Fintech - Những tác động tới lĩnh vực tài chính và ngân hàng tại Việt Nam hiện nay

Trong thời gian gần đây, không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, “Fintech” là cụm từ thường xuyên được

đề cập đến, thế nhưng không phải ai cũng hiểu cặn kẽ về loại hình kinh doanh mới này. Fintech đã phát

triển thành làn sóng ở nhiều nước trên thế giới. Những dịch vụ tài chính dựa trên nền tảng công nghệ này

mang lại nhiều tiện ích cho người tiêu dùng và mở ra nhiều tiềm năng mới trong việc nâng cao khả năng

tiếp cận tài chính. Bài viết sẽ nghiên cứu về thực trạng Fintech tác động tới lĩnh vực tài chính - ngân hàng

ở Việt Nam trong những năm gần đây cũng như gợi mở một số giải pháp cho Việt Nam trong thời gian tới.

pdf 4 trang phuongnguyen 480
Bạn đang xem tài liệu "Fintech - Những tác động tới lĩnh vực tài chính và ngân hàng tại Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Fintech - Những tác động tới lĩnh vực tài chính và ngân hàng tại Việt Nam hiện nay

Fintech - Những tác động tới lĩnh vực tài chính và ngân hàng tại Việt Nam hiện nay
17Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
1. Tổng quan về Fintech
Kể từ khi làn sóng các công ty khởi nghiệp 
tập trung vào lĩnh vực công nghệ trong tài chính 
nổi lên sau khủng hoảng 2008, “Fintech” trở 
thành đại diện cho một cuộc cách mạng kỹ thuật 
số có thể thay đổi hoàn toàn phương thức kinh 
doanh của ngành tài chính - ngân hàng.
Theo ngữ nghĩa được chấp nhận khá rộng 
rãi, “Fintech” (Financial Technology) - “công 
nghệ tài chính” là việc ứng dụng các sáng tạo 
công nghệ trong việc nhận diện nhu cầu, hành 
vi khách hàng, thiết kế và cung cấp dịch vụ tài 
chính đa dạng nhằm thỏa mãn tốt nhất các tiện 
ích cho người tiêu dùng nhưng với chi phí rẻ 
hơn. Khách hàng chiến lược, đối tác của Fintech 
rất đa dạng, có thể là ngân hàng, công ty bảo 
hiểm, tổ chức tài chính truyền thống và ngay cả 
người tiêu dùng trực tiếp. Ủy ban Basel (2018) 
đã chấp nhận một định nghĩa của Ban An toàn 
Tài chính (Financial Stability Board - FSB) về 
Fintech, qua đó “Fintech là các sáng tạo về công 
nghệ tài chính có thể cho phép hình thành các 
mô hình kinh doanh, các ứng dụng, các tiến 
trình hay sản phẩm mới có thể mang đến những 
tác động quan trọng cho thị trường tài chính, cho 
các thể chế và cho việc cung ứng dịch vụ tài 
chính”. Điểm đáng quan tâm trong định nghĩa 
trên của FSB là Fintech không những chỉ là các 
hoạt động của riêng các công ty Fintech, mà còn 
là của các ngân hàng hiện hữu. Định nghĩa này 
cũng hữu ích trong việc phân tích các cơ sở cho 
các chiến lược hợp tác, hay cạnh tranh giữa các 
doanh nghiệp Fintech và ngân hàng. Fintech tác 
động mạnh mẽ tới hệ sinh thái tài chính - ngân 
hàng, bao gồm cung, cầu, hệ thống hỗ trợ và 
khung pháp lý. Trong đó, hệ thống ngân hàng 
truyền thống chịu tác động nhiều nhất, cả về 
nghiệp vụ và quản trị.
