Điện ảnh kênh quảng bá hiệu năng của ngành du lịch

TÓM TẮT: Trong kỷ nguyên công nghệ số, các quốc gia quảng bá du lịch thông qua các

kênh marketing khác nhau. Một trong những công cụ hiệu quả là phim ảnh - công cụ được

nhiều nước trên thế giới tiếp cận. Bài viết khái quát một số nét về loại hình du lịch điện

ảnh (Film-induced Tourism) và phân tích những ảnh hưởng của phim ảnh đến hoạt động

du lịch để làm rõ mối quan hệ giữa hai lĩnh vực này.

Từ khóa: du lịch điện ảnh; du lịch theo phim; quảng bá điểm đến; thương hiệu điểm đến.

pdf 9 trang phuongnguyen 1640
Bạn đang xem tài liệu "Điện ảnh kênh quảng bá hiệu năng của ngành du lịch", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điện ảnh kênh quảng bá hiệu năng của ngành du lịch

Điện ảnh kênh quảng bá hiệu năng của ngành du lịch
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Thị Thu 
120 
ĐIỆN ẢNH 
KÊNH QUẢNG BÁ HIỆU NĂNG CỦA NGÀNH DU LỊCH 
CINEMA-AN EFFECTIVE CHANNEL TO PROMOTE TOURISM 
NGUYỄN THỊ THU 
 ThS. Trường Đại học Văn Lang, nguyenthithu@vanlanguni.edu.vn, Mã số: TCKH12-12-2018 
TÓM TẮT: Trong kỷ nguyên công nghệ số, các quốc gia quảng bá du lịch thông qua các 
kênh marketing khác nhau. Một trong những công cụ hiệu quả là phim ảnh - công cụ được 
nhiều nước trên thế giới tiếp cận. Bài viết khái quát một số nét về loại hình du lịch điện 
ảnh (Film-induced Tourism) và phân tích những ảnh hưởng của phim ảnh đến hoạt động 
du lịch để làm rõ mối quan hệ giữa hai lĩnh vực này. 
Từ khóa: du lịch điện ảnh; du lịch theo phim; quảng bá điểm đến; thương hiệu điểm đến. 
ABSTRACT: In the digital era, every country has kept trying to promote their tourist 
products by using various marketing channels. One of the effective tools is film, which 
have been adopted by many countries in the world. This article delineates some overview 
related to film-induced tourism and analyzes mainly effects of film on tourism to define the 
relationship between the two areas. 
Key words: film-induced tourism; movie-induced tourism; destination marketing; brand of 
destination. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Du lịch điện ảnh (Film-induced 
Tourism) và những hiện tượng liên quan đã 
được đề cập đến từ đầu thập niên 60 của 
thế kỷ XX, nhưng phải đến những năm 90, 
đặc biệt là giai đoạn đầu từ thế kỷ XXI đến 
nay, các học thuyết khoa học về loại hình 
du lịch này mới hình thành. Tại Việt Nam, 
đây là chủ đề vẫn chưa được giới nghiên 
cứu du lịch học nghiên cứu chuyên sâu và 
cũng chưa đưa ra một thuật ngữ tiếng Việt 
tương đương mang tính chính thống. Do 
đó, để đảm bảo tính nhất quán, chúng tôi 
xin tạm sử dụng thuật ngữ “du lịch điện 
ảnh” là thuật ngữ chính thức để chỉ loại 
hình du lịch này trong bài viết. 
Để làm rõ các vấn đề mang tính lý luận 
liên quan đến du lịch điện ảnh, chúng tôi sử 
dụng chủ yếu là phương pháp nghiên cứu 
tư liệu (cả sơ cấp và thứ cấp) nhằm hệ 
thống khung lý thuyết về du lịch điện ảnh 
bao gồm: nội hàm của loại hình du lịch 
điện ảnh, các hình thức của loại hình này và 
tác động của nó đến hoạt động du lịch. 
2. KHÁI NIỆM DU LỊCH ĐIỆN ẢNH 
Giới học thuật trên thế giới sử dụng rất 
nhiều thuật ngữ để chỉ loại hình du lịch 
điện ảnh: film-tourism, movie-induced 
tourism, cinematographic-tourism, media-
induced tourism, hoặc thậm chí là media 
pilgrim, và đưa ra định nghĩa hoặc mô tả 
về loại hình du lịch này như sau: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
121 
Hudson và Ritchie đưa ra thuật ngữ 
Film-tourism để chỉ loại hình này và định 
nghĩa: đây là hoạt động mà “du khách đến 
tham quan một điểm đến hoặc điểm thu 
hút, là một hệ quả từ sự xuất hiện các điểm 
đến đặc sắc trên truyền hình, video hoặc 
màn hình điện ảnh” [5, tr.387]. 
