Giáo trình Thiết kế mẫu đặc thù
BÀI 1: CHẾ BẢN DANH THIẾP
1.Name Card Design
Một Name Card tốt giúp công ty nhận được sự chú ý và nâng niu từ đối tác. Nó phô
trương sức mạnh, sự chuyên nghiệp và giá trị của công ty. Một công ty phát đạt luôn quan
tâm tới tiếp thị và một công ty quan tâm đến tiếp thị không bao giờ chấp nhận một Name
Card mờ nhạt.
Một Name Card tốt thường là sự kết hợp giữa tính đơn giản và tính độc đáo, nhưng điều
quan trọng là nó phải thể hiện được giá trị tiềm ẩn và thông điệp về lĩnh vực ngành nghề
của công ty.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Thiết kế mẫu đặc thù", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Thiết kế mẫu đặc thù
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI Chủ biên: Lê Thị Thanh Hương Đồng chủ biên: Nguyễn Thị Thanh Xuân GIÁO TRÌNH THIẾT KẾ MẪU ĐẶC THÙ (Lưu hành nội bộ) Hà Nội năm 2013 1 BÀI 1: CHẾ BẢN DANH THIẾP 1.Name Card Design Một Name Card tốt giúp công ty nhận được sự chú ý và nâng niu từ đối tác. Nó phô trương sức mạnh, sự chuyên nghiệp và giá trị của công ty. Một công ty phát đạt luôn quan tâm tới tiếp thị và một công ty quan tâm đến tiếp thị không bao giờ chấp nhận một Name Card mờ nhạt. Một Name Card tốt thường là sự kết hợp giữa tính đơn giản và tính độc đáo, nhưng điều quan trọng là nó phải thể hiện được giá trị tiềm ẩn và thông điệp về lĩnh vực ngành nghề của công ty. Trong bất kỳ trường hợp nào, Name Card cần được thiết kế sao cho tạo cảm giác sang trọng, đơn giản và ấn tượng ngay ở cái nhìn đầu tiên. Mục đích là để người được nhận Name Card có cảm giác trân trọng, nâng niu Name Card và gọi điện ngay cho khi trong đầu họ phát sinh nhu cầu đến sản phẩm. 2 Name Card phải diễn tả được một số đặc trưng của công ty như sản phẩm, màu sắc, tính cách Name Card cũng giống như nhãn hiệu, nó là tài sản riêng của mỗi công ty. Nó không chỉ có chức năng lưu thông tin liên hệ, mà nó còn có giá trị về thương hiệu do đó nó mang giá trị về tinh thần của mỗi công ty. 2.Một Name Card thế nào là có giá trị Theo các chuyên gia thiết kế của IDIBRAND cho rằng một Name Card thể hiện được màu sắc, được thiết kế đơn giản phù hợp với dòng sản phẩm, lĩnh vực kinh doanh của công ty làm sao để mới thoáng nhìn qua, người ta đã phán đoán được nội dung tiềm ẩn, các giá trị mà Name Card đó mang theo. Màu sắc của Name Card hầu hết được suất phát từ màu sắc Logo của công ty. Cũng giống như màu sắc của Logo, màu sắc của Name Card có ảnh hưởng rất lớn đến thời gian mà người tiêu dùng nhận ra nó. Các chuyên gia thiết kế cho rằng màu sắc của Name Card càng ít màu càng tốt. Tuy rằng trong thực tế vẫn có những Name Card rất nhiều màu sắc nhưng vẫn hiệu quả vì chúng được kết hợp một cách khéo léo để tạo nên một ấn tượng đặc biệt nào đó. Bên cạnh màu sắc, hình dáng, đường nét của Name Card cũng rất quan trọng. Nó có ảnh hưởng rất lớn tới thời gian mà Name Card được nhận ra và ghi nhớ trong đầu khách hàng. Theo các chuyên gia của IDIBRAND khẳng định: “Một Name Card thành công nhất khi mà nhà thiết kế sử dụng màu sắc, kiểu chữ một cách nhất quán, với những đường nét thống nhất thậm chí được tuân theo những quy luật nhất quán với các yếu tố khác nhau của thông tin tiếp thị” Một Name Card mang thông tin tiếp thị hiệu quả sẽ tạo ra một giá trị vô hình và sự trân trọng mà khách hàng dành cho công ty. Nó là tài sản, là giá trị tinh thần của công ty và đôi khi nó còn quan trọng hơn cả những tài sản hữu hình. Thiết kế card visit Những điều cơ bản cần biết khi thiết kế card visit Font chữ: dễ đọc với cỡ chữ đủ lớn, không dùng quánhiều font chữ.