FINTECH - NHỮNG TÁC ĐỘNG TỚI LĨNH VỰC TÀI CHÍNH 
VÀ NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 
TS. Nguyễn Đình Hoàn - Ths. Lê Thị Mai Anh* 
Ngày nhận bài: 4/9/2019
Ngày chuyển phản biện: 6/9/2019
Ngày nhận phản biện: 19/9/2019
Ngày chấp nhận đăng: 23/9/2019
Trong thời gian gần đây, không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới, “Fintech” là cụm từ thường xuyên được 
đề cập đến, thế nhưng không phải ai cũng hiểu cặn kẽ về loại hình kinh doanh mới này. Fintech đã phát 
triển thành làn sóng ở nhiều nước trên thế giới. Những dịch vụ tài chính dựa trên nền tảng công nghệ này 
mang lại nhiều tiện ích cho người tiêu dùng và mở ra nhiều tiềm năng mới trong việc nâng cao khả năng 
tiếp cận tài chính. Bài viết sẽ nghiên cứu về thực trạng Fintech tác động tới lĩnh vực tài chính - ngân hàng 
ở Việt Nam trong những năm gần đây cũng như gợi mở một số giải pháp cho Việt Nam trong thời gian tới.
• Từ khóa: fintech, công nghệ, tài chính - ngân hàng.
In recent times, “Fintech” is a frequently 
mentioned phrase in not only Vietnam but also 
the world, however not everybody has thorough 
understandings of this new type of business. 
Fintech has evolved into a wave in many 
countries around the world. These technology-
based financial services bring many benefits 
to consumers and open up new potentials in 
improving financial access. The article will study 
the reality of Fintech impacting on Vietnam’ 
financial and banking sector in recent years as 
well as suggest some solutions for Vietnam in the 
future.
• Keywords: fintech, technology, finance - banking.
* Học viện Tài chính 
TAØI CHÍNH VÓ MOÂSoá 10 (195) - 2019
18 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
2. Tình hình phát triển Fintech tại Việt 
Nam 
Trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam 
có tốc độ tăng trưởng ấn tượng, số người sử dụng 
internet ngày càng đông đảo. Theo thống kê mới 
đây, 54% dân số Việt Nam sử dụng internet và 
dự kiến còn tăng mạnh trong những năm tới, góp 
phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế số, trong 
đó có lĩnh vực Fintech. Theo nghiên cứu của 
Công ty tư vấn Solidiance, thị trường Fintech 
của Việt Nam đạt 4,4 tỷ USD trong năm 2017 và 
dự kiến sẽ đạt 7,8 tỷ USD vào năm 2020. Một 
trong những yếu tố góp phần thúc đẩy tiềm năng 
tăng trưởng của Fintech tại Việt Nam là tỷ lệ 
bao phủ internet rộng và điện thoại thông minh 
được sử dụng phổ biến, tăng thu nhập và nhu 
cầu tiêu dùng, thương mại phát triển. Bên cạnh 
đó, không thể không nhắc tới môi trường thuận 
lợi để phát triển Fintech ở Việt Nam, đó là chúng 
ta có số lượng các chương trình, vườn ươm, xúc 
tiến khởi nghiệp và các chương trình thúc đẩy 
tinh thần khởi nghiệp đứng thứ hai trong 
khu vực ASEAN, chỉ sau Singapore. Việt 
Nam hiện có câu lạc bộ chuyên biệt về 
Fintech (CLB VietFintech trực thuộc Hiệp 
hội Ngân hàng Việt Nam) để các doanh 
nghiệp trong ngành gặp gỡ, trao đổi, cập 
nhật và chia sẻ kinh nghiệm, cùng tư vấn 
xây dựng khung pháp lý cho lĩnh vực mới 
này. Đặc biệt, Chính phủ cũng đang nỗ 
lực triển khai thúc đẩy tài chính toàn diện 
để thực hiện mục tiêu chiến lược về phát 
triển bền vững. Cùng với chủ trương hỗ 
trợ hệ sinh thái khởi nghiệp theo Quyết 
định 844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 của 
Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước 
được giao làm cơ quan đầu mối điều phối chung 
về tài chính toàn diện tại Việt Nam. Ngân hàng 
Nhà nước đã cho phép thử nghiệm một số mô 
hình hợp tác với các công ty Fintech. Tháng 
3/2017, Ngân hàng Nhà nước đã thành lập Ban 
Chỉ đạo về Fintech có chức năng đề xuất giải 
pháp hoàn thiện hệ sinh thái và khung pháp lý, 
tạo điều kiện cho doanh nghiệp Fintech phát 
triển. Nhờ đó, hệ thống doanh nghiệp Fintech 
phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam. 