Connell và Mayer lại chú ý đến tầm 
quan trọng của các chương trình truyền hình 
trong việc kích thích du lịch và đề xuất khái 
niệm chung là screen-tourism để mô tả loại 
hình du lịch “được tạo ra bởi các chương 
trình truyền hình, video, DVD cũng như 
phim - là sản phẩm của màn ảnh nhỏ và màn 
ảnh rộng (nhưng không phải là các chương 
trình truyền hình được thiết kế chủ yếu để 
quảng bá các điểm đến du lịch, chẳng hạn 
như các chương trình kỳ nghỉ)” [1, tr.2]. 
Sine Heitmann cho rằng, hầu như các 
nghiên cứu mới tập trung vào sự nảy sinh 
của hoạt động du lịch sau khi phát hành một 
bộ phim (nên mới có hậu tố “induced” trong 
nhiều định nghĩa), nhưng du lịch theo phim 
ảnh “cũng có thể được mở rộng để hợp nhất 
với các hoạt động du lịch trong thời gian 
quay phim thông qua sức hút của đội ngũ 
làm phim”. Ở đây, du lịch có thể mang tính 
chất kinh doanh phim ảnh [2, tr.32-33]. 
Bằng hai thuật ngữ khác nhau, Sue 
Beeton phân biệt khá rõ ràng: movie-
induced tourism là loại hình du lịch theo 
phim ảnh liên quan đến “hình thức du lịch 
tại phim trường, đi theo sau sự thành công 
của một bộ phim được thực hiện (hoặc dàn 
dựng) trong một khu vực cụ thể”. Còn film-
induced tourism được hình thành do ảnh 
hưởng từ: “truyền hình, video và DVD”. 
Phim ở đây mang nội hàm rộng hơn, phản 
ánh cả quá trình sản xuất phim và bao hàm 
“sự thăm viếng đến điểm quay những bộ 
phim hoặc các chương trình truyền hình 
cũng như những tour đến xưởng làm phim, 
bao gồm cả các công viên chủ đề” [7]. 
Dù đưa ra những quan niệm khác nhau 
nhưng các tác giả đều gặp nhau ở động cơ 
du lịch của du khách: xuất phát từ những 
điểm đến đặc sắc xuất hiện trong phim ảnh 
sau khi bộ phim được trình chiếu. Như vậy, 
có thể hiểu nội hàm của du lịch điện ảnh là 
loại hình/hoạt động du lịch được hình thành 
và khai thác dựa trên hiệu ứng từ phim ảnh, 
trong đó, sự ấn tượng đối với hình ảnh 
điểm đến trên màn ảnh trở thành động lực 
chính góp phần lựa chọn địa điểm thăm 
viếng của du khách. 