* Tên công ty: Chữ không chân, gần gũi, có thể in đậm Tên người: Chữ không chân, trang trọng, lớn hơn hoặc bằng "Tên côngty", in đậm Chức vụ: Font chữ nhẹ hơn "Tên người" 3 Vị trí: Tên công ty: Nằm vị trí nổi bật, dễ nhìn. Nên đặt trên cùng, bênphải hoặc ở giữa Các thông tin cần có: Tên người Chức vụ Số điện thoại (Giao dịch/ cá nhân) Số fax, email, website Logo, slogan của công ty : Logo là đối tượng lớn nhất, nổi bật nhấttrên name card Màu sắc: Card visit màu trắng là sự lựa chọn tốt nhất, tuy nhiên một sốtrường hợp màu sắc sẽ giúp name card nổi bật hơn. Có thể sử dụng bất kỳ màu nào nhưng bắt buộc phải có sự tương phản giữa chữ và nền. 3.Thiếp cưới, thiệp mời 3.1.Thiệp mời In thiệp mừng, in thiệp mời trang trọng và lịch sự gắn với thương hiệu của doanh nghiệp trao gửi tới khách hàng những tình cảm tốt đẹp đã trở thành một nét văn hóa đẹp trong xã hội hiện đại. Thiệp mừng, thiệp mời cũng là một ấn phẩm quảng cáo quan trọng, tạo dược nhiều thiện cảm với khách hàng. Việc thiết kế và in thiệp mừng, thiệp mời là một khâu quan trọng trong quá trình gây dựng thiện cảm đó. 4 Thiết kế thiệp mừng, thiệp mời đẹp mắt, nâng niu những tình cảm tốt đẹp trao gửi tới khách hàng, đối tác. In thiệp mừng thiệp mời thường sử dụng giấy Coucher định lượng từ 200gsm-300gsm tùy theo kích thước và yêu cầu của khách hàng. Sản phẩm thường được cán bóng, hoặc cán mờ nhằm tăng tính sang trọng của thiệp. 3.2.Thiệp cưới - Quá trình phát triển Thiệp cưới ngày nay có thể được in bằng nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, lịch sử và nguồn gốc của thiệp cưới lại liên quan mật thiết đến sự phát minh ra máy in. Thiệp cưới là một lá thư trang trọng gửi đến nhiều vị khách để mời họ tham dự lễ cưới. Thiệp cưới được gửi trước ngày cưới từ 4-6 tuần để thông báo thời gian buổi lễ. Nhờ đó, 5 các khách mời có thể sắp xếp đến tham dự. Thời trung cổ, đám cưới ở Anh đã được thông báo bằng lời nói. Một anh rao tin được sử dụng để đi dọc các tuyến phố để thông báo về đám cưới thay cho thiệp cưới. Hơn nữa, do nạn mù chữ, thông lệ gửi thiệp cưới có nguồn gốc từ tầng lớp. Các gia đình thường triệu tập các tu sĩ, những người có nhiều kỹ năng trong nghệ thuật thư pháp để chuẩn bị lời mời thiệp cưới giúp họ. Những thiệp cưới này được niêm phong bằng sáp và thường mang theo huy hiệu hoặc hình dấu cá nhân Johannes Gutenberg (khoảng năm 1390 – 3 tháng 2 năm 1468), là một công nhân đồng thời là một nhà phát minh người Đức. Ông trở nên nổi tiếng vì phát minh ra phương pháp in dấu vào năm những năm 1450. Trong kĩ thuật này, mực được in đơn giản lên giấy nên thiệp cưới ngày đó còn kém chất lượng. Ngoài ra, truyền thống thông báo thiệp cưới đám cưới qua báo chí cũng trở nên phổ biến trong thời gian này. Năm 1642, thuật in khắc lên mặt kim loại của Ludwig von Siegen ra đời đã góp phần cải thiện chất lượng thiệp cưới, giúp chúng (thiệp cưới) tiếp cận tầng lớp trung lưu mới nổi. 6 Kỹ thuật in khắc thiệp cưới yêu cầu một nghệ nhân “viết tay” văn bản dạng đảo ngược lên một tấm kim loại bằng dụng cụ khắc. Sau đó tấm kim loại này được dùng để in thiệp cưới. Khi in, thiệp cưới được giữ cho khỏi nhòe nhờ 1 tờ giấy lụa mỏng đặt bên trên. Cách thức truyền thống này vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Thời đó, nội dung của thiệp cưới đã bắt đầu phức tạp hơn. Trên thực tế, tên của mỗi khách mời được in riêng trên thiệp cưới. Năm 1978, Alois Senefelder phát minh ra thạch bản. Với sự trợ giúp của kỹ thuật hiện đại, người ta đã có thể sản xuất loại mực rất sắc nét mà ko cần sử dụng phương pháp in khắc thiệp cưới. Trên thực tế, điều này đã dẫn tới sự xuất hiện của một thị trường thiệp cưới đại trà thực thụ. Tuy nhiên, do sự thiếu tin cậy của hệ thống bưu chính non trẻ, thiệp cưới vẫn thường được những người đưa thư cưỡi ngựa gửi đi. Để giữ thiệp cưới khỏi bị hư hại, người ta đã sử dụng 2 lớp phong bì bọc thiệp cưới. Truyền thống này thậm chí vẫn còn được tiếp tục đến ngày nay. Tuy nhiên, nguồn gốc của những tấm thiệp cưới in thương mại đã có từ thời kì ngay sau chiến tranh thế giới II. Trong