Fintech và ngân hàng tại Việt Nam: hợp tác hay cạnh tranh?

Tóm tắt

Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của công nghệ, Fintech đã tạo nên một

cuộc cách mạng kỹ thuật số có thể thay đổi hoàn toàn phương thức kinh doanh của

ngành ngân hàng, tác động rất mạnh và có thể tái định hình ngành tài chính. Bài viết này

đi vào phân tích sự phát triển của Fintech tại Việt Nam, những điểm mạnh và điểm yếu

của Fintech so với ngân hàng truyền thống, từ đó phân tích xu hướng hợp tác giữa

Fintech và ngân hàng và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển Fintech trong xu hướng

hợp tác này tại Việt Nam trong thời gian tới.

Từ khóa: Fintech, công nghệ tài chính, cơ hội, thách thức

pdf 7 trang phuongnguyen 440
Bạn đang xem tài liệu "Fintech và ngân hàng tại Việt Nam: hợp tác hay cạnh tranh?", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Fintech và ngân hàng tại Việt Nam: hợp tác hay cạnh tranh?

Fintech và ngân hàng tại Việt Nam: hợp tác hay cạnh tranh?
 295 
FINTECH VÀ NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM: HỢP TÁC HAY CẠNH 
TRANH? 
 TS. Phan Thu Hiền 
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM 
 TS. Phan Thị Mỹ Hạnh 
Trường Đại học Tài chính - Marketing 
Tóm tắt 
Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của công nghệ, Fintech đã tạo nên một 
cuộc cách mạng kỹ thuật số có thể thay đổi hoàn toàn phương thức kinh doanh của 
ngành ngân hàng, tác động rất mạnh và có thể tái định hình ngành tài chính. Bài viết này 
đi vào phân tích sự phát triển của Fintech tại Việt Nam, những điểm mạnh và điểm yếu 
của Fintech so với ngân hàng truyền thống, từ đó phân tích xu hướng hợp tác giữa 
Fintech và ngân hàng và đề xuất các giải pháp nhằm phát triển Fintech trong xu hướng 
hợp tác này tại Việt Nam trong thời gian tới. 
Từ khóa: Fintech, công nghệ tài chính, cơ hội, thách thức 
1. Sự phát triển của Fintech tại Việt Nam 
Cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của công nghệ trong cuộc cánh mạng 
công nghiệp 4.0, một làn sóng các công ty khởi nghiệp tập trung vào lĩnh vực công 
nghệ trong tài chính đã nổi lên và hình thành các công ty Fintech. Đây là các công ty áp 
dụng các sáng tạo công nghệ trong các hoạt động và dịch vụ tài chính nhằm nâng cao 
hiệu quả hoạt động tài chính. Các công ty này áp dụng công nghệ, ứng dụng, sản phẩm, 
quy trình và mô hình kinh doanh mới vào ngành dịch vụ tài chính, điển hình như các 
công ty sử dụng internet, điện thoại di động, công nghệ điện toán đám mây và các phần 
mềm mã nguồn mở nhằm mục đích nâng cao hiệu quả của hoạt động ngân hàng và đầu 
tư. Đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, Fintech đã tạo nên một cuộc cách 
mạng kỹ thuật số có thể thay đổi hoàn toàn phương thức kinh doanh của ngành ngân 
hàng, tác động rất mạnh và có thể tái định hình ngành tài chính. 
Trái với thị trường tài chính truyền thống chỉ diễn ra mối tương tác giữa các định 
chế tài chính (ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán) và 
khách hàng thì với Fintech toàn bộ mô thức cung ứng và vận hành các dịch vụ tài chính 