3. CÁC HÌNH THỨC VÀ ĐẶC ĐIỂM 
CỦA DU LỊCH ĐIỆN ẢNH 
Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra sự 
phong phú trong dạng thức của du lịch điện 
ảnh. Trên quan điểm cho rằng, loại hình du 
lịch này bao hàm phạm vi khá rộng, liên 
quan đến nhiều nhân tố trong quá trình làm 
phim chứ không phải chỉ là điểm quay 
phim, Sue Beeton đã tập hợp các phân loại 
của một số nhà nghiên cứu, đồng thời bổ 
sung, phát triển và đưa ra một bảng mô tả 
các hình thức, đặc điểm cụ thể và ví dụ 
minh họa cụ thể trong bảng dưới đây. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Thị Thu 
122 
Bảng 1. Các hình thức và đặc điểm của Du lịch theo phim ảnh [7] 
Hình thức Đặc điểm Ví dụ 
Tại địa điểm quay phim (On-Location) 
Du lịch điện ảnh là động 
lực chủ yếu (Film tourism 
as primary travel motivator) 
Nơi làm phim có sức hấp dẫn riêng, đủ tạo động lực cho 
sự thăm viếng (The film site is an attraction in its own 
right - strong enough to motivate visitation) 
Isle of Mull 
(Balamory) 
Du lịch điện ảnh là một 
phần của kỳ nghỉ (Film 
tourism as part of a holiday) 
Thăm quan địa điểm trong phim (hoặc xưởng phim) chỉ là một hoạt động/ một 
phần trong một kỳ nghỉ chính (thời gian dài hơn) (Visiting film locations (or 
studios) as part of a holiday an activity within a larger holiday) 
Cuộc hành hương du 
lịch điện ảnh (Film 
tourism pilgrimage) 
Thăm quan những địa điểm trong phim để “tôn vinh” bộ 
phim. Có thể được tái hiện lại (Visiting sites of films in 
order to “pay homage” to the film; possible reenactments) 
Doune Castle (Monty 
Python), The Lord of 
the Rings 
Du lịch điện ảnh dựa trên 
yếu tố người nổi tiếng 
(Celebrity film tourism) 
Nhà của những người nổi tiếng; Phim được thực hiện ở 
những địa điểm nổi tiếng (Homes of celebrities; film 
locations that have taken on celebrity status) 
Hollywood homes 
Du lịch điện ảnh mang tính hồi 
tưởng (Nostalgic film tourism) 
Thăm quan điểm quay phim đại diện cho một kỷ nguyên/ 
thời đại khác (Visiting film locations that represent another era) 
The Andy Griffith Show 
(1950s), Heartbeat (1960s) 
Điểm quay phim mang tính thương mại (Commercial, On-location) 
Điểm thu hút du lịch điện ảnh 
được tạo dựng (Constructed 
film tourism attraction) 
Một địa điểm hấp dẫn được xây dựng sau khi bộ phim 
hoàn thành để thu hút/ phục vụ du khách (An attraction 
constructed after the filming purely to attract/serve tourists) 
Heartbeat Experience 
(Whitby, UK) 
Các tour theo phim 
(Film/Movie tours) 
Những tour được phát triển đến những điểm làm phim 
khác nhau (Tours developed to various film locations) 
On location Tours, 
MovieTours 
Du lịch có người hướng 
dẫn tại địa điểm quay được 
dàn dựng (Guided tours at 
specific on-location set) 
Tour bao gồm những địa điểm đặc biệt, thường thuộc tư 
nhân (Tours of specific sites, often on private land) 
Hobbiton 
Nhầm lẫn danh tính (Mistaken Identities) 
Du lịch điện ảnh đến 
những điểm được cho là 
nơi quay phim (Film 
tourism to places where the 
filming is only believed to 
have taken place) 
Những bộ phim điện ảnh và chuỗi phim truyền hình được 
quay ở một nơi được tạo dựng tương tự một địa điểm 
khác; thường nằm ở nước khác vì lý do tài chính (Movies 
and television series that are filmed in one place that is 
created to look like another; often in other countries for 
financial reasons; known as ‘runaway productions’) 
Deliverance, layburn 
County (movie filmed 
there, but set in 
Appalacha) 
Du lịch điện ảnh đến 
những nơi bộ phim là bối 
cảnh, không phải là điểm 
quay phim (Film tourism 
to places where the film 
is set, but not filmed) 
Những bộ phim thu hút sự quan tâm về một đất nước, 
vùng miền hoặc một địa điểm cụ thể, nơi mà câu chuyện 
được viết nên chứ không phải nơi mà thực sự bấm máy 
(The films have raised interst in a particular country, 
region or place, where the story is based, not where it 
was actually filmed) 
Braveheart, Scotland 
(movie filmed in 
Ireland) 
Tính thương mại, các điểm liên quan đến phim (nhưng không phải điểm làm phim) 
(Commercial, Off-Location) 
Du lịch đến các xưởng 
phim (Film studio tours) 
Tour liên quan đến công nghiệp điện ảnh của xưởng phim và có thể 
