Đánh giá khả năng xảy ra khủng khoản nợ dựa trên bền vững nợ công tại Việt Nam

Trong bối cảnh khó khăn, Chính phủ các nước sử dụng nhiều chính sách để hỗ trợ

nền kinh tế khắc phục hậu quả của Covid-19 khiến các quốc gia đang lâm vào tình

trạng nguồn thu sụt giảm, nhu cầu chi tiêu công gia tăng khiến nợ công tăng cao.

Trước tình hình đó, các quốc gia không có nhiều sự lựa chọn như giãn nợ, tái cấu

trúc khoản nợ, nguy cơ vỡ nợ và khủng hoảng nợ xảy ra là điều tất yếu. Việt Nam

mặc dù kiểm soát được tình hình nợ công nhưng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, như áp

lực trả nợ nước ngoài dưới hình thức trả nợ trái phiếu quốc tế, khoản vay ít ưu đãi

với điều kiện vay thương mại khắt khe và nguy cơ rủi ro về lãi suất do nhiều khoản

vay có lãi suất thả nổi, rủi ro tỷ giá

pdf 12 trang phuongnguyen 440
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá khả năng xảy ra khủng khoản nợ dựa trên bền vững nợ công tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá khả năng xảy ra khủng khoản nợ dựa trên bền vững nợ công tại Việt Nam

Đánh giá khả năng xảy ra khủng khoản nợ dựa trên bền vững nợ công tại Việt Nam
13
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 222- Tháng 11. 2020
Đánh giá khả năng xảy ra khủng khoản nợ dựa trên 
bền vững nợ công tại Việt Nam
Lê Thị Diệu Huyền
Học viện Ngân hàng
Nguyễn Diệu Linh
Sinh viên K19CLCA, Học viện Ngân hàng
Ngày nhận: 06/07/2020 
Ngày nhận bản sửa: 11/08/2020 
Ngày duyệt đăng: 25/08/2020
Trong bối cảnh khó khăn, Chính phủ các nước sử dụng nhiều chính sách để hỗ trợ 
nền kinh tế khắc phục hậu quả của Covid-19 khiến các quốc gia đang lâm vào tình 
trạng nguồn thu sụt giảm, nhu cầu chi tiêu công gia tăng khiến nợ công tăng cao. 
Trước tình hình đó, các quốc gia không có nhiều sự lựa chọn như giãn nợ, tái cấu 
trúc khoản nợ, nguy cơ vỡ nợ và khủng hoảng nợ xảy ra là điều tất yếu. Việt Nam 
mặc dù kiểm soát được tình hình nợ công nhưng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, như áp 
lực trả nợ nước ngoài dưới hình thức trả nợ trái phiếu quốc tế, khoản vay ít ưu đãi 
với điều kiện vay thương mại khắt khe và nguy cơ rủi ro về lãi suất do nhiều khoản 
vay có lãi suất thả nổi, rủi ro tỷ giá Bài nghiên cứu xem xét nguy cơ xảy ra khủng 
hoảng nợ công tại Việt Nam dựa trên mức độ bền vững nợ công theo mô hình Cây 
nhị phân. Kết quả cho thấy, nguy cơ xảy ra khủng hoảng nợ còn thấp nhưng để đảm 
bảo bền vững nợ, Chính phủ cần tăng cường kiểm soát vĩ mô, kiểm soát hiệu quả 
Assess the possibility of debt crisis based on public debt sustainability in Vietnam
Abstract: In the difficult context, governments of many countries use policies to support the economy to 
overcome the consequences of Covid-19, These leads to reduce revenues and rise public expenditure, 
causing to high public debt. Under these circumstances, countries do not have many options such as 
debt restructuring, debt rescheduling, the risk of default and the debt crisis is inevitable. Vietnam has 
managed to control the public debt but there are still many risks: the pressure to repay foreign debt, 
the less favorable and commercial loans, interest rate and exchange rate risks... The study examines the 
possibility of public debt crisis in Vietnam based on public debt sustainability under Binary Recurrsive 
Tree methodology. Therefore, the Government has controlled macro economy, effectively loans and 
improved fiscal discipline as well as coordinated policies to avoid public debt crisis.