thời gian này, phong trào dân chủ kết hợp với sự tăng trưởng công nghiệp nhanh chóng đã khiến quần chúng có thể bắt chước theo phong cách sống của tầng lớp thượng lưu. Hơn nữa, các nhân vật tiếng tăm như Amy Vanderbilt và Emily Post cũng bắt đầu tư vấn cho những ngươi bình thường về phong cách sống. Ngoài ra, việc sử dụng thiệp cưới càng được ưa chuộng hơn bởi sự phát triển của phép nhiệt kí thiệp cưới. Mặc dù in nhiệt ko mịn và nổi bật như in khắc, nhưng nó là phương pháp ít tốn kém để hoàn thành kiểu in nổi. Kết quả, kỹ thuật này thường được gọi là phương pháp in khắc cho người nghèo. Không giống như in khắc truyền thống, phương pháp này tạo ra những chữ cái nổi và sáng trên thiệp cưới mà không cần ấn mạnh vào mặt giấy. Nhờ vậy, thiệp cưới vừa in vừa khắc rốt cuộc đã có mức giá phải chăng cho tất cả mọi người. 7 Vào thời nhà THANH người Trung Hoa phát minh ra cách "In Bằng Màn Lưới" tức in Lụa ngày nay. Họ lấy một thỏi đồng nướng nóng, dập cán cho thật phẳng và mỏng.Họ khéo léo đục khoét "Trổ" những chi tiết, chũ hình theo mẫu để cho mực xuyên qua bên dưới, gọi là cái "Rập" lấy mực dấm phết lên chổ "Trổ" mực xuyên qua phía dưới dính vào tấm giấy phía dưới. Xong tấm này làm tiếp tấm khác và cứ thế từng tấm từng tấm giấy được in ra nhân lên kết quả năng suất rất cao và thật đều giống nhau. Với kết quả này vào thời kỳ đó là một phát minh và là một kỳ công đáng kể. Họ chưa chịu ngừng lại ở sự thành công "Trổ Rập" này mà họ luôn luôn mày mò sáng tạo, họ đóng một khung bằng gỗ, trên đó họ căn lên tấm lưới dệt bằng sợi tóc, rồi cắt các chi tiết chữ thiệp cưới, hình bằng giấy dán lên là hoàn thành công đoạn chế bản "In Bản màn Lưới" Tuy lượm thuộm nhưng việc này cũng giống như phương pháp in lụa ngày nay. Thể thức và phương pháp in lúc bấy giờ còn rất là thô sơ. Đến năm 1885 ngành "In Lụa" thiệp cưới bắt đầu lang truyền sang Châu âu, Anh, Pháp, Đức, Thụy Sỉ.......Họ cải tiến từ cách đóng khung gỗ cho chắc và không cong vênh, cách căn lụa cho thật thẳng, cách gắn bản lề khung lụa lên bàn in, nhất là phương pháp "Chế bản in" cho bền chắc và sắc nét. Đến đầu thế kỷ 20 các nước phát triển khắp thế giới đều biết đến "In Lụa". Sự phát triển sau đó một thời gian bị khựng lại, dậm chân tại chổ vì bị ảnh hưởng của chiến tranh thế giới lần thứ nhứt In Lụa thời bấy giờ tuy có mặt ở nhiều nước trên thế giới, nhưng về mặt kỹ thuật thiệp cưới chưa thật hoàn hảo. Mãi đến sau năm 1945 (Sau thế chiến thứ hai) ngành In Lụa mới thật sự đi vào công nghệ hóa. Châu Âu, Châu Mỹ bắt đầu vươn lên 8 trong lĩnh vực này, các kỹ sư, kỹ nghệ gia bắt đầu nghiên cứu. Thụy sỹ nghiên cứu và chế tạo ra Lụa (Hiệu Mony,Nybolt) Anh và Đức chế tạo ra các loại mực in thiệp cưới chuyên dùng cho ngành in lụa. Mỹ có tiếng về phát minh các loại Film làm chế bản in thiệp cưới, Pháp thì rất thành công về màu vẽ và nhũ tương làm chế bản lụa thủ công, in bông trên vải sợi, tơ lụa như sau: Trước tiên phát họa thiết kế thiệp cưới (Bản mẫu chính) vẽ bông gì đó, 5,6 hay7 màu tùy theo yêu cầu, kích cở chiều dài (Thường dựa vào khổ vải) 0.8m hoặc 1,2m. Chiều ngang từ 0,35m đến 0,45m. Bản mẫu phải phẳng trên mặt bàn dán dính định vị đừng cho xe dịch. Tiếp theo nấu keo Gum Arabic với nước cho hòa tan, cho bột màu Pigment vô trộn đều (Màu gì tùy ý, mục đích để khi tô vẽ dễ phân biệt chổ có và chổ không có tô vẽ) Màu+Gum Arabic (Anh) hoặc Arabique (Pháp) đã pha trộn, lấy cây cọ tô vẽ một lớp lên màn lưới khung lụa (đang chồng lên maquette), nhìn thấy maquette phía dưới màn lưới- Chỉ chọn tô vẽ một màu nào đó gọi là "Tách màu" Nghĩa là mỗi một khung lụa chỉ tô vẽ tách lấy một màu duy nhất. Thí dụ: Khung lụa thứ nhất chỉ tô vẽ phấn "Màu Xanh" Khung lụa thứ hai tô vẽ tách phần "Màu đỏ"...v...v.... Tô vẽ tách màu xong chờ cho thật khô, lấy dầu bóng của sơn dầu Bạch Tuyết tráng