, World Development, Vol. 68, pp. 66-81. 36. Shaw, E. S. (1973), Financial deepening in economic development, New York: Oxford University Press 37. Schumpeter, J. A.& Opie, R. (1934), The theory of economic development: An inquiry into profits, capital, credit, interest, and the business cycle, Cambridge, Mass.: Harvard University Press. 38. Shun-Jen H., Y. Hu, C.Tu. (2013), Economic growth and financial development in Asian countries: A bootstrap panel Granger causality analysis. Economic Modelling 32 (2013) 294–301 39. Wang, Q. (2015), “Fixed-effect panel threshold model using Stata”, The Stata Journal (2015) 15, Number 1, 121–134 40. Zarrouk, H., Ghak, T.E., Haija, E.A. (2016), “Financial development, Islamic Finance and economic growth: evidence from UAE”, Journal of Islamic Accounting and Business Research, 1, 2-22 QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG & DOANH NGHIỆP 65Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 199- Tháng 12. 2018 Thông tin tác giả Phan Thị Bích Nguyệt, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đại học Kinh tế Tp.HCM Email: nguyettcdn@ueh.edu.vn Phạm Dương Phương Thảo, Thạc sĩ Khoa Tài chính, Đại học Kinh tế Tp.HCM Email: pdpthao@ueh.edu.vn Summary Threshold of financial- banking system development in Asian countries By threshold regression for panel data, this study provides a new empirical evidence on development of financial - banking system for enhancing economic growth in 33 Asian countries (including Vietnam). The results confirm that relationship of financial-banking system development and economic growth is nonlinear. There is a threshold at which financial-banking system development shows positive effects on growth of GDP; beyond this turning point financial-banking system development will negatively impact on growth. This implies that high level of financial-banking system development is not always beneficial for national economic growth. Nowadays, an optimal level of financial-banking system development which fosters sustainable growth should be taken into consideration for those countries. Key words: Financial-banking system development, economic growth, nonlinear relationship. Nguyet Thi Bich Phan, Assoc. Prof. PhD. University of Economics Ho Chi Minh City Thao Duong Phuong Pham, MEc. University of Economics Ho Chi Minh City, School of Finance
File đính kèm:
- gioi_han_phat_trien_he_thong_tai_chinh_ngan_hang_tai_cac_quo.pdf