Hiện nay, có gần 150 doanh nghiệp Fintech 
đang hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau 
như thanh toán, cung cấp giải pháp ngân hàng 
như xác thực điện tử, ứng dụng blockchain, dịch 
vụ tài chính cá nhân Chủ đạo trong các hoạt 
động Fintech vẫn là thanh toán, có 30 tổ chức 
trung gian thanh toán được cấp phép, phần lớn 
là tổ chức ví điện tử (27), cổng thanh toán điện 
tử (26), hỗ trợ thu hộ chi hộ (26), chuyển tiền 
điện tử (9). Bên cạnh đó, hoạt 
động thanh toán của các ngân 
hàng thương mại cũng rất mạnh, 
ứng dụng công nghệ mới.
Như vậy, qua số liệu thu thập 
những năm gần đây, tốc độ tăng 
trưởng số lượng và giá trị giao 
dịch qua điện thoại và internet 
Hình: Tác động của Fintech tới nghiệp vụ và quản trị ngân hàng 
Nguồn: Tổng hợp từ ADB (2017), WEF (2017) 
2. Tình hình phát triển FinTech tại Việt Nam 
Trong những năm gần đây, kinh tế Việt Nam có tốc độ tăng trưởng ấn tượng, số 
người sử dụng Internet ngày càng đông ảo. Theo thống kê mới đây, 54% dân số Việt 
Nam sử dụng Internet, và dự kiến còn tăng mạnh trong những năm tới, góp phần thúc 
đẩy phát triển nền kinh tế số, trong đó có lĩnh vực FinTech. Theo nghiên cứu của Công 
ty tư vấ Solidiance, thị trường Fi Tech của Việt Nam đạt 4,4 tỷ USD trong năm 2017 
và dự kiến sẽ đạt 7,8 tỷ USD vào năm 2020. Một trong những yếu tố góp phần thúc 
đẩy tiềm năng tăng trưởng của Fintech tại Việt Nam là tỷ lệ bao phủ Internet rộng và 
điện thoại thông mi h được sử dụng phổ biến, tăng thu nhập và nhu cầu tiêu dùng, 
thương mại phát triển. Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới môi trường thuận lợi để 
phát triển FinTech ở Việt Nam, đó là chúng ta có số lượng các chương trình, vườn 
ươm, xúc tiến khởi nghiệp và các c ương trình thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp đứng 
thứ hai trong khu vực ASEAN, chỉ sau Singapore. Việt Nam hiện có câu lạc bộ chuyên 
biệt về FinTech (CLB VietFinTech trực thuộc Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam) để các 
doanh nghiệp trong ngành gặp gỡ, trao đổi, cập nhật và chia sẻ kinh nghiệm, cùng tư 
vấn xây dựng khung pháp lý cho lĩnh vực mới này. Đặc biệt, Chính phủ cũng đang nỗ 
lực triển khai thúc đẩy tài chính toàn diện để thực hiện mục tiêu chiến lược về phát 
triển bền vững. Cùng với chủ trương hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp theo Quyết định 
844/QĐ-TTg ngày 18/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước được 
giao làm cơ quan đầu mối điều phối chung về tài chính toàn diện tại Việt Nam. Ngân 
hàng Nhà nước đã cho phép thử nghiệm một số mô hình hợp tác với các công ty 
FinTech. Tháng 3/2017, Ngân hàng Nhà nước đã thành lập Ban Chỉ đạo về FinTech có 
chức năng đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ sinh thái và khung pháp lý, tạo điều kiện 
cho doanh nghiệp FinTech phát triển. Nhờ đó, hệ thống doanh nghiệp FinTech phát 
triển mạnh mẽ ở Việt Nam. 