đều lên toàn bộ lọt lòng khung đã tô vẽ, chờ dầu bóng khô, mang khung lụa này "Ngâm nước" khoản độ 10 phút, lấy bông gòn chà nhẹ, bột màu tô vẽ bị thấm nước nhanh chóng tan rã hết, còn lại phần dầu bóng- Bấy giờ khung lụa có hai phần. Phần bít để cản không cho mực xuyên qua bên dưới-Phần còn lại có khoảng trống thông suốt để cho mực xuyên qua xuống phía bên dưới-Dính lên sản phẩm. Đến đây coi như đã hoàn thành việc "Chế Bản Lụa" sẳn sàn chuyển qua khâu in thiệp cưới. Đầu thập niên 1950 phương pháp làm chế bản lụa để in bông trên vải sợi, tơ lụa nêu trên (sáng chế của Pháp) được ông PHẠM ĐẠT TIẾN (1913-1962) ông tốt nghiệp Kỹ Sư bên Pháp, nhưng không thích ê-tô mỏ lếch mà yêu nghề in lụa từ Pháp về Việt Nam - Mở xưởng in bông ở Sài gòn.Chuyên gia công in bông cho nhiều hảng dệt vải khắp Sài gòn- Chợ lớn. Ngoài việc in bông trên vải gia công, ông Tiết còn in nhiều mặt hàng khác như: Tặng phẩm, quà lưu niệm,Thiệp giáng sinh,Thiệp chúc tết, Thiệp cưới, Lịch treo tường,, giỏ xách, túi du lịch, kiếng thủy tinh, Chai, Ly, Lọ, Bao bì giấy và nhiều mặt hàng khác.......v...v.... Và ngành in lụa hiện nay đã áp dụng rất phổ biến tại Việt Nam trong việc in thiệp cưới. Nhưng với hạn chế về mặt thủ công, về con người, về khí hậu in lụa đã rất lạc hậu. 9 Chất lượng bản in thiệp cưới không đồng đều, không sắc nét, tốc độ chậm lại hay bẩn thiệp cưới. Chính vì vậy mà Thiệp cưới Cung Hỷ đã tìm đến một công nghệ in khác để khắc phục những nhược điểm của in lụa (in lưới). Đó là in offset lên thiệp cưới. Đây là phương pháp in phổ biến nhất và cũng phương pháp in được nhắc đến nhiều nhất đối với những người làm design thiết kế. Nguyên lý của phương pháp in này đơn giản nhưng khó hình dung nếu chưa được tay sờ mắt thấy "hiện vật". In offset là phương pháp in theo nguyên lý in phẳng, tức là trên khuôn in hình ảnh, chữ viết và những vùng không in đều có độ cao bằng nhau (khi nhìn lên bề mặt tấm bản in ta chỉ thấy nó... phẳng lì như tờ giấy, chả thấy chìm nổi gì hết). Người ta đã ứng dụng sự đẩy nhau giữa dầu và nước. Khuôn in làm từ một tấm nhôm mỏng (khoảng 0.25mm), trên khuôn in, phần trắng (không in) có bề mặt là nhôm, còn phần tử in (hình ản, chữ viết) được cấu tạo từ một lọai nhựa đặc biệt gọi là nhựa diazô. Lớp nhựa này có tính chất hút dầu, đẩy nước, và mực in offset là loại mực (có gốc) dầu. Trong quá trình in, trước tiên bề mặt khuôn in đuợc chà một lớp nước mỏng, lớp nước này sẽ dính ướt vào vùng không in (chính là lớp nhôm đó). Sau đó khuôn in mới được chà mực. Vì mực có gốc dầu nên nó không thể dính vào phần trắng trên khuôn in (đang dính nước) được, mà chỉ bắt dính lên phần tử in là nhựa diazo ưa dầu mà thôi. Chính vì vậy dù khuôn in phẳng lì nhưng khi chà mực, mực nó không chà... tùm lum lên bề mặt khuôn mà chỉ truyền đúng vào phần tử in tạo thành hình ảnh, chữ viết trên bề mặt khuôn in mà thôi. Và sau đó, khi ép in lên bề mặt vật liệu in sẽ cho ra hình ảnh cần in thiệp cưới. Vì sao gọi là offset (offset = truyền qua): khi in bản in không ép trực tiếp lên giấy hay vật liệu in như những phương pháp in khác mà sẽ được ép lên bề mặt một tấm cao su, sau đó tấm cao su này mới được ép lên bề mặt giấy. Việc này nhằm tạo ra sự truyền mực tối ưu nhất (truyền từ bề mặt cứng --> mềm --> cứng). 