Keywords: Public debt sustainability, Public debt crisis, State budget.
Huyen Thi Dieu Le
Email: huyenltd@hvnh.edu.vn
Banking Academy of Vietnam
Linh Dieu Nguyen
Email: dieulinh.2710@gmail.com
Banking Academy of Vietnam
Đánh giá khả năng xảy ra khủng khoản nợ dựa trên bền vững nợ công tại Việt Nam
14 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 222- Tháng 11. 2020
các khoản vay nợ và nâng cao kỷ luật tài khóa cũng như cơ chế phối hợp chính sách 
nhằm tránh khủng hoảng nợ công có thể xảy ra trong tương lai.
Từ khóa:Bền vững nợ công, khủng hoảng nợ công, Ngân sách Nhà nước.
1. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên 
cứu về tính bền vững nợ công và khủng 
hoảng nợ
Theo quan điểm của Ngân hàng Thế giới 
(World Bank- WB, 2002), nợ công là toàn 
bộ những khoản nợ của Chính phủ và 
những khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh. 
Theo quan điểm của Quỹ tiền tệ quốc tế 
(IMF, 2012), nợ công là tất cả các nghĩa 
vụ trả nợ của Chính phủ và các tổ chức 
công. Tại Việt Nam, Luật Quản lý nợ công 
năm 2017, sửa đổi đã quy định, nợ công 
bao gồm: nợ chính phủ; nợ được Chính phủ 
bảo lãnh; nợ chính quyền địa phương. Bên 
cạnh đó, theo quan điểm của tổ chức phát 
triển tài chính quốc, nợ bền vững chính là 
khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ của một 
quốc gia mà không cần phải xóa nợ hay lũy 
kế nợ. Theo WB (2006) định nghĩa “Nợ 
công nước ngoài của một quốc gia được 
coi là bền vững nếu như các nghĩa vụ nợ 
(trả gốc và lãi) được thực hiện một cách 
đầy đủ mà không cần sử dụng đến các biện 
pháp tài trợ ngoại lệ hoặc không cần phải 
thực hiện những điều chỉnh lớn đối với cán 
cân thu nhập và chi tiêu của mình”. Theo 
IMF (2011) thì nợ được coi là bền vững khi 
người đi vay nợ kỳ vọng có khả năng chi 
trả mà không cần phải thay đổi quá nhiều 
giữa nguồn thu nhập và cân đối chi tiêu 
trong tương lai. Ngoài ra, WB đã xây dựng 
khung nợ bền vững (DSF) áp dụng cho các 
nước thu nhập thấp (2006), IMF hướng 
dẫn toàn cầu về thống kê nợ của khu vực 
công, cung cấp hướng dẫn tính bền vững 
nợ công, những công cụ để phân tích bền 
vững nợ dựa trên các chỉ số. Với các nghiên 
cứu cho thấy đảm bảo tính bền vững nợ để 
phòng tránh khủng hoảng nợ có thể xảy ra. 
Cho đến hiện nay, nhiều nghiên cứu liên 
quan đến nợ công, tính bền vững của nợ 
công và nguy cơ khủng hoảng nợ: 
Bài nghiên cứu “The future of public debt: 
prospects and implications” của các tác 
giả Stephen G Cecchetti, M.S. Mohanty và 
Fabrizio Zampolli (2010) đã phân tích các 
chỉ số thực trạng cán cân ngân sách, vay nợ 
của Chính phủ, nợ công ở một số quốc gia 
và đưa ra những dự báo về tương lai, nguy 
cơ khủng hoảng nợ công ở các nước phát 
triển như Anh, Mỹ, Đức, Nhật Bản, Pháp 
khi nhận thấy tính không bền vững của nợ 
công. Đồng thời, chỉ ra một số gợi ý chính 
sách để nhằm kiểm soát nợ công và ngăn 
chặn những khủng hoảng có thể xảy ra do 
mất bền vững nợ công tại các nước. Bên 
cạnh đó, báo cáo “Debt and Deleveraging: 
The Global Credit Bubble and Its Economic 
Consequences” của McKinsey (2010) đã 
nghiên cứu về tác động của nợ và các đòn 
bẩy tài chính tới tín dụng toàn cầu và hệ 
quả kinh tế của nó tại các nước phát triển 
như Canada, Pháp, Đức, Ý và các nền 
kinh tế mới nổi như Brazil, Trung Quốc, Ấn 
Độ. Nghiên cứu cho thấy cách ngăn chặn 
các cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 
trong tương lai dựa vào tỷ lệ nợ trên GDP. 