quan sát được quy trình làm phim trên thực tế (Industrial tours of 
working film studios, where the actual filming process can be viewed) 
Paramount Studios 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
123 
Công viên chủ đề phim 
trường (Film studio 
theme park) 
Thường gần kề các xưởng phim, được xây dựng đặc biệt 
để phục vụ du khách nhưng không phải là nơi thực sự 
quay hay sản xuất phim (Usually adjacent to a studio, 
specifically built for tourism with no actual filming or 
production taking place) 
Universal Studios 
Bảo tàng (Museums) 
Bảo tàng và những trung tâm được đặc biệt xây dựng để 
tán dương bộ phim, và thu hút du khách, có thể bao gồm 
những triển lãm đặc biệt tại các bảo tàng tổng hợp 
(Museums and centres especially built to celebrate film, 
and attracts tourists; can include special exhibitions at 
more general museums) 
Moving Image Museum 
(London); Australian 
Centre For The Moving 
Image; general museums 
Phim trường được dàn 
dựng (Constructed studios) 
Không phải là công viên chủ đề, xưởng làm phim hay 
bảo tàng được dựng lên cho người hâm mộ tham quan 
và trải nghiệm (Not a theme park, working studio or 
museum, but constructed as a place for fans to visit and 
have an experience) 
Studio Gibley, Japan 
Sự kiện một lần hoặc định kỳ (One-off or Recurring Events) 
Sự kiện ra mắt phim 
(Movie premieres) 
Đặc biệt là những nơi không phải là địa điểm thông lệ 
như Hollywood (Particularly those outside traditional 
sites such as Hollywood) 
Lord of the Rings 3 
(New Zealand); 
Mission Impossible II 
(Sydney) 
Liên hoan phim 
(Film festivals) 
Nhiều thành phố tổ chức liên hoan phim thu hút người 
hâm mộ (Many cities hold film festivals that attract film 
buffs and fans for the event) 
Cannes, Edinburgh 
Những sự kiện do fan tổ 
chức (Fan-based events) 
Người tham gia mặc trang phục của nhân vật, gặp gỡ 
các ngôi sao và mua đồ lưu niệm. Trụ sở: tại các điểm tổ 
chức hội nghị, không phải là các địa điểm quay phim 
hay xưởng phim (Often events where participants dress 
Comic Con in character, meet the stars (both in and out 
of costume) and purchase memorabilia. Based at 
convention sites, not filming sites or studios) 
Comic Con 
Du ngoạn trên ghế bành/ Du lịch qua màn ảnh nhỏ (Armchair Travels) 
Chương trình truyền 
hình du lịch (TV travel 
programmes) 
Là sự kế thừa từ các loại sách du lịch; có thể mang tính 
hài hước/châm biếm (The successor to travelguidebooks 
and written travelogues; can also be comedic/satirical) 
Gateway, Pilot Guides, 
An Idiot Abroad 
Chương trình ẩm thực 
(Gastronomy programmes) 
Nhiều chương trình nấu ăn đưa người xem đến các địa 
danh khác nhau trên thế giới (Many cooking shows take 
the viewer to various places around the world, usually 
featureing the food of the region) 
Cook’s Tour, Rick Stein’s 
programmes 
Phim tài liệu về văn hóa 
và thế giới tự nhiên 
(Documentaries (Cutural 
and natural) 
Không tập trung vào việc kinh doanh (như nhiều 
chương trình du lịch khác), những bộ phim tài liệu này 
tập trung vào những điểm kỳ lạ và ít thấy trên thế giới 
(While not focused on selling travel (as many travel 
programmes), these documentaries focus on the exotic 
and usual in the world) 
National Geographic, 
David Attenborough 
programmes 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Thị Thu 
124 
4. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA PHIM 
ẢNH ĐẾN HOẠT ĐỘNG DU LỊCH 
Bất kỳ một công cụ quảng bá và kích 
cầu du lịch nào cũng hàm chứa cả ưu, khuyết 
điểm đối với hoạt động du lịch. Nhằm chỉ ra 
triển vọng khi kết nối hai lĩnh vực du lịch và 
điện ảnh, trong phạm vi của bài viết, chúng 
tôi chỉ đề cập đến những hệ quả tích cực mà 
phim ảnh mang lại cho hoạt động du lịch. 
4.1. Đối với du khách 
Phim ảnh tác động đến động cơ du lịch và 
quyết định lựa chọn điểm đến của du khách 
Phim ảnh sản xuất không phải để hướng 
đến du lịch nhưng lại tạo cơ hội cho các điểm 
đến xuất hiện, phổ biến trên các phương tiện 
truyền thông, góp phần nâng cao nhận thức về 
điểm đến và thu hút sự chú ý của công chúng, 
đặc biệt là các điểm đến xuất hiện trong 
những bộ phim được nhiều người theo dõi 
(các bộ phim bom tấn). Như vậy, đây được 
xem như một kênh thông tin cho du khách. 