10 BÀI 2: CHẾ BẢN NHÃN MÁC HÀNG HÓA I.Các yêu cầu đối với nhãn mác hàng hóa 1. "Nhãn hàng hoá" là bản viết, bản in, bản vẽ, bản chụp của chữ, hình vẽ, hình ảnh được dán, in, đính, đúc, chạm, khắc trực tiếp trên hàng hoá, bao bì thương phẩm của hàng hoá hoặc trên các chất liệu khác được gắn trên hàng hoá, bao bì thương phẩm của hàng hoá. 2. "Ghi nhãn hàng hoá" là thể hiện nội dung cơ bản, cần thiết về hàng hoá lên nhãn hàng hoá để người tiêu dùng nhận biết, làm căn cứ lựa chọn, tiêu thụ và sử dụng; để nhà sản xuất, kinh doanh quảng bá cho hàng hoá của mình và để các cơ quan chức năng thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát. 3. "Nhãn gốc của hàng hoá" là nhãn thể hiện lần đầu được gắn trên hàng hoá. 4. "Nhãn phụ" là nhãn thể hiện những nội dung bắt buộc dịch t ... hục vụ trồng trọt, thức ăn chăn nuôi, chế phẩm sinh học phục vụ chăn nuôi phải có giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm hoặc văn bản tự công bố chất lượng sản phẩm. 5. Chính phủ quy định điều kiện quảng cáo đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đặc biệt khác khi có phát sinh trên thực tế. II.PHÂN LOẠI QUẢNG CÁO Hầu hết các mẫu quảng cáo xung quanh ta là những mẫu quảng cáo nhắm đến người tiêu dùng, nhắm đến từng cá nhân và gia đình thuyết phục họ mua sản phẩm hoặc dịch vụ cho nhu cầu sử dụng cá nhân và gia đình ví dụ như các mẫu quảng cáo xà bông, mì ăn liền, xe gắn máy 1- Ph n l i he h n gi mục iêu ( ge udience): đối tượng của quảng cáo là khán giả nên bất kỳ mẫu quảng cáo nào cũng nhắm đến một hay nhiều nhóm người nào đó. Có hai loại khán giả mà quảng cáo nhắm đến: Qu ng c nhắm đến người iêu dùng: hầu hết các mẫu quảng cáo xung quanh ta là những mẫu quảng cáo nhắm đến người tiêu dùng, nhắm đến từng cá nhân và gia đình thuyết phục họ mua sản phẩm hoặc dịch vụ cho nhu cầu sử dụng cá nhân và gia đình ví dụ như các mẫu quảng cáo xà bông, mì ăn liền, xe gắn máy Qu ng c nhắm đến c qu n xí nghiệ : nhắm đến việc mua sản phẩm và dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của doanh nghiệp. Hầu hết các mẫu quảng cáo nhắm đến doanh nghiệp xuất hiện trên các ấn phẩm đặc biệt hoặc được gửi trực tiếp đến doanh nghiệp dưới hình thức bưu phẩm, ví dụ đồ dùng văn phòng, dụng cụ y khoa, giấy tráng phim, dịch vụ phát chuyển thư nhanh DHL, Fedex Quảng cáo nhắm đến doanh nghiệp còn được phân ra thành bốn lĩnh vực nhỏ : Qu ng c nhắm đến lĩnh ực công nghiệ : đối tượng của loại quảng cáo này là các nhà máy, xưởng sản xuất, doanh nghiệp, cơ sở dịch vụ nhằm cung ứng các 97 sản phẩm, dịch vụ để các nhà máy xưởng sản xuất, doanh nghiệp, cơ sở dịch vụ dùng nó như là máy móc, nguyên vật liệu sử dụng để tạo ra những sản phẩm, dịch vụ khác. Ví dụ công ty xây dựng Campenon Bernard, nhà máy thép Vicasa, nhà máy sản xuất vỏ lon bia Carnaud Metal Box Qu ng c nhắm đến c ở hư ng m i: đối tượng là các nhà bán sỉ, bán lẻ, họ mua hàng hoá, dịch vụ rồi bán lại cho người tiêu dùng. Ví dụ các công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại. Qu ng c nhắm đến những người chu ên nghiệ : đối tượng là những luật sư, bác sĩ, kỹ sư, nhân viên kế toánsản phẩm có thể là dụng cụ y khoa, kỹ thuật, phần mềm máy vi tính Qu ng c nhắm đến nông nghiệ : nhằm bán các sản phẩm như máy cày, phân bón, giống lúa và thuốc trừ sâu 2 – Ph n l i he ùng đị lý Quảng cáo có thể chỉ giới hạn tại địa phương hoặc cũng có thể trên phạm vi toàn thế giới. Một khi tổ chức tung quảng cáo khỏi biên giới một quốc gia thì xem như là quảng cáo quốc tế, ví dụ Coca Cola, Adidas, Procter & Gamble Quảng cáo trong phạm vi một nước duy nhất gọi là quảng cáo quốc gia, ví dụ xà bông Dove, nhôm Kim Hằng Nếu quảng cáo chỉ giới hạn trong một vùng lãnh thổ mà không bao gồm phạm vi toàn quốc thì gọi là quảng cáo địa phương, phạm vi tác động của loại quảng cáo này hẹp hơn nhiều, thường chỉ nhắm vào các thành phố, tỉnh. Mẫu quảng cáo này thường được thấy tại các siêu thị, cửa hàng bách hoá, đài truyền hình địa phương. 3- Ph n l i he hư ng iện u n hông Các hình thức phổ biến của quảng cáo qua phương tiện truyền thông bao gồm: báo, tạp chí, tivi, radio, ngoài trời và quảng cáo tại bến bãi. Vì tính đặc thù có thể tiếp cận lượng khán giả đông đảo nhất nên truyền hình là công cụ truyền thông hữu hiệu nhất ở nhiều quốc gia trên thế giới và tại nước ta. Ngoài ra việc quảng cáo bằng cách gửi thư chào hàng và trên những trang vàng niên giám điện thoại cũng được xem như quảng cáo qua phương tiện truyền thông. 