Ngoài ra, nghiên cứu của Reihart và Rogoff 
(2010) đã chứng minh rằng tỷ trọng vay nợ 
bằng ngoại tệ càng cao, rủi ro vỡ nợ và mức 
độ tác động tiêu cực của nợ công đến tăng 
trưởng kinh tế càng lớn. Trong nghiên cứu 
về khủng hoảng nợ công tại Châu Âu của 
Sandoval và cộng sự (2011), Nelson và 
cộng sự (2010) đã chỉ ra rằng nguyên nhân 
phổ biến ở hầu hết các nước đang lâm vào 
LÊ THỊ DIỆU HUYỀN - NGUYỄN DIỆU LINH
15Số 222- Tháng 11. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
tình trạng khủng hoảng nợ ở châu Âu đó 
là: Chi tiêu Chính phủ cao trong khi nguồn 
thu yếu dẫn đến thâm hụt ngân sách kéo 
dài; kỷ luật ngân sách lỏng lẻo; năng lực 
cạnh tranh toàn cầu suy giảm; cơ cấu chính 
sách bộc lộ nhiều yếu kém... Ngoài ra, do 
việc tiếp cận các nguồn vốn giá rẻ trước 
khủng hoảng dễ dàng đã dẫn đến tình trạng 
các nước thành viên lạm dụng nợ công để 
tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Điều này 
lý giải rằng tác động của khủng hoảng nợ 
công châu Âu có thể lan truyền sang các 
khu vực khác thông qua các kênh: (i) khu 
vực tài chính; (ii) tác động đến chi phí phát 
hành trái phiếu quốc tế của các nước khác; 
(iii) tác động thông qua kênh thương mại 
quốc tế do sự sụt giảm cầu của các nước 
châu Âu đối với hàng hóa và dịch vụ của 
các nước khác
Tại Việt Nam, vấn đề về nợ công hay tính 
bền vững của nợ công đã được đề cập trong 
một số nghiên cứu. Cuốn sách “Nợ công 
và tính bền vững ở Việt Nam: Quá khứ, 
hiện tại và tương lai” của nhóm tác giả 
Phạm Thế Anh và cộng sự (2013) đã xem 
xét kinh nghiệm quốc tế về các cuộc khủng 
hoảng nợ công, từ đó rút ra bài học dành 
cho Việt Nam. Nhóm tác giả phân tích 
thực trạng, những tác động tiêu cực của 
thâm hụt tài khóa và nợ công tăng nhanh 
đối với các biến số vĩ mô. Đồng thời, đề 
xuất một số gợi ý chính sách nhằm nâng 
cao khả năng giám sát và quản lý nợ công 
theo hướng bền vững trong tương lai ở Việt 
Nam. Bài nghiên cứu “Đánh giá tính bền 
vững của nợ công Việt Nam theo mô hình 
Cây nhị phân” của Nguyễn Thị Lan (2017) 
đã sử dụng mô hình Cây nhị phân để đánh 
giá tính bền vững của nợ công Việt Nam. 
Dựa trên Cây nhị phân, tác giả cho rằng nợ 
công Việt Nam vẫn đang thỏa mãn điều 
kiện an toàn với các số liệu được đưa ra 
cho đến năm 2016. Tác giả Vũ Thành Tự 
Anh nghiên cứu trong bài giảng “Tính bền 
vững của nợ công Việt Nam” (2012) đã chỉ 
ra các yếu tố vĩ mô như cán cân ngân sách, 
tăng trưởng kinh tế, lãi suất, lạm phát, tỷ 
giá, nghĩa vụ trả nợ ảnh hưởng đến tính 
bền vững của nợ công.