Hiện nay, có gần 150 doanh nghiệp Fintech đang hoạt động trong nhiều lĩnh vực 
khác nhau như thanh toán, cho vay ngang hàng, cung cấp giải pháp ngân hàng như xác 
thực điện tử, ứng dụng block hain, dịch vụ tài chính cá nhân Chủ đạo trong các hoạt 
 3 
động Fintech vẫn là thanh toán, có 30 tổ chức trung gian thanh toán được cấp phép, 
phần lớn là tổ chức ví điện tử (27), cổng thanh toán điện tử (26), hỗ trợ thu hộ chi hộ 
(26), chuyển tiền điện tử (9). Bên cạnh đó, hoạt động thanh toán của các ngân hàng 
thương mại cũng rất mạnh, ứng dụng công nghệ mới. 
Bảng: Thanh toán không dùng tiền mặt qua các kênh hiện đại tại Việt Nam 
Số lượng giao dịch 
2017 
(Triệu giao dịch) 
So với 
2016 
Giá giao dịch 
2017 
(Nghìn tỷ đồng) 
So với 
2016 
Thông qua Internet 191 +52% 13.000 +88% 
Thông qua điện 
thoại di động 131 +34% 390 +127% 
Nguồn: Vụ Thanh toán, Ngân hàng Nhà nước (2018) 
Như vậy, qua số liệu thu thập những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng số lượng 
và giá trị giao dịch qua điện thoại và Internet rất lớn. Dịch vụ thanh toán qua mã QR 
code được nhiều ngân hàng thương mại phát triển, có 24 ngân hàng đang triển khai, 
50.000 điểm chấp n ận thanh toán qua mã QR. Năm 2018 có 45,8 triệu người dân 
trưởng thành ở Việt Nam có tài khoản, chiếm 63% dân số trưởng thành, nhưng khả 
năng tiếp cận ngân hàng truyền thống còn hạn chế, đặc biệt với đối tượng dân cư sinh 
sống tại nông thôn. Đây là cơ hội lớn cho sự phát triển của doanh nghiệp Fintech tại 
Việt Nam trong thời gian tới. Điều này cũng nằm trong chiến lược thúc đẩy tiếp cận 
các dịch vụ tài chính và phổ cập tài chính mà Chính phủ đã đề ra tại Quyết định 2545 
về thanh toán không dùng tiền mặt. 
Bên cạnh đó, thương mại điện tử và các giao dịch thanh toán điện tử phát triển 
nhanh chóng cũng tạo đà cho Fintech. Trong quý II/2019, tốc độ phát triển của thanh 
toán dịch vụ ngân hàng qua mobile banking tăng trưởng 160% so cùng kỳ năm 2018, 
trong khi tỷ lệ ở các nước trong khu vực chỉ ở mức 60 - 80%. Nó thể hiện rằng tỉ lệ sử 
dụng điện thoại di động tại Việt Nam rất cao. Đây là một trong những lợi thế để các 
doanh nghiệp Fintech phát triển. Hiện có 78 startup FinTech đang được các nhà đầu tư 
trong và ngoài nước rót vốn, dự kiến sẽ còn tăng theo đà phát triển của FinTech. Có 
khoảng 72% số công ty FinTech lựa chọn hợp tác với ngân hàng để cùng kinh doanh, 
cung ứng dịch vụ; quan hệ hợp tác này sẽ là tiền đề giúp nâng cao chất lượng dịch vụ 
tài chính - ngân hàng ở trong nước. Các lĩnh vực hoạt động của FinTech tại Việt Nam 
gồm có: thanh toán với các công cụ như Moca, Payoo, VinaPay, Momo hoặc cung 
ứng giải pháp thanh toán kỹ thuật số POS/mPOS4 như Hottab, SoftPay; các công ty 
cung cấp nền tảng gọi vốn như FundStart, Comicola, Betado hay FirstSetp; cho vay 
trực tuyến như LoanVi, Timal; quản lý tài chính cá nhân như BankGo, Moneylover, 
Mobivi; quản lý dữ liệu như Trusting, Social, Circle Bii; chuyển tiền như Matchmovie, 
Cash2vn; Blockchain như Bitcoin Vietnam, VBTC Bitcoin. 