Phim ảnh còn góp phần tạo động lực du 
lịch, được coi là yếu tố hút (Pull Factors), tức các 
yếu tố “hình thành từ chính đặc tính của điểm 
đến” [6, tr.88]. Thực tế, phim ảnh (đặc biệt là 
những bộ phim nổi tiếng hay phim bom tấn) có 
thể trở thành lý do duy nhất của chuyến du lịch. 
Nhiều du khách châu Á mong muốn tới 
Hàn Quốc sau khi xem những bộ phim 
truyền hình của nước này, họ bị mê hoặc 
bởi dàn diễn viên xinh đẹp và bối cảnh tuyệt 
vời trong phim,... Số đông du khách muốn 
tới Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) vì ấn tượng bởi 
màu sắc, cuộc sống của thành phố trên phim 
“Skyfall” và “Taken 2”. Tương tự tại Việt 
Nam, khi những cảnh sắc thiên nhiên và 
văn hóa độc đáo của đồng bào dân tộc 
Mông xuất hiện trong phim “Chuyện của 
Pao”, thung lũng Sủng Là ở Hà Giang đã 
trở thành địa điểm được đông đảo du khách 
(đặc biệt là thanh niên) tìm đến [11],... 
Thị trường du khách theo phim ảnh bị 
phân khúc dựa trên đặc tính của các điểm 
đến và thể loại phim. Phim hành động sẽ có 
sức hấp dẫn với nam giới và giới trẻ. Trong 
khi đó, phụ nữ (đặc biệt là các bà nội trợ) 
và người lớn tuổi lại bị thu hút bởi phim gia 
đình, từ đó kéo theo sự phân khúc du khách 
đối với các điểm đến xuất hiện trên phim. 
Du lịch theo phim ảnh mang lại trải 
nghiệm độc đáo 
Trải nghiệm có thể xuất hiện ngay trong 
chuyến đi. Suốt thời gian đó, dù là vô thức 
hay ý thức, nhiều du khách đối chiếu địa 
điểm làm phim trên thực tế với tưởng tượng 
của mình và dần thay đổi nhận thức về nó. 
Du khách quan tâm tới điểm đến vì tò mò về 
những mô tả trên phim, họ “đi không phải để 
kiểm chứng hình ảnh bằng thực tế mà kiểm 
chứng tính xác thực bằng hình ảnh” [7]. 
Trải nghiệm cũng có thể hình thành sau 
khi chuyến đi. Nhiều du khách thường lựa 
chọn mua bộ phim được quay tại điểm đến 
để làm quà lưu niệm. Xem lại phim sau 
chuyến đi là cách sống lại những kỷ niệm, 
trải nghiệm tại điểm đến, giúp “gia tăng 
những ký ức cảm xúc, cho phép người 
xem xây dựng một câu chuyện du lịch bổ 
sung liên quan đến bộ phim, có thể được tách 
ra từ trải nghiệm cá nhân về địa danh đó” [4, 
tr.17]. Cảnh trong phim có thể gợi lại toàn bộ 
kỳ nghỉ. Điều đó tạo nên sự khác biệt giữa 
phim và các sản phẩm lưu niệm khác. 
4.2. Đối với điểm đến 
Phim ảnh quảng bá miễn phí và hữu 
hiệu cho điểm đến 
Hình ảnh điểm đến là kết quả nhận thức 
của khách du lịch về các thuộc tính của điểm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
125 
đến. Nó dựa trên yếu tố truyền thông (Media-
based destination imaging) tồn tại dưới hai 
dạng: hình ảnh truyền thông chính thức: là 
những thiết kế nhằm quảng bá điểm đến (sách 
giới thiệu, tờ rơi, tạp chí du lịch, website, 
DVD, phim tài liệu du lịch trên truyền 
hình,); và hình ảnh truyền thông không 
chính thức gồm: tiểu thuyết, ảnh, truyền hình, 
các website, tạp chí, chương trình và loạt 
phim truyền hình,... Dạng này không do 
chuyên gia tạo ra để quảng bá, không mang 
tính không vụ lợi nên nó không tạo cảm giác 
phiền hà, từ đó thúc đẩy du lịch và ảnh hưởng 
đến kỳ vọng của du khách về điểm đến, đặc 
biệt còn có thể tạo nên hình ảnh đẹp, thậm chí 
thay đổi định kiến tiêu cực về điểm đến. 