Tuy nhiên, để tránh khủng hoảng nợ có 
thể xảy ra trong tương lai, đòi hỏi đảm 
bảo tính bền vững nợ công. Mô hình Cây 
nhị phân được xây dựng và phát triển 
bởi Manasse và Roubini (2005) dựa trên 
CART (Classification and Regression 
Trees) là phương pháp cây nhị phân để 
phân loại và dự báo theo dạng hình cây 
nhằm đánh giá khả năng hay xác suất xảy 
ra khủng hoảng nợ ở một quốc gia sử dụng 
số liệu ở một thời điểm. Mỗi điểm nút mẹ 
được phân tách thành 2 điểm nút con, sau 
đó mỗi điểm nút con lại được phân tách 
thành hai điểm nút cháu và cứ tiếp tục như 
vậy cho đến nút cuối cùng. Cây nhị phân 
(Hình 1) được phân tách thành hai nhánh: 
(i) nhánh các nước có nợ nước ngoài cao 
(>50% GDP) ở bên phải với xác suất xảy 
ra khủng hoảng tăng từ 20,5% trong toàn 
bộ mẫu lên tới 45,4%; (ii) nhánh với nợ 
nước ngoài thấp với xác suất xảy ra khủng 
hoảng là 9,7%. Tiếp theo, nhánh các nước 
có nợ nước ngoài cao (> 50% GDP) lại tiếp 
tục được phân tách thành hai nhánh nhỏ 
với lạm phát cao và thấp (lớn hơn hoặc 
nhỏ hơn 10,47%). Các nước thuộc nhánh 
có lạm phát cao có xác suất xảy ra khủng 
hoảng nợ lên tới 66,8%. Hơn một nửa số 
cuộc khủng hoảng trong mẫu nghiên cứu 
thoả mãn hai điều kiện này. Bất chấp nợ 
nước ngoài chỉ ở mức trung bình (từ 19 
- 49,7% GDP), hiệu ứng kết hợp giữa nợ 
ngắn hạn (lớn hơn 130% dự trữ), tỉ giá hối 
đoái tương đối cứng nhắc (mức độ biến 
động thấp) và sự bất ổn chính trị đã làm cho 
xác suất xảy ra khủng hoảng lên tới 41%. 
Ngược lại, dọc theo phía bên trái của cây, 
Đánh giá khả năng xảy ra khủng khoản nợ dựa trên bền vững nợ công tại Việt Nam
16 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 222- Tháng 11. 2020
chúng ta có thể thấy rằng các trường hợp có 
rủi ro thấp, đó là những nước có nợ nước 
ngoài thấp, tỉ lệ nợ ngắn hạn/dự trữ thấp 
(< 130%) và tỉ lệ nợ công nước ngoài/tổng 
thu (< 210%), cùng với nền kinh tế không 
ở trong tình trạng suy thoái. Khoảng 58,4% 
những nước không có khủng hoảng nợ thoả 
mãn các điều kiện này.