4 – Ph n l i he mục đích qu ng c Cách phân loại này tùy vào lý do muốn quảng cáo của bên thuê quảng cáo vì có nhiều hình thức doanh nghiệp nên mỗi doanh nghiệp đều có mục đích quảng cáo cho riêng 98 mình trong từng thời kỳ và chiến lược nhất định. Một công ty thuê quảng cáo vì muốn xây dựng hình ảnh của mình, một doanh nghiệp bán lẻ (công ty TNHH) thuê quảng cáo vì muốn thu hút thêm khách hàng, đối với cơ sở sản xuất thì muốn nhãn hiệu của mình được người tiêu dùng biết đến, còn đối với tổ chức phi lợ III. Các phương thức tạo lập quảng cáo III.1.Quảng cáo trên báo nói, báo hình 1. Thời lượng quảng cáo trên báo nói, báo hình không được vượt quá 10% tổng thời lượng chương trình phát sóng một ngày của một tổ chức phát sóng, trừ thời lượng quảng cáo trên kênh, chương trình chuyên quảng cáo; phải có dấu hiệu phân biệt nội dung quảng cáo với các nội dung khác. 2. Thời lượng quảng cáo trên kênh truyền hình trả tiền không vượt quá 5% tổng thời lượng chương trình phát sóng một ngày của một tổ chức phát sóng, trừ kênh, chương trình chuyên quảng cáo. 3. Không được phát sóng quảng cáo trong các chương trình sau: a) Chương trình thời sự; b) Chương trình phát thanh, truyền hình trực tiếp về các sự kiện chính trị đặc biệt, kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc. 4. Mỗi chương trình phim truyện không được ngắt để quảng cáo quá hai lần, mỗi lần không quá 05 phút. Mỗi chương trình vui chơi giải trí không được ngắt để quảng cáo quá bốn lần, mỗi lần không quá 05 phút. 5. Khi thể hiện sản phẩm quảng cáo kèm theo nội dung thông tin chính bằng hình thức chạy chữ hoặc một chuỗi hình ảnh chuyển động thì sản phẩm quảng cáo phải được thể hiện sát phía dưới màn hình, không quá 10% chiều cao màn hình và không được làm ảnh hưởng tới nội dung chính trong chương trình. Quảng cáo bằng hình thức này không tính vào thời lượng quảng cáo của báo hình. 6. Cơ quan báo nói, báo hình có nhu cầu ra kênh, chương trình chuyên quảng cáo phải có giấy phép của cơ quan quản lý nhà nước về báo chí. Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép ra kênh, chương trình chuyên quảng cáo gồm: a) Đơn đề nghị cấp giấy phép ra kênh, chương trình chuyên quảng cáo; b) Ý kiến của cơ quan chủ quản; c) Bản sao có chứng thực giấy phép hoạt động báo chí. 99 7. Trong trường hợp cơ quan báo chí có nhu cầu thay đổi nội dung giấy phép ra kênh, chương trình chuyên quảng cáo phải gửi hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung giấy phép đến cơ quan quản lý nhà nước về báo chí. Hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung giấy phép gồm: a) Đơn đề nghị sửa đổi, bổ sung giấy phép; b) Bản sao có chứng thực giấy phép đang có hiệu lực. 8. Trình tự, thủ tục cấp giấy phép được thực hiện như sau: a) Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí xem xét cấp giấy phép ra kênh, chương trình chuyên quảng cáo cho cơ quan báo chí; trường hợp không cấp giấy phép, phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do; b) Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí xem xét, cấp giấy phép sửa đổi, bổ sung cho cơ quan báo chí; trường hợp không cấp giấy phép sửa đổi, bổ sung phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do; c) Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày cấp giấy phép ra kênh, chương trình chuyên quảng cáo hoặc cấp giấy phép sửa đổi, bổ sung; cơ quan cấp giấy phép phải gửi bản sao giấy phép đã cấp cho cơ quan quản lý nhà nước về quảng cáo và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) nơi cơ quan báo chí đặt trụ sở chính để phối hợp trong công tác quản lý. III.2.Quảng cáo trên phương tiện điện tử, thiết bị đầu cuối và các thiết bị viễn thông khác 1. Quảng cáo bằng hình thức gửi tin nhắn, thư điện tử quảng