Loại hình ví điện tử MoMo hiện là công ty FinTech đang dẫn đầu thị trường tại 
Việt Nam. Được thành lập vào năm 2009, cho tới nay MoMo hiện đã thành lập được 
mạng lưới 4.000 đại lý trên toàn quốc, cho phép người dùng không cần tới chi nhánh 
ngân hàng hoặc các cây ATM, cũng như những người không có tài khoản ngân hàng 
có thể nạp tiền điện tử để sử dụng trong thanh toán di động và nhận tiền chuyển khoản. 
Ở những phân khúc khác, các công ty FinTech Việt Nam vẫn hoạt động ở quy mô nhỏ, 
TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Soá 10 (195) - 2019
19Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
rất lớn. Dịch vụ thanh toán qua mã QR code 
được nhiều ngân hàng thương mại phát triển, có 
24 ngân hàng đang triển khai, 50.000 điểm chấp 
nhận thanh toán qua mã QR. Năm 2018 có 45,8 
triệu người dân trưởng thành ở Việt Nam có tài 
khoản, chiếm 63% dân số trưởng thành, nhưng 
khả năng tiếp cận ngân hàng truyền thống còn 
hạn chế, đặc biệt với đối tượng dân cư sinh sống 
tại nông thôn. Đây là cơ hội lớn cho sự phát triển 
của doanh nghiệp Fintech tại Việt Nam trong 
thời gian tới. Điều này cũng nằm trong chiến 
lược thúc đẩy tiếp cận các dịch vụ tài chính và 
phổ cập tài chính mà Chính phủ đã đề ra tại 
Quyết định 2545 về thanh toán không dùng tiền 
mặt.
Bên cạnh đó, thương mại điện tử và các giao 
dịch thanh toán điện tử phát triển nhanh chóng 
cũng tạo đà cho Fintech. Trong quý II/2019, 
tốc độ phát triển của thanh toán dịch vụ ngân 
hàng qua mobile banking tăng trưởng 160% so 
cùng kỳ năm 2018, trong khi tỷ lệ ở các nước 
trong khu vực chỉ ở mức 60 - 80%. Nó thể hiện 
rằng tỷ lệ sử dụng điện thoại di động tại Việt 
Nam rất cao. Đây là một trong những lợi thế 
để các doanh nghiệp Fintech phát triển. Hiện 
có 78 startup Fintech đang được các nhà đầu 
tư trong và ngoài nước rót vốn, dự kiến sẽ còn 
tăng theo đà phát triển của Fintech. Có khoảng 
72% số công ty Fintech lựa chọn hợp tác với 
ngân hàng để cùng kinh doanh, cung ứng dịch 
vụ; quan hệ hợp tác này sẽ là tiền đề giúp nâng 
cao chất lượng dịch vụ tài chính - ngân hàng ở 
trong nước. Các lĩnh vực hoạt động của Fintech 
tại Việt Nam gồm có: Thanh toán với các công 
cụ như Moca, Payoo, VinaPay, Momo hoặc 
cung ứng giải pháp thanh toán kỹ thuật số POS/
mPOS4 như Hottab, SoftPay; các công ty cung 
cấp nền tảng gọi vốn như FundStart, Comicola, 
Betado hay FirstSetp; cho vay trực tuyến như 
LoanVi, Timal; quản lý tài chính cá nhân như 
BankGo, Moneylover, Mobivi; quản lý dữ liệu 
như Trusting, Social, Circle Bii; chuyển tiền như 
Matchmovie, Cash2vn; Blockchain như Bitcoin 
Vietnam, VBTC Bitcoin.