Manasse và Roubini (2005), sử dụng 
phương pháp Cây nhị phân dựa trên số liệu 
quan sát theo năm của 47 nền kinh tế mới 
nổi trong giai đoạn 1970 - 2002 để giải 
thích cho khả năng xảy ra khủng hoảng nợ 
công. Manasse và Roubini (2005), đã sử 
dụng khoảng 50 biến và được chia thành 
ba nhóm: (i) nhóm biến vĩ mô căn bản; (ii) 
nhóm biến phản ánh sự bất ổn; (iii) nhóm 
biến phản ánh kinh tế - chính trị. Trong đó, 
Manasse và Roubini chú ý sử dụng đến 
các chỉ số phản ánh gánh nặng nợ nước 
ngoài và tổng nợ công, các chỉ số về khả 
năng thanh khoản và các biến nằm trong 
hệ thống cảnh báo sớm của IMF nhằm xem 
xét đến khả năng liên kết giữa khủng hoảng 
tiền tệ và khủng hoảng nợ công. Kết quả 
nghiên cứu đã chỉ ra rằng, các chỉ số phản 
ánh gánh nặng nợ nước ngoài (bao gồm cả 
nghĩa vụ nợ) là tương đối thấp ở những năm 
không có khủng hoảng nợ, chúng tăng dần 
El Salvado 1981
Uruguay 1983 Venezuela 1983
South Africa 1976
Russia 1998
Argentina 1995
Thailand 1981
Guatemala 1986
Paraguay 1986
Pakistan 1998
Mexico 1982, 1995
Argentina 1982, 89, 93
Peru 1976, 83
Brazil 1998, 2010
Jamaica 1978
Turkey 1978
Korea 1997
Trinidad & Tobago 1988
Ukraine 1998
Dominican Rep 1981
Argentina 1991 Argentina 1991
Chile 1993
Tunisia 1991
Panama 1983
Thailand 1997
Indonesia 1997
Philipines 1983
Argentina 2001
Jordan 1989
Morocco 1986
Costa Rica 1981
Jamaica 1981, 87
Egypt 1984
Bolivia 1986
Peru 1978
Ecuador 1982, 99
Uruguay 1987
Indonesia 2002
Bolivia 1980
Morocco 1983
Turkey 2000
South Africa 1985
Uruguay 1990
Brazil 1983
Venezuela 1990, 95
Hình 1. Sơ đồ Cây nhị phân
Nguồn: Manasse và Roubini (2005)
LÊ THỊ DIỆU HUYỀN - NGUYỄN DIỆU LINH
17Số 222- Tháng 11. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
ở những năm trước khi xảy ra khủng hoảng 
nợ và tăng tiếp trong những năm diễn ra 
khủng hoảng. Các chỉ số này lại giảm dần 
trong năm trước khi nước đó thoát khỏi 
khủng hoảng mặc dù chúng vẫn còn cao 
hơn so với mức trước khi khủng hoảng nợ 
xảy ra.
Điểm nổi bật của mô hình Cây nhị phân 
là xem xét rủi ro dưới nhiều góc độ khác 
nhau. Bằng quá trình phân tích này có thể 
thấy không phải một quốc gia có tỷ lệ vay 
nợ cao đã có khả năng xảy ra khủng hoảng 
nợ cao, ngược lại một quốc gia có tỷ lệ nợ 
vừa phải, thậm chí là thấp lại có khả năng 
xảy ra khủng hoảng nợ cao. Nguyên nhân 
của sự khác biệt này là do nhiều yếu tố 
khác nhau tại một thời kỳ quyết định như 
khoản vay sắp đáo hạn, chính sách tỷ giá, 
sự bất ổn chính trị của quốc gia khiến cho 
khủng hoảng thanh khoản của một quốc gia 
có thể xảy ra ngay cả khi tỷ lệ nợ của quốc 
gia đó đang ở mức thấp. Ngược lại, những 
nước có tỷ lệ nợ cao có thể có xác suất xảy 
ra khủng hoảng thấp khi quốc gia đó thực 
hiện hiệu quả chính sách tài khóa và chính 
sách tiền tệ, cán cân vãng lai thặng dư 
Hạn chế của phương pháp này là do dựa 
trên các quy tắc phân nhánh, các quan sát 
có thể được xếp vào vùng rủi ro hoặc vùng 
an toàn. Các quan sát trong một nút nào 
đó được phân vào vùng rủi ro hay an toàn 
nếu trong nút đó tỉ lệ số quan sát có khủng 
hoảng lớn hơn hay thấp hơn tỉ lệ trung bình 
đó trong cả mẫu nghiên cứu. Do đó, phương 
pháp này không có khả năng phân tích thực 
trạng liên quan đến các rủi ro về cơ cấu, kì 
hạn, lãi suất, khả năng thanh toán hay thanh 
khoản của nợ công và nợ nước ngoài mà 
nó chỉ có khả năng chỉ ra nguy cơ hay xác 
suất xảy ra khủng hoảng nợ của một quốc 
gia nào đó dựa trên các bằng chứng thực 
nghiệm trong quá khứ. 