đã được thay đổi theo hướng các định chế tài chính, công ty Fintech và khách hàng có 
mối tương tác và tác động qua lại lẫn nhau thông qua các ứng dụng công nghệ thông tin 
(Thành, 2017). 
Việt Nam đang trở thành một trong những thị trường tiềm năng bậc nhất trong khu 
vực cho sự phát triển của Fintech. Thị trường Fintech Việt Nam đã đạt 4,4 tỷ USD vào 
năm 2017, trong đó thu hút khoảng 129 triệu USD từ các thương vụ đầu tư nước ngoài 
liên quan đến các công ty Fintech giai đoạn 2016-2017, và dự đoán sẽ đạt 7,8 tỷ USD vào 
năm 2020 theo nghiên cứu của công ty tư vấn Solidiance. Trong năm 2008, ngân hàng 
Nhà nước đã thí điểm cho một số công ty cung ứng dịch vụ thanh toán trên thị trường. 
Hoạt động Fintech tại Việt Nam thực sự bùng nổ vào năm 2015 với sự xuất hiện của 
những ứng dụng thanh toán trên điện thoại như MoMo, Payoo hay 1Pay được sử dụng 
phổ biến bởi các công ty tài chính tiêu dùng, và dịch vụ cho vay trực tuyến LoanVi (Ngân 
hàng Nhà nước Việt Nam, 2016). Bên cạnh đó, ngân hàng VP Bank cũng đã phát triển 
ứng dụng ngân hàng trực tuyến qua di động – Timo. Với những ứng dụng này, các công 
 296 
ty Fintech đang làm thay đổi hình thức thanh toán và mở ra kỷ nguyên ứng dụng công 
nghệ vào hoạt động cho vay tại Việt Nam (Thành, 2017). Đến năm 2017, có trên 40 công 
ty Fintech hoạt động tại Việt Nam (cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng như thanh 
toán, chuyển tiền, huy động vốn, cho vay ngang hàng, quản lý tài chính, hỗ trợ định danh 
khách hàng điện tử) trong đó 27 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán (chiếm 
trên 60%) đã chính thức được cấp phép hoạt động. Hiện nay, số lượng công ty Fintech đã 
tăng lên khoảng 80 công ty đang hoạt động tại nhiều lĩnh vực khác nhau. 
Các công ty Fintech Việt Nam tập trung khá nhiều cho lĩnh vực thanh toán như 
MoMo, Payoo hay BankPlus Một số công ty trong nước đã lấn sân sang mảng Fintech 
khi đưa ra các ví điện tử phục vụ cho hoạt động thanh toán của khách hàng như FPT E-
wallet của FPT, VTC Pay của VTC, Vimo của MobiFone. Hơn 5,76 triệu ví điện tử đã 
được phát hành và có liên kết với tài khoản ngân hàng để hỗ trợ thanh toán. Ngoài ra, một 
số mảng khác cũng đã hoạt động như FundStart, Comicola, Betado hay Firststep nhằm 
gây quỹ cộng đồng; LoanVi với dịch vụ cho vay trực tuyến; BankGo, MoneyLover, 
Mobivi với quản lý dữ liệu tài chính cá nhân; và ngân hàng kỹ thuật số đầu tiên của Việt 
Nam với Timo. hông chỉ thu hút sự quan tâm của các công ty Fintech Việt Nam, nhiều 
nhà đầu tư nước ngoài cũng đã hướng đến phát triển mảng Fintech tại Việt Nam. Điển 
hình như vào năm 2016 quỹ đầu tư 500 Startups đã dành 10.000 USD để đầu tư vào 
khoảng 100-150 dự án startups tại Việt Nam. Các khoản đầu tư của quỹ chủ yếu vào 
những lĩnh vực công nghệ tài chính, công nghệ giáo dục, thương mại điện tử, quảng cáo, 
truyền thông và giải trí. Năm 2018, 500 Startups tiếp tục đánh dấu cột mốc đầu tư thứ 20 
vào một startup lĩnh vực công nghệ tài chính ứng dụng nền tảng blockchain tại Việt Nam. 