Loại hình ví điện tử MoMo hiện là công ty 
Fintech đang dẫn đầu thị trường tại Việt Nam. 
Được thành lập vào năm 2009, cho tới nay 
MoMo hiện đã thành lập được mạng lưới 4.000 
đại lý trên toàn quốc, cho phép người dùng không 
cần tới chi nhánh ngân hàng hoặc các cây ATM, 
cũng như những người không có tài khoản ngân 
hàng có thể nạp tiền điện tử để sử dụng trong 
thanh toán di động và nhận tiền chuyển khoản. 
Ở những phân khúc khác, các công ty Fintech 
Việt Nam vẫn hoạt động ở quy mô nhỏ, số lượng 
ít và đang trong giai đoạn phát triển ban đầu. 
Nhưng điều đó cũng cho thấy, Fintech còn rất 
nhiều tiềm năng phát triển tại Việt Nam.
3. Một số đề xuất
Lĩnh vực Fintech ở Việt Nam có tiềm năng 
phát triển rất lớn xét về quy mô dân số và lợi thế 
so sánh về nguồn nhân lực trong lĩnh vực công 
nghệ thông tin. Trên thực tế hiện nay, khuôn khổ 
pháp lý cho Fintech ở Việt Nam mới chỉ đáp 
ứng trong lĩnh vực thanh toán, các phân khúc 
khác của Fintech chưa được điều chỉnh phù 
hợp. Fintech là lĩnh vực không ngừng đổi mới, 
sáng tạo nên việc xây dựng các quy định pháp 
lý thường sẽ chậm hơn so với sự vận hành của 
thị trường. Bên cạnh đó, Fintech hoạt động trên 
nền tảng công nghệ nên luôn phải đương đầu với 
những rủi ro cao. Nhằm tận dụng tối đa những 
lợi ích mà lĩnh vực Fintech có thể đem lại cho 
thị trường tài chính - ngân hàng Việt Nam nói 
riêng và cho tăng trưởng kinh tế nói chung, tạo 
ra sự phát triển hài hòa giữa lĩnh vực ngân hàng 
- Fintech, đồng thời khuyến khích, thúc đẩy đổi 
mới, sáng tạo, cần quan tâm đến một số nội dung 
sau:
Thứ nhất, Nhà nước sớm ban hành khung 
pháp lý đề điều tiết sự phát triển của các phân 
khúc Fintech. Cần có những nghiên cứu đánh giá 
về các cơ hội và thách thức mà lĩnh vực Fintech 
TAØI CHÍNH VÓ MOÂSoá 10 (195) - 2019
20 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
mang lại, cũng như xây dựng một hệ sinh thái 
Fintech hiệu quả. Đồng thời, các cơ quan quản 
lý cũng nên xây dựng những chương trình, hoạt 
động mang tính định hướng giúp các công ty 
khởi nghiệp, các tổ chức tín dụng chủ động tìm 
hiểu về Fintech, đánh giá hiệu quả những công 
nghệ mà Fintech triển khai để giúp các tổ chức 
tín dụng lựa chọn, tìm ra hướng phát triển hiệu 
quả nhất. Ngoài ra, cần có những chính sách 
miễn giảm thuế, hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn, tạo 
môi trường cho đầu tư để các startup Fintech 
phát triển.
Thứ hai, xây dựng chính sách phát triển 
Fintech gắn với phát triển hệ thống tài chính - 
ngân hàng và nền kinh tế. Coi sự phát triển của 
Fintech gắn liền với đẩy mạnh ứng dụng khoa 
học và công nghệ vào lĩnh vực tài chính - ngân 
hàng, là một bộ phận của ngành tài chính - ngân 
hàng, chịu sự quản lý của ngành nghề đặc thù. 