2. Thực trạng nợ công và mức độ bền 
vững nợ công tại Việt Nam
Theo thống kê được Bộ Tài chính (2019) 
công bố, tổng nợ công giai đoạn 2014 - 
2018 của Việt Nam tăng khoảng 1,3 lần, từ 
109 tỷ USD năm 2014 tăng mạnh lên 131,1 
tỷ USD năm 2016, sau đó lên mức 143,2 tỷ 
USD năm 2018 (Hình 2). Từ năm 2016 đến 
2018, tổng nợ công tăng nhanh và cao hơn. 
Tuy nhiên, năm 2018 nợ công dù tăng cao 
nhưng vẫn được kiểm soát khá tốt và thấp 
hơn mức dự kiến của Chính phủ.
Về quy mô nợ công, từ năm 2014 đến năm 
2018, theo số liệu tổng hợp từ Bản tin nợ 
công của Bộ Tài chính, quy mô nợ công 
ở Việt Nam đã tăng nhanh từ 2.318 nghìn 
tỷ VND vào năm 2014 lên 3.256 nghìn tỷ 
VND vào năm 2018 do nhu cầu ngân sách 
lớn vì bội chi ngân sách tăng và phải vay 
nợ. Nợ công giảm nhẹ, năm 2014 chiếm 
Hình 2. Tình hình nợ công ở Việt Nam giai đoạn 2014- 2018
Đơn vị: tỷ USD
Nguồn: Tổng hợp từ Bản tin Nợ công số 08- Bộ Tài chính
Đánh giá khả năng xảy ra khủng khoản nợ dựa trên bền vững nợ công tại Việt Nam
18 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 222- Tháng 11. 2020
khoảng 58% GDP, năm 2015 chiếm 61% 
GDP, năm 2016 tỷ lệ nợ công cao nhất 
trong giai đoạn này chiếm 63,7% GDP, đến 
năm 2017 chiếm 61,4% GD ... ng kiểm soát 
nhưng nguy cơ tồn tại nhiều rủi ro. Hơn 
nữa, nền kinh tế đang chịu tác động của 
Covid-19, các chính sách hỗ trợ nền kinh 
tế từ phía ngân sách lớn, áp lực bội chi khi 
giảm thuế đối với nhiều ngành trong nền 
kinh tế, tiềm ẩn khủng hoảng nợ công có 
thể xảy ra và nguy cơ khủng hoảng kinh 
tế. Nhóm tác giả dựa trên mô hình Cây nhị 
phân của Manasse và Roubini (2005) để 
xem xét khả năng xảy ra khủng hoảng nợ 
dựa trên tính bền vững nợ công Việt Nam. 
Theo đó, nhóm tiến hành tính toán ảnh 
hưởng nợ công dựa trên chỉ số cơ bản theo 
mô hình này cho nợ công năm 2018 của 
Việt Nam (Bảng 4). Nguồn dữ liệu được 
dựa trên 3 nhóm chỉ tiêu được nhóm tác 
giả tổng hợp từ số liệu của Bộ Tài chính, 
Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia 
(UBGSTCQG), Tổng cục Thống kê và 
Bảng 3. Gánh nặng nợ công của Việt Nam giai đoạn 2014- 2018
Đơn vị: %
Chỉ số 2014 2015 2016 2017 2018
Nợ công/GDP 58 61 63,7 61,4 58,4
Nợ công/thu ngân sách nhà nước 205 200 206 239 229
Nợ nước ngoài/GDP 38,3 42 44,8 48,9 46
Nợ nước ngoài/xuất khẩu 47,3 49,7 52 51 45,8
Nghĩa vụ nợ nước ngoài/ xuất khẩu 2,2 1,5 1,8 1,4 1,4
Nghĩa vụ nợ nước ngoài/thu ngân sách 6 4,3 5 5,2 5,4
Nguồn: Nhóm tác giả tự tính toán dựa trên số liệu tổng hợp từ các báo cáo và nghiên cứu của MOF, GSO, 
WorldBank Data và IMF
LÊ THỊ DIỆU HUYỀN - NGUYỄN DIỆU LINH
21Số 222- Tháng 11. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) 
để xem xét những yếu tố có khả năng ảnh 
hưởng đến các kịch bản về khủng hoảng nợ 
công tại Việt Nam.