Bên cạnh đó, WorldRemit, một startup hoạt động trong lĩnh vực chuyển tiền kiều hối tại 
 nh cũng hướng đến mở rộng dịch vụ tại Việt Nam vì đánh giá cao về mức độ chuyển 
tiền kiều hối ở Châu Á và Việt Nam bằng cách cho phép người dùng có thể gửi tiền ra 
nước ngoài từ một thiết bị di động hoặc máy tính và người nhận có thể nhận được tiền 
trong các tài khoản ngân hàng của họ, nhận bằng tiền mặt, nhận bằng một chiếc ví di 
động hoặc là một dịch vụ top-up qua điện thoại di động. Startup Tapp Commerce cũng 
triển khai các sản phẩm liên quan đến Fintech nhằm hỗ trợ người dân có thể dễ dàng 
chuyển và nhận tiền thông qua doanh nghiệp địa phương hoặc thậm chí các cửa hàng bán 
lẻ trong khu họ sinh sống. 
2. Điểm mạnh và điểm yếu của Fintech so với ngân hàng truyền thống 
Điểm mạnh của Fintech: 
Tiềm năng của sự phát triển Fintech tại Việt Nam được đánh giá rất cao khi Việt 
Nam có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển Fintech như dân số trẻ, số người sử 
dụng điện thoại di động và internet ngày càng nhiều, tỷ lệ tăng trưởng tiêu dùng cao, tỷ lệ 
thất nghiệp thấp và khoảng 90% các khoản thanh toán được thực hiện bằng tiền mặt. 
Hiện nay, Việt Nam có trên 128 triệu tài khoản thuê bao di động, trong đó gần 50% là 
điện thoại thông minh, hơn 64 triệu người đang sử dụng Internet, 58 triệu người sử dụng 
mạng xã hội và Việt Nam trở thành một trong 7 quốc gia đứng đầu về sử dụng mạng xã 
hội và đứng thứ 19/50 nước khu vực Châu Á - Thái Bình Dương về số người dân có sử 
dụng Internet và điện thoại di động thông minh. Đây được xem là điều kiện rất tốt để thúc 
đẩy hoạt động thanh toán qua điện thoại di động. Theo công bố của ngân hàng thế giới, 
trong năm 2017 39% người trưởng thành tại Việt Nam vẫn chưa sử dụng dịch vụ gửi tiết 
kiệm tại các hệ thống chính thức và 65% người dân đang gửi hoặc nhận kiều hối ngoài hệ 
 297 
thống chính thức hay trả học phí và chi phí dịch vụ tiện ích bằng tiền mặt. Do đó, đây là 
nguồn khách hàng tiềm năng rất lớn của Fintech. 
Trong khi hệ thống ngân hàng chậm thay đổi, thiếu linh hoạt trong ứng dụng công 
nghệ làm gia tăng chi phí giao dịch và chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu khách hàng thì 
Fintech lại có thể giúp khách hàng dễ dàng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng một cách 
thuận tiện nhất với chi phí thấp nhất cũng như mang lại sự trải nghiệm và sự hài lòng cho 
khách hàng thông qua đổi mới sáng tạo và khả năng ứng dụng công nghệ linh hoạt và 
hiệu quả, từ đó thúc đẩy các dịch vụ ngân hàng hiện đại ngày một phát triển và các 
chương trình tài chính toàn diện được phổ cập rộng rãi đến người dân. 
Một trong những rào cản chính khiến người dân chưa tiếp cận với dịch vụ tài 
chính chính thức ở Việt Nam là ở xa chi nhánh ngân hàng, chi phí lớn, thủ tục phức tạp. 
Do đó, Fintech đang thu hút một số lượng lớn khách hàng trong đó có cả người dân sống 
ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo khó tiếp cận với dịch vụ ngân hàng do 
Fintech không cần mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch rộng khắp như ngân hàng mà 