Cách đây gần nửa thế kỷ, Hàn Quốc vẫn 
là nước đang phát triển. Chỉ vài thập kỷ sau, 
Hàn Quốc đã tạo nên “Điều kỳ diệu trên sông 
Hàn” (The Han’s Miracle) với nền kinh tế 
hưng thịnh cùng làn sóng Hàn Quốc (Hallyu/ 
Korean wave) lan tỏa khắp toàn cầu. Không 
thể phủ nhận rằng, các điểm đến ấn tượng 
như đảo Jeju, đảo Nami, Changdeokgung, 
công viên Lotte World, thu hút du khách 
quốc tế chính là nhờ tác động không nhỏ của 
ngành giải trí mà đặc biệt là sự đóng góp đắc 
lực của công nghiệp điện ảnh Hàn Quốc. 
Nhiều địa điểm ít quan trọng trở thành điểm 
tham quan vì chúng xuất hiện trên phim ảnh 
Khu “ổ chuột” ở Dharavi (Ấn Độ) - bối 
cảnh chính cho phim “Triệu phú ổ chuột”, từ 
một khu chợ nghèo nàn không có sức hấp 
dẫn cũng đã hoàn toàn lột xác khi trở thành 
điểm đến hấp dẫn sau khi bộ phim này giành 
giải Oscar năm 2009. Một trường hợp khác là 
vào năm 2011, ngôi làng Juzca ở Tây Ban 
Nha được lựa chọn là địa điểm quay bộ phim 
“The Smurts”. Sony Pictures còn đưa ra ý 
tưởng vẽ xanh toàn bộ ngôi làng để quảng bá 
cho bộ phim. Từ đó, ngôi làng được cả thế 
giới biết đến, lượng khách du lịch đến với 
Juzcar ngày càng đông hơn. Cư dân tại đây 
hiện sống nhờ các dịch vụ du lịch [8]. 
Việc gia tăng hoạt động du lịch tại điểm 
đến kéo theo sự thay đổi diện mạo của cộng 
đồng cư dân sở tại. Những tác động này gồm: 
tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân, 
mở rộng giao tiếp và tương tác văn hóa với 
môi trường bên ngoài, góp phần nâng cao 
chất lượng cuộc sống, hiện đại hóa lối sống 
và đa dạng hóa văn hóa tại điểm đến, 
Phim ảnh nâng tầm giá trị điểm đến. 
Thông qua phim ảnh, một điểm du lịch 
dù đã nổi tiếng nhưng vẫn có thể ấn tượng 
và gây ngạc nhiên hơn nữa với du khách. 
Bruges (Bỉ) - thành phố thời Trung cổ có 
sức hấp dẫn vẫn có khả năng tạo thêm dấu 
ấn nếu hướng dẫn viên địa phương cung 
cấp thêm thông tin về sự xuất hiện của nó 
trong bộ phim nổi tiếng “In Bruges”. 
4.3. Đối với hoạt động kinh doanh du lịch 
Phim ảnh là công cụ marketing miễn 
phí và hiệu quả 
Phim ảnh là một trong những kênh 
thông tin về điểm đến. Mục đích của quảng 
bá du lịch là cung cấp cho du khách tiềm 
năng cái nhìn chung nhất về điểm đến. Việc 
giới thiệu bằng hình ảnh mà đặc biệt là 
những hình ảnh động và chân thực có lẽ là 
cách làm thuyết phục nhất và tạo dấu ấn đậm 
nét ở khán giả bởi nó lồng vào đó cốt truyện, 
cảnh trí được gắn với mảnh đời các nhân vật. 
Phim ảnh còn kênh quảng bá miễn phí, 
giúp các hãng lữ hành tiết kiệm chi phí cho 
việc quảng bá các thông tin liên quan tới điểm 
đến du lịch. Hơn thế, công cụ marketing này 
được đánh giá là ưu việt hơn về khả năng tiếp 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Thị Thu 
126 
cận với đông đảo công chúng hơn các phương 
tiện truyền thông chính thức mà nguyên nhân 
là những hạn chế về tài chính của các đơn vị 
kinh doanh lữ hành. Các cuộc khảo sát ở New 
Zealand ước tính, chiến dịch marketing sẽ tốn 
khoảng hơn 41 triệu đô la để đạt được hiệu 
ứng tương tự mà bộ phim “The Lord of the 
Rings” đã làm được [3, tr.23]. 