Trên cơ sở đó, tăng cường hợp tác giữa các bên 
trong việc cung ứng sản phẩm Fintech, tạo điều 
kiện cho phát triển Fintech ở Việt Nam trong 
thời gian tới. 
Thứ ba, thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng 
công nghệ blockchain, công nghệ sổ cái phân 
tán... để nhanh chóng áp dụng trong lĩnh vực 
tài chính - ngân hàng và các lĩnh vực khác do 
những lợi ích từ công nghệ này là rất lớn. Song 
song với yếu tố công nghệ, cần nâng cao trình 
độ nguồn nhân lực phục vụ việc nắm bắt và quản 
lý công nghệ Fintech. Có cơ chế khuyến khích 
đào tạo và thu hút nguồn nhân lực chất lượng 
cao cho phát triển Fintech. Đồng thời, tranh thủ 
sự hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn của các tổ chức quốc 
tế như ADB, WBG... và hợp tác song phương 
với các cơ quan quản lý các nước để trao đổi, 
chia sẻ kinh nghiệm hữu ích trong quản lý các 
doanh nghiệp Fintech. 
Thứ tư, đa dạng hóa sản phẩm và phổ cập 
kiến thức về Fintech đến người tiêu dùng. Trên 
cơ sở phát triển sản phẩm Fintech (chủ yếu là 
thanh toán và chuyển tiền), cần mở rộng các sản 
phẩm tiềm năng khác như quản lý tài chính, cho 
vay, tiết kiệm nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng 
của khách hàng. Đồng thời, tích cực quảng bá, 
phổ cập kiến thức cho người dân về Fintech, 
cũng như trang bị những thông tin cần thiết 
nhằm hạn chế rủi ro trong giao dịch Fintech, 
từ đó giúp nhận biết những lợi ích mà Fintech 
mang lại.
Cuối cùng, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa 
các Bộ, ngành có liên quan (Bộ Khoa học và 
Công nghệ, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Ngân 
hàng Nhà nước...) trong việc hoàn thiện khuôn 
khổ pháp lý/quản lý đồng bộ và nhất quán, tạo 
môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát 
triển của Fintech nhằm thúc đẩy sự phát triển 
năng động, bền vững và ổn định của hệ thống 
tài chính ngân hàng Việt Nam cũng như bảo vệ 
quyền lợi của người tiêu dùng, quyền lợi của 
khách hàng sử dụng các dịch vụ tài chính - ngân 
hàng. Bài viết là một phần công bố của đề tài 
KX.01.30/16-20.
Tài liệu tham khảo:
Hoàng Tùng (2018), Fintech - làn sóng công nghệ trong 
lĩnh vực tài chính - ngân hàng, Tạp chí khoa học và công 
nghệ Việt Nam, số 1+2/2019 tr27.
Phương Linh (2018), Hợp tác Fintech - Xu hướng phát 
triển tất yếu của ngân hàng hiện đại. https://www.sbv.gov.vn
SBV (2018), Thúc đẩy công nghệ Fintech và công nghệ 
thông tin trong thời đại chuyển đổi số. Hội thảo triển lãm 
Công nghệ thông tin Hàn Quốc 2018 (Korea ICT Day 2018). 
Thùy Dung (2017), Fintech is a partner rather than a 
bank rival. https://www.thesaigontimes.vn/166515/fintech-
la-doi-tac-chu-khong-phai-doi-thucua-ngan-hang.html.
WEF (2017), “Beyond Fintech: How the Successes 
and Failures of New Entrants Are Reshaping the Financial 
System”, Part of the Future of Financial Services Series - 
Prepared in collaboration with Deloitte, August 2017.
TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Soá 10 (195) - 2019

File đính kèm:

  • pdffintech_nhung_tac_dong_toi_linh_vuc_tai_chinh_va_ngan_hang_t.pdf