khách hàng có thể sử dụng các công nghệ và ứng dụng của Fintech bằng điện thoại thông 
minh có kết nối internet. Với tính chất là các công ty khởi nghiệp, Fintech rất sáng tạo và 
năng động, phân tích và đánh giá tâm lý của khách hàng đối với các sản phẩm và dịch vụ 
tài chính để từ đó sử dụng công nghệ mới cung cấp các dịch vụ mang lại trải nghiệm tốt 
hơn cho người dùng. 
Điểm yếu của Fintech 
Bên cạnh những điểm mạnh nổi bật thì FinTech lại thiếu kinh nghiệm trong hoạt 
động tài chính ngân hàng, thiếu kinh nghiệm quản lý rủi ro tài chính và quản lý rủi ro an 
ninh mạng; thiếu vốn, nguồn nhân lực và nền tảng khách hàng. Trong khi đó, ngân hàng 
lại có ưu thế hơn về mạng lưới khách hàng, hạ tầng công nghệ thông tin, và kinh nghiệm 
quản lý rủi ro. Với thương hiệu và sự uy tín của mình, các ngân hàng đã sở hữu một 
lượng khách hàng truyền thống và xây dựng mạng lưới rộng khắp là một nền tảng vững 
chắc khi bước vào sự cạnh tranh với các công ty Fintech. Trong khi đó, các công ty 
Fintech lại là các công ty khởi nghiệp, đang dần xây dựng uy tín và thương hiệu khi cơ sở 
hạ tầng pháp lý chưa được hoàn thiện đã gây khó khăn cho Fintech tạo niềm tin và tiếp 
cận với khách hàng trong các hoạt động tài chính của mình. Công nghệ phát triển kéo 
theo những rủi ro về an ninh mạng ngày càng gia tăng và đây cũng là một yếu điểm của 
Fintech Việt Nam trong việc quản lý rủi ro này. 
Mặc dù tình hình phổ cập Internet rất rộng tại Việt Nam hiện nay, số lượng người 
sử dụng dịch vụ tài chính hiện đại ít hơn nhiều, một phần nguyên nhân là thói quen sử 
dụng tiền mặt của người dân, đặc biệt là ở khu vực nông thôn vẫn còn phổ biến, hơn 80% 
giao dịch thẻ TM là để rút tiền mặt, tâm lý e ngại tiếp cận công nghệ mới, tâm lý sợ bị 
lấy cắp thông tin cũng là những rào cản khiến cho các công nghệ ngân hàng chưa phát 
huy tác dụng. 
 huôn khổ pháp lý cho dịch vụ đại lý ngân hàng tại vùng sâu, vùng xa chưa được 
xây dựng và hoàn thiện, sản phẩm chưa được thiết kế phù hợp với kiến thức và nhu cầu 
của người dân ở nông thôn nên hạn chế khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của họ. 
Hệ sinh thái của Fintech chỉ mới từng bước được hình thành và mở rộng, mức độ cộng 
sinh và sự ổn định của hệ sinh thái gồm các công ty khởi nghiệp Fintech, nhà phát triển 
công nghệ, các nhà quản lý chính sách, khách hàng tài chính, các tổ chức tài chính truyền 
thống vẫn chưa cao, thiếu chặt chẽ nên vẫn chưa thúc đẩy sự phát triển của Fintech trong 
thời gian qua. Quy định pháp lý và sự điều chỉnh của cơ quan quản lý không theo kịp 
 298 
công nghệ mới nên hạn chế và làm chậm phát triển ứng dụng công nghệ cao và ngân 
hàng số, gây nên rủi ro pháp lý cho các ngân hàng và công ty Fintech khi triển khai các 
ứng dụng công nghệ cao. 
3. Xu hướng hợp tác hay cạnh tranh giữa FINTECH và ngân hàng tại Việt Nam 
Với những lợi thế của Fintech, Fintech đang trở thành một đối thủ đối với hệ 
thống ngân hàng và ảnh hưởng lớn tới hoạt động của hệ thống này. Fintech đã làm thay 