Phim ảnh kích thích sự tăng trưởng 
lượng du khách tại điểm đến, từ đó tạo 
doanh thu lớn cho kinh doanh du lịch 
Các nghiên cứu cho thấy, lượng du 
khách có thể tăng đến 93% trong 1 năm sau 
khi bộ phim được công chiếu, thậm chí 5 
năm sau có thể lên đến 96% [3, tr.15]. Phim 
“Indochina” đã đưa số du khách đến Hạ 
Long (Việt Nam) tăng gấp 2,5 lần chỉ sau 2 
năm (từ năm 1992 đến năm 1994) [14]. Một 
trong những bối cảnh của bộ phim “Người 
tình” là ngôi nhà cổ của ông Huỳnh Thủy Lê 
(nguyên mẫu nhân vật nam chính trong 
phim) trở thành một trong những điểm du 
lịch văn hóa tiêu biểu, được nhiều du khách 
tìm đến khi đến Đồng Tháp. Đặc biệt gần đây 
nhất là năm 2017, siêu phẩm “Kong: Skull 
Island” là bộ phim bom tấn đầu tiên của 
Hollywood với 70% bối cảnh quay tại Việt 
Nam. Theo thống kê của một số công ty du 
lịch, lượng khách trong nước và quốc tế đặt 
tour đến các địa danh xuất hiện trong phim 
như Hạ Long, Tràng An (Ninh Bình), Phong 
Nha (Quảng Bình) tăng từ 20 - 40% [14]. Sự 
bùng nổ của du lịch Thái Lan khi lượng du 
khách Trung Quốc đến đây vào năm 2013 
tăng gần gấp đôi so với năm trước nhờ thành 
công của bộ phim “Lost in Thailand” chiếu 
tại Trung Quốc năm 2012 [13]. 
Sự tăng trưởng lượng du khách du lịch 
theo phim ảnh đóng góp đáng kể cho kinh 
doanh du lịch. Theo thống kê của Cơ quan 
Quản lý Du lịch Anh quốc năm 2003, mỗi 
đồng bảng Anh chi cho việc sản xuất phim 
sẽ thu về 17 bảng Anh từ chi tiêu của du 
khách tại một điểm làm phim, chi tiêu của 
du khách nước ngoài theo phim ảnh (chiếm 
20% tổng du khách nước ngoài) mang lại 
2,5 tỷ bảng mỗi năm nước Anh, [3, tr.23]. 
Các bộ phận liên quan như khách sạn cũng 
hưởng lợi khi xuất hiện trong bộ phim nổi 
tiếng và trở thành “những khách sạn mang 
tính biểu tượng”, có doanh thu tăng trưởng 
cao sau khi các bộ phim ra rạp. Khách sạn 
The Dodler ở Thụy Sĩ (phim “The Girl With 
The Dragon Tattoo”) hay Le Bristol Paris 
(phim “Midnight in Paris”) đều nhận được 
rất nhiều yêu cầu đặt phòng (đặc biệt là 
những phòng đã xuất hiện trong phim) [8]. 
Ngoài ra, du lịch lấy cảm hứng từ phim 
ảnh được đánh giá là hoạt động có thể diễn 
ra suốt năm và trong mọi thời tiết. Do đó, 
tính mùa vụ trong du lịch của điểm đến sẽ 
được khắc phục đáng kể. 
5. KẾT LUẬN 
Hoạt động du lịch lấy cảm hứng từ 
phim ảnh tuy không phải là loại hình du lịch 
mới trên thế giới nhưng vẫn là một trong 
những xu hướng và sẽ ngày càng phổ biến 
hơn trong bối cảnh phát triển công nghệ số. 
Những bộ phim tài liệu, phim chuyên đề 
nhằm giới thiệu đất nước, con người trong 
các chuyên mục du lịch, văn hóa tuy chứa 
đựng những thông tin khá cụ thể nhưng 
chưa chắc sẽ mang lại hiệu quả trong việc 
tạo ra ấn tượng cho người xem khi những 
thông tin đó được lồng vào một bộ phim. 