cáo: a) Tổ chức, cá nhân chỉ được phép gửi tin nhắn và thư điện tử quảng cáo khi có sự đồng ý trước của người nhận; b) Nhà cung cấp dịch vụ thông tin điện tử, viễn thông chỉ được phép gửi tin nhắn, thư điện tử có nội dung quảng cáo về các dịch vụ của mình; chỉ được gửi tin nhắn quảng cáo đến điện thoại trong khoảng thời gian từ 07 giờ đến 22 giờ; không được gửi quá ba tin nhắn quảng cáo đến một số điện thoại, quá ba thư điện tử đến một địa chỉ thư điện tử trong vòng 24 giờ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với người nhận; c) Tổ chức, cá nhân quảng cáo phải bảo đảm cho người nhận có khả năng từ chối quảng cáo; phải chấm dứt ngay việc gửi tin nhắn, thư điện tử quảng cáo nếu người nhận thông báo từ chối quảng cáo và không được thu phí dịch vụ đối với thông báo từ chối của người nhận. 100 2. Quảng cáo bằng các hình thức khác trên phương tiện điện tử, thiết bị đầu cuối và các thiết bị viễn thông khác phải tuân theo các quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. III.3.Quảng cáo trên báo điện tử và trang thông tin điện tử 1. Quảng cáo trên báo điện tử phải tuân theo các quy định sau: a) Không được thiết kế, bố trí phần quảng cáo lẫn vào phần nội dung tin; b) Đối với những quảng cáo không ở vùng cố định, phải thiết kế để độc giả có thể chủ động tắt hoặc mở quảng cáo, thời gian chờ tắt hoặc mở quảng cáo tối đa là 1,5 giây. 2. Quảng cáo trên trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều này. 3. Quảng cáo trên trang thông tin điện tử của tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh dịch vụ quảng cáo xuyên biên giới có phát sinh doanh thu quảng cáo tại Việt Nam phải tuân thủ các quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. III.4.Quảng cáo trên báo in 1. Diện tích quảng cáo không được vượt quá 15% tổng diện tích một ấn phẩm báo hoặc 20% tổng diện tích một ấn phẩm tạp chí, trừ báo, tạp chí chuyên quảng cáo; phải có dấu hiệu phân biệt quảng cáo với các nội dung khác. 2. Cơ quan báo chí được phép ra phụ trương quảng cáo và phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan quản lý nhà nước về báo chí trước ít nhất 30 ngày tính đến ngày phát hành đầu tiên của phụ trương quảng cáo. 3. Phụ trương quảng cáo của báo phải đánh số riêng; có cùng khuôn khổ, phát hành kèm theo số trang báo chính. 4. Trên trang một của phụ trương quảng cáo phải ghi rõ các thông tin sau: a) Tên tờ báo; b) Tên, địa chỉ của cơ quan báo chí; c) Dòng chữ “Phụ trương quảng cáo không tính vào giá bán”. 5. Không được quảng cáo trên bìa một của tạp chí, trang nhất của báo. III.5. Quảng cáo trên các sản phẩm in 1. Đối với các loại sách và tài liệu dưới dạng sách, chỉ được quảng cáo về tác giả, tác phẩm, nhà xuất bản trên bìa hai, ba và bốn, trừ sách chuyên về quảng cáo. 101 2. Đối với tài liệu không kinh doanh, chỉ được quảng cáo về tác giả, tác phẩm, nhà xuất bản hoặc biểu trưng, lô-gô, nhãn hiệu hàng hóa, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và hoạt động của tổ chức, cá nhân được phép xuất bản tài liệu đó. 3. Đối với tranh, ảnh, áp-phích, ca-ta-lô, tờ rời, tờ gấp có nội dung cổ động, tuyên truyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ, văn học, nghệ thuật, được quảng cáo không quá 20% diện tích từng sản phẩm. Biểu trưng, lô-gô, nhãn hiệu hàng hóa của người quảng cáo phải đặt ở phía dưới cùng của sản phẩm in. 4. Không được quảng cáo trên các sản phẩm in là tiền hoặc giấy tờ có giá, văn bằng chứng chỉ và văn bản quản lý nhà nước. 5. Quảng cáo trên tranh, ảnh, áp-phích, ca-ta-lô, tờ rời, tờ gấp và các sản phẩm in không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này phải ghi rõ tên, địa chỉ tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo hoặc người quảng cáo, số lượng in, nơi in. III.6. Quảng cáo trong bản ghi âm, ghi hình Thời lượng quảng cáo trong