đổi căn bản mô hình kinh doanh, quản trị ở các ngân hàng theo xu hướng ngân hàng số, 
ứng dụng công nghệ mới vào các sản phẩm phục vụ khách hàng. Tuy nhiên, các công ty 
Fintech và ngân hàng đều có những ưu điểm và hạn chế riêng biệt, đặc biệt trong giai 
đoạn đầu khi khuôn khổ pháp lý quản lý của Việt Nam chỉ mới đáp ứng được một phần 
cho lĩnh vực công nghệ tài chính trong thanh toán mà chưa có khuôn khổ pháp lý đầy đủ, 
đồng bộ cho các lĩnh vực tài chính khác; nguồn vốn, nguồn nhân sự, kinh nghiệm quản lý 
rủi ro tài chính và rủi ro an ninh mạng vẫn còn nhiều hạn chế thì việc các fintech hướng 
đến hợp tác với ngân hàng đang trở thành xu hướng được cả Fintech và ngân hàng lựa 
chọn nhằm bổ trợ cho nhau để cung cấp dịch vụ ngân hàng tài chính có chất lượng cao và 
là tiền đề cho việc nâng cao tiếp cận dịch vụ tài chính - ngân hàng (Vũ & Thanh, 2016). 
 u hướng hợp tác theo hướng trở thành đối tác của nhau đang được các ngân hàng 
và công ty Fintech tiến hành. Theo đó, các ngân hàng sẽ được hưởng lợi ích từ việc ứng 
dụng, cập nhật ngay các công nghệ hiện đại được cung cấp từ Fintech, áp dụng các giải 
pháp công nghệ trong việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của thị trường 
cả về chất lượng, giá cả và độ tin cậy trong khi đó các Fintech có thể khai thác được 
mạng lưới khách hàng, dữ liệu và nguồn vốn của ngân hàng. 
Theo khảo sát của Ngân hàng Nhà nước năm 2018, 72% công ty Fintech lựa chọn 
hợp tác với các ngân hàng thay vì cạnh tranh, trong khi 14% quyết định chọn cạnh tranh 
với ngân hàng và 14% còn lại chọn phát triển sản phẩm hoàn toàn mới. Một trong những 
lí do thúc đẩy sự hợp tác này là nhằm xây dựng hệ thống chia sẻ dữ liệu, xây dựng pháp 
lý theo tiêu chuẩn, hướng đến phục vụ nhu cầu khách hàng. Theo kết quả khảo sát toàn 
cảnh ngành ngân hàng năm 2018 của Ernst & Young, 85% các ngân hàng đều xây dựng 
mục tiêu quan trọng nhất trong năm là thực hiện chiến lược chuyển đổi ngân hàng số và 
hướng tới hoàn thiện công nghệ vào năm 2020. 
Bên cạnh những thuận lợi thì việc hợp tác này cũng gặp nhiều khó khăn, thách 
thức cần phải giải quyết. 
Trước tiên là vấn đề bảo mật thông tin, đòi hỏi ngân hàng và các công ty Fintech 
phải chấp nhận việc chia sẻ thuật toán với nhau và có biện pháp bảo vệ được thông tin dữ 
liệu ngân hàng được ngân hàng thu thập trong những năm qua cũng như bảo mật thông 
tin khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng và Fintech. 
Thứ hai, trình độ và khả năng hấp thụ công nghệ của nền kinh tế, ngành ngân hàng 
và cả người dân cũng đang là thách thức lớn cần phải từng bước tháo gỡ. 
Thứ ba, cơ sở hạ tầng công nghệ của Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu của sự phát 
triển công nghệ tiên tiến. Rủi ro về an ninh mạng ngày càng gia tăng trong khi khả năng 
bảo mật thông tin của khách hàng sử dụng công nghệ và các ứng dụng vẫn chưa được 
đảm bảo ở mức an toàn cao, do đó vẫn khiến các khách hàng còn e ngại sử dụng các sản 
phẩm và ứng dụng của các công ty Fintech 
 299 
Thứ tư, nhiều ngân hàng hiện nay vẫn còn dè dặt trong quyết định hợp tác với các 