Trên thực tế, điện ảnh luôn cần những 
đề tài bối cảnh cũng như phong cảnh đẹp 
để tạo ra những thước phim ấn tượng, trong 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 12, Tháng 11 - 2018 
127 
khi đó, du lịch lại cần giới thiệu các hình 
ảnh này đến các du khách tiềm năng để 
thúc đẩy nhu cầu du lịch trong họ. Điều này 
đặc biệt có ý nghĩa và mở ra nhiều cơ hội 
phát triển du lịch đối với một quốc gia sở 
hữu nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và 
nhân văn phong phú như Việt Nam. Vì thế, 
việc nhận thức sự tồn tại mối quan hệ hữu 
cơ giữa hai lĩnh vực này là rất quan trọng 
và sẽ quyết định phần nào hướng quảng bá 
và phát triển du lịch tại nước ta hiện nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Joanne Connell, Denny Meyer (2009), Balamory revisited: an evaluation of the screen 
tourism destination-tourist nexus, Tourism Management, 30(2), IPC Science and 
Technology Press Ltd, UK. 
[2] Sine Heitmann (2010), Film Tourism Planning and Development—Questioning the 
Role of Stakeholders and Sustainability. In Tourism and Hospitality Planning and 
Development, Vol. 7, No. 1, UK. 
[3] Jorden Hellemans (2013/2014), Film Induced Tourism - Television series, Universidad 
Católica San Antonio de Murcia, Spain. 
[4] David Horrigan (2009), Branded content: A new model for driving tourism via film and 
branding strategies, Tourismos, Vol. 4, No.3, University of the Aegean, Greece. 
[5] Simon Hudson, J. R. Brent Ritchie (2006), Promoting Destinations via Film Tourism: 
An Empirical Identification of Supporting Marketing Initiatives, Journal of Travel 
Research, Vol. 44, Sage Publications, US. 
[6] Niki Macionis (2004), Understanding the Film-Induced Tourist, International Tourism 
and Media Conference, Monash University, Australia. 
[7] Sue Beeton (2016): Film-Induced Tourism: 2nd edition, Channel View Publication, UK 
https://books.google.com.vn/books?hl=en&lr=&id=rKn2DAAAQBAJ&oi=fnd&pg=PT13
&dq=film+induced+tourism+sue+beeton+pdf&ots=cNbso_hnjE&sig=4H6briU5Fogp5apk
ydYyLBWKRoA&redir_esc=y#v=onepage&q=film%20induced%20tourism%20sue%20b
eeton%20pdf&f=false, truy cập ngày 17-12-2017. 
[8] Minh Anh (2014), Ngôi làng đặc biệt "khoác áo" màu xanh da trời, 
https://dulich.dantri.com.vn/diem-den-moi-tuan/ngoi-lang-dac-biet-khoac-ao-mau-xanh-
da-troi-1406874647.htm, ngày truy cập: 17-06-2018. 
[9] Nha Đam (2016), Hollywood – “hãng quảng bá du lịch” hàng đầu thế giới?, 
gioi-n20160224145433373.htm, ngày truy cập: 28-06-2018. 
[10] Hồ Hạ (2017), Quảng bá du lịch nhìn từ hiệu ứng phim “Kong: Skull Island”: Đã chậm, 
lại thiếu chuyên nghiệp, 
skull-island-da-cham-lai-thieu-chuyen-nghiep-283176.html, ngày truy cập: 25/10/2018. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Nguyễn Thị Thu 
128 
[11] Nguyễn Hương (2013), Khi Điện ảnh và Du lịch chưa đồng hành, 
dien-anh-va-du-lich-chua-dong-hanh-99230878.htm, ngày truy cập: 28-06-2018. 
[12] Diệu Linh (2017), “Điện ảnh”- Kênh quảng bá hữu hiệu cho du lịch Việt Nam, 
cho-du-lich-viet-nam.html, ngày truy cập: 28-06-2018. 
[13] Bích Ngọc (2016), Khu ổ chuột lớn nhất châu Á sắp có viện bảo tàng 
https://dantri.com.vn/van-hoa/khu-o-chuot-lon-nhat-chau-a-sap-co-vien-bao-tang-
20160108125425307.htm, ngày truy cập: 28-06-2018. 
[14] Đỗ Cẩm Thơ (2017), Du lịch với điện ảnh - liên kết để phát triển du lịch và quảng bá 
hình ảnh quốc gia, 
voi-phat-trien-du-lich-a3429, ngày truy cập: 28-06-2018 . 
Ngày nhận bài: 18-8-2018. Ngày biên tập xong: 29-10-2018. Duyệt đăng: 28-11-2018 

File đính kèm:

  • pdfdien_anh_kenh_quang_ba_hieu_nang_cua_nganh_du_lich.pdf