(i) Nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ rủi ro 
trong khả năng thanh toán nợ. Để xem xét 
nhóm chỉ tiêu này, dựa vào chỉ số của nợ 
nước ngoài/GDP, sự mất cân đối giữa tài 
khóa và thâm hụt tài khoản vãng lai cùng 
với lượng lớn của nợ công ngắn hạn. Chỉ 
tiêu nợ công nước ngoài/GDP của Việt 
Nam tính đến cuối năm 2018 là 46%, vẫn 
đang nằm trong vùng an toàn chưa chạm 
đến mức trần. Về thâm hụt ngân sách, năm 
2018 có dấu hiệu tăng trở lại vào khoảng 
191,5 nghìn tỷ VNĐ. Điều này làm ảnh 
hưởng đến sự cân đối của chính sách tài 
khóa nếu như mức bội chi ngân sách không 
giảm xuống mà tăng mạnh ở những năm 
tiếp theo. Về cán cân vãng lai, năm 2018 có 
dấu hiệu thâm hụt, nếu tình trạng thâm hụt 
kéo dài, NHNN buộc phải bơm ngoại tệ dự 
trữ ra thị trường để ổn định giá trị của đồng 
tiền, tránh tỷ giá VND/USD quá lớn khiến 
VND mất giá.
(ii) Nhóm chỉ tiêu phản ánh tính rủi ro 
thanh khoản. Tính rủi ro được quyết định 
bởi quy mô nợ công ở mức vừa phải nhưng 
chỉ số nợ nước ngoài ngắn hạn/dự trữ ngoại 
hối lại vượt quá cao. Năm 2018, nợ nước 
ngoài ngắn hạn so với dự trữ ngoại hối 
chiếm khoảng 32,5%. Điều này một phần 
là do lượng dự trữ ngoại hối của Việt Nam 
tăng cao khi NHNN mua được một lượng 
lớn ngoại tệ nhằm củng cố chính sách tiền 
tệ. Ngoài ra, các dòng vốn FDI cũng đã góp 
phần tăng một lượng lớn dự trữ ngoại tệ 
cho Việt Nam. Các yếu tố này góp phần 
làm mức rủi ro nợ công trở nên thấp hơn, 
duy trì nền kinh tế ổn định. Ngược lại, nếu 
như lượng dự trữ ngoại hối thấp mà nợ 
nước ngoài trong ngắn hạn lại tăng cao sẽ 
khiến cho sức ép phải trả nợ của Chính phủ 
tăng, điều này có thể dẫn đến sự mất ổn 
định của nợ công.
(iii) Nhóm chỉ tiêu phản ánh rủi ro bất ổn 
trên phương diện vĩ mô. Kinh tế của Việt 
Nam năm 2018 thuộc vào nhóm những 
nước có tốc độ phát triển nhanh nhất khi tốc 
độ tăng GDP đạt 7,1%; tốc độ tăng trưởng 
GDP bình quân là 6,5%/năm giai đoạn 
2014- 2018. Bên cạnh đó, tỷ giá VND/USD 
năm 2018 tuy chịu nhiều biến động do chịu 
nhiều áp lực bởi các đồng tiền khác trên 
thế giới nhưng vẫn tăng 1,5% so với đầu 
năm, cho thấy VND vẫn khá ổn định. Mức 
thâm hụt vãng lai đã được cải thiện do mức 
định giá VND đã không còn quá cao mà đã 
giảm xuống đáng kể. Nếu mức định giá của 
VND/USD quá cao thì trong bối cảnh dự 
trữ ngoại hối thấp sẽ dễ dẫn đến các cuộc 
tấn công về tiền tệ gây nên lạm phát, làm 
giảm giá trị của đồng tiền. Như vậy, dựa 
vào các chỉ tiêu nợ (Bảng 4) và dựa vào sơ 
Bảng 4. Các chỉ số nợ của Việt Nam 
năm 2018
Đơn vị: %
STT Các chỉ số nợ Năm 2018
1 Nợ nước ngoài/GDP 46
2 Nợ nước ngoài ngắn hạn/dự trữ ngoại hối 32,5
3 Tốc độ tăng trưởng GDP 7,1