công ty Fintech. Lý do là vì hầu hết công ty fintech tại Việt Nam còn non trẻ, kinh 
nghiệm chưa nhiều và khả năng duy trì hoạt động của các công ty này không cao. 
Thứ năm, hành lang pháp lý chưa thực sự đầy đủ và đang trong thời gian hoàn 
thiện cho các tổ chức phi ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực tài chính. Các chính sách, 
quy định dành cho những công ty Fintech quy mô nhỏ vẫn còn hạn chế, và cần cập nhật, 
sửa đổi, bổ sung cho kịp với tốc độ phát triển của công nghệ. Quy định pháp lý và sự điều 
chỉnh của cơ quan quản lý không theo kịp công nghệ mới dẫn đến việc hạn chế và làm 
chậm phát triển ứng dụng công nghệ cao và ngân hàng số, tạo nên rủi ro pháp lý cho các 
ngân hàng và công ty Fintech khi triển khai các ứng dụng công nghệ cao. 
Thứ sáu, các công ty Fintech Việt Nam gặp phải tình trạng thiếu hụt nguồn nhân 
lực chất lượng cao, đòi hỏi có kiến thức sâu rộng cả về chuyên môn nghiệp vụ tài chính 
và công nghệ thông tin (Thành, 2017). 
4. Giải pháp phát triển Fintech trong xu hướng hợp tác với ngân hàng trong thời 
gian tới 
Để Fintech có thể phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới, tạo nên một sự hợp tác 
hiệu quả với các ngân hàng, từ đó tạo nên sức mạnh tổng hợp cho thị trường dịch vụ ngân 
hàng, một số giải pháp được đề xuất như sau: 
Một là, Chính phủ và ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện các quy định pháp lý, 
chính sách cho việc cung cấp dịch vụ/sản phẩm Fintech cũng như các hoạt động của 
Fintech như hoạt động thanh toán, cho vay, chuyển tiền, gọi vốn cộng đồng, cho vay 
ngang cấp, tư vấn tài chính cá nhân, công nghệ bảo hiểm, tiền tệ số, quản trị dữ liệu. Tiếp 
tục nghiên cứu xây dựng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đối với một số vấn đề như mô 
hình đại lý ngân hàng, định danh khách hàng điện tử, tài chính số, thanh toán qua di 
động 
Hai là, ngân hàng Nhà nước cần liên tục đầu tư, nâng cấp hệ thống hạ tầng tài 
chính, công nghệ bảo mật để chống lại các rủi ro an ning mạng, tăng cường khả năng bảo 
mật thông tin khách hàng, hoàn thiện chính sách về an toàn thông tin. Các quy định pháp 
lý cần được cập nhật, sửa đổi, bổ sung theo kịp với tốc độ phát triển của công nghệ. 
Ba là, các công ty Fintech cũng cần tăng cường hợp tác với các ngân hàng và các 
doanh nghiệp cung cấp internet, thông tin để nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính 
- ngân hàng của khách hàng, nâng cao chất lượng và sự đa dạng hóa sản phẩm cũng như 
học hỏi kinh nghiệm của ngân hàng trong quản lý rủi ro, đảm bảo cho các bên phát huy 
được lợi thế của mình, tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển Fintech trong thời gian tới, 
từ đó tạo nên một hệ sinh thái Fintech ổn định và cộng sinh, khuyến khích sự sáng tạo và 
cạnh tranh lành mạnh. 
Bốn là, nâng cao trình độ nguồn nhân lực cả về chuyên môn tài chính – ngân hàng 
lẫn công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về khả năng nghiên cứu những 
công nghệ mới, có tính sáng tạo và tăng tính ưu việt, khả năng ứng dụng công nghệ vào 