bản ghi âm, ghi hình chương trình văn hoá, nghệ thuật, điện ảnh, bản ghi âm, ghi hình có nội dung thay sách hoặc minh họa cho sách không được vượt quá 5% tổng thời lượng nội dung chương trình. III.7.Quảng cáo trên bảng quảng cáo, băng-rôn 1. Việc đặt bảng quảng cáo, băng-rôn phải tuân thủ quy định về khu vực bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa; hành lang an toàn giao thông, đê điều, lưới điện quốc gia; không được che khuất đèn tín hiệu giao thông, bảng chỉ dẫn công cộng; không được chăng ngang qua đường giao thông và phải tuân thủ quy hoạch quảng cáo của địa phương và quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan có thẩm quyền ban hành. 2. Các sản phẩm quảng cáo thể hiện trên bảng quảng cáo, băng-rôn phải ghi rõ tên, địa chỉ của người thực hiện. 3. Quảng cáo trên bảng quảng cáo, băng-rôn có nội dung tuyên truyền, cổ động chính trị, chính sách xã hội phải tuân theo những quy định sau: a) Biểu trưng, lô-gô, nhãn hiệu hàng hóa của người quảng cáo phải đặt ở phía dưới cùng đối với bảng quảng cáo, băng-rôn dọc và phía bên phải đối với băng-rôn ngang; 102 b) Diện tích thể hiện của biểu trưng, lô-gô, nhãn hiệu hàng hóa của người quảng cáo không quá 20% diện tích bảng quảng cáo, băng-rôn. 4. Thời hạn treo băng-rôn không quá 15 ngày. III.8.Quảng cáo trên màn hình chuyên quảng cáo 1. Việc đặt màn hình chuyên quảng cáo phải tuân theo quy định của Luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan và quy hoạch quảng cáo ngoài trời của địa phương. 2. Khi thực hiện quảng cáo trên màn hình chuyên quảng cáo đặt ngoài trời không được dùng âm thanh. III.9. Quảng cáo trên phương tiện giao thông 1. Việc quảng cáo trên phương tiện giao thông phải tuân thủ các quy định của Luật này và pháp luật về giao thông. 2. Không được thể hiện sản phẩm quảng cáo ở mặt trước, mặt sau và trên nóc của phương tiện giao thông. Sản phẩm quảng cáo không được vượt quá 50% diện tích mỗi mặt được phép quảng cáo của phương tiện giao thông. Việc thể hiện biểu trưng, lô-gô, biểu tượng của chủ phương tiện giao thông hoặc hãng xe trên phương tiện giao thông phải tuân thủ các quy định của pháp luật về giao thông. III.10. Quảng cáo bằng loa phóng thanh và hình thức tương tự 1. Quảng cáo bằng loa phóng thanh và hình thức tương tự tại địa điểm cố định phải tuân thủ quy định sau: a) Quảng cáo không được vượt quá độ ồn cho phép theo quy định của pháp luật về môi trường; b) Không được quảng cáo tại trụ sở cơ quan, đơn vị lực lượng vũ trang, trường học, bệnh viện; c) Không được quảng cáo trên hệ thống truyền thanh phục vụ nhiệm vụ chính trị của xã, phường, thị trấn. 2. Không được quảng cáo bằng loa phóng thanh gắn với phương tiện giao thông và các phương tiện di động khác tại nội thành, nội thị của thành phố, thị xã. III.11. Biển hiệu của tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh 1. Biển hiệu phải có các nội dung sau: a) Tên cơ quan chủ quản trực tiếp (nếu có); b) Tên cơ sở sản xuất, kinh doanh theo đúng giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; 103 c) Địa chỉ, điện thoại. 2. Việc thể hiện chữ viết trên biển hiệu phải tuân thủ quy định tại Điều 18 của Luật này. 3. Kích thước biển hiệu được quy định như sau: a) Đối với biển hiệu ngang thì chiều cao tối đa là 02 mét (m), chiều dài không vượt quá chiều ngang mặt tiền nhà; b) Đối với biển hiệu dọc thì chiều ngang tối đa là 01 mét (m), chiều cao tối đa là 04 mét (m) nhưng không vượt quá chiều cao của tầng nhà nơi đặt biển hiệu. 4. Biển hiệu không được che chắn không gian thoát hiểm, cứu hoả; không được lấn ra vỉa hè, lòng đường, ảnh hưởng đến giao thông công cộng. 5. Việc đặt biển hiệu phải tuân thủ các quy định của Luật này và quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan có thẩm quyền ban hành
File đính kèm:
- giao_trinh_thiet_ke_mau_dac_thu.pdf