4 Nợ công nước ngoài/Tổng thu ngân sách 193
5 Tỷ lệ lạm phát 3,54
6 Lãi suất trái phiếu kho bạc Mỹ 2,5
7 Nhu cầu tài trợ từ bên ngoài 50
8 Mức độ định giá quá cao của VND/USD 10
9 Sự biến động của tỉ giá VND/USD 1,5
Nguồn: Tổng hợp từ các số liệu của Bộ Tài chính, 
UBGSTCQG, GSO và NHNN
Đánh giá khả năng xảy ra khủng khoản nợ dựa trên bền vững nợ công tại Việt Nam
22 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 222- Tháng 11. 2020
đồ Cây nhị phân của Manasse và Roubini 
(2005), nhóm tác giả xem xét mức độ rủi 
ro khủng hoảng nợ công Việt Nam. Chỉ số 
đầu tiên cần được xem xét đến là “Tổng 
nợ nước ngoài/GDP”. Có hai trường hợp 
xảy ra ở đây, nếu chỉ số này lớn hơn 50%, 
ta sẽ đi xuống nhánh bên phải và xét tiếp 
đến tỷ lệ lạm phát, còn nếu ngược lại chỉ số 
nhỏ hơn 50% thì ta sẽ đi xuống nhánh bên 
trái và xét tiếp đến “Nợ nước ngoài ngắn 
hạn/GDP”. Năm 2018, chỉ số này là 46%, 
nhỏ hơn hạn mức là 50% nên ta sẽ đi xuống 
theo nhánh bên trái là xét đến tỷ lệ “Nợ 
nước ngoài ngắn hạn/GDP”. Ở nhánh trái 
này, nếu tỷ lệ “Nợ nước ngoài ngắn hạn/dự 
trữ ngoại hối” vượt 134%, ta sẽ đi xuống 
nhánh phải và xét tiếp, còn nếu không vượt 
134% thì sẽ xuống đến nhanh trái là tỷ lệ 
“Nợ công nước ngoài/tổng thu ngân sách”. 
Ở đây tỷ lệ này được tính là 32,5% dựa trên 
số liệu được Bộ Tài chính công bố, nhỏ hơn 
rất nhiều so với con số hạn mức là 130% 
nên câu trả lời sẽ là “Không” và tiếp tục 
xét ở nhánh bên trái là “Tăng trưởng GDP”. 
Theo Manasse và Roubini (2005) dành 
cho tăng trưởng GDP là -5,45%. Nếu như 
không lớn hơn -5,45% thì sẽ xuống bên trái 
và xét đến “Định giá nội tệ cao quá mức”, 
còn nếu có lớn hơn -5,45% sẽ rơi vào nút 
3, tức là khả năng xảy ra khủng hoảng vào 
khoảng 2,3%. Năm 2018, tăng trưởng GDP 
của Việt Nam là 7,1% > -5.45% cho nên ta 
có thể đưa ra kết luận cho đến cuối 2018 
đầu 2019 thì khả năng xảy ra khủng hoảng 
nợ công ở Việt Nam trong khoảng thời gian 
tới là rất thấp, chỉ dưới 2,3%. Chính vì vậy, 
với đánh giá về nợ nước ngoài cho thấy Việt 
Nam trong tương lai gần chưa có nguy cơ 
gặp khủng hoảng về nợ công, nhưng do sự 
khác biệt trong phạm vi về nợ công ở Việt 
Nam so với cách tính toán của các tổ chức 
tài chính trên thế giới (quan niệm về phạm 
nợ công của IMF, WB khác so với Việt 
Nam: theo định nghĩa, nợ công của Việt 
Nam không bao gồm nợ của DNNN) nên 
những số liệu tính toán tổng hợp ở Bảng 4 
có thể chưa phản ánh chính xác nhất khả 
năng xảy ra rủi ro trong tương lai của nợ 
công Việt Nam. Vì thế, cần xây dựng thêm 
những tình huống có khả năng sẽ xảy ra 
nếu các chỉ số bên trên thay đổi để đánh giá 
được khả năng xảy ra khủng hoảng nợ công 
của Việt Nam.
Kịch bản 1: Nếu tỷ lệ “Tổng