trong hoạt động đầu tư và tài chính cũng như khả năng quản lý Fintech thông qua việc tập 
trung vào công tác đào tạo nhân lực đồng thời có cơ chế thu hút, lương thưởng đáp ứng 
được yêu cầu của nguồn nhân lực này. 
 300 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2016. Báo cáo đánh giá tác động của cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư và một số định hướng hoạt động của ngành Ngân hàng 
Việt Nam, ỷ yếu hội thảo ECD (2016); 
2. Tô Huy Vũ & Vũ uân Thanh, 2016. Ngành Ngân hàng trước tác động của cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư, Tạp chí Ngân hàng số 15/2016; 
3. Nghiêm uân Thành, 2017. Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và sự chuẩn bị của 
ngành Ngân hàng Việt Nam. Tạp chí Tài chính kỳ 2. 
4. Duy Phan, 2018. 72% công ty Fintech muốn hợp tác, nhưng vẫn có 14% muốn cạnh 
tranh với ngân hànghttps://baomoi.com/72-cong-ty-fintech-muon-hop-tac-nhung-van-
co-14-muon-canh-tranh-voi-ngan-hang/c/26394400.epi 
5. Hoàng Duy, 2016. Ngân hàng đối mặt Fintech. 
https://www.thesaigontimes.vn/155169/Ngan-hang-doi-mat-fintech.html 
6. Nghiêm Thanh Sơn, 2018. Ngân hàng - FinTech: Sự bổ trợ hoàn hảo, Đặc san Toàn 
cảnh Ngân hàng Việt Nam 2018 
7. NH, 2017. Fintech – u hướng phát triển và khuyến nghị đối với NHNN Việt Nam, 
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/ttsk/ttsk_chitiet?leftWidt
h=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SBV287200&rightW
idth=0%25¢erWidth=80%25&_afrLoop=3114792218834312#%40%3F_afrLoop
%3D3114792218834312%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName%3DSBV287
200%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfal
se%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dm3qo4d18b_51 
8. Nha Trang, 2018. Nhiều Fintech ngoại muốn mở rộng đầu tư tại Việt Nam?, 
tai-Viet-Nam 
9. Phương Linh, 2018. Hợp tác Fintech - u hướng phát triển tất yếu của ngân hàng hiện 
đại, 
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/ttsk/ttsk_chitiet?leftWidt
h=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SBV340976&rightW
idth=0%25¢erWidth=80%25&_afrLoop=3115215937136312#%40%3F_afrLoop
%3D3115215937136312%26centerWidth%3D80%2525%26dDocName%3DSBV340
976%26leftWidth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfal
se%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dm3qo4d18b_135 
10. Thùy Dung, 2018. Fintech nước ngoài không dễ vào Việt Nam 
11. https://www.thesaigontimes.vn/272268/Fintech-nuoc-ngoai-khong-de-vao-Viet-
Nam.html 
12. Thùy Dung, 2018. Nhà băng vẫn còn dè dặt với Fintech. 
https://www.thesaigontimes.vn/271332/Nha-bang-van-con-de-dat-voi-Fintech.html 
 301 
13. Trang Nhung, 2018. Fintech Việt Nam đang ở đâu trong khu vực SE N? 
14. 
a221515.html 
15. Việt Hà, 2018. Ngân hàng và Fintech: Từ đối đầu đến đối tác 
16. https://vietnambiz.vn/ngan-hang-va-fintech-tu-doi-dau-den-doi-tac-80308.html 
17. https://techtalk.vn/fintech-startups-khi-lan-song-cong-nghe-thay-doi-mo-hinh-kinh-
doanh-truyen-thong.html 

File đính kèm:

  • pdffintech_va_ngan_hang_tai_viet_nam_hop_tac_hay_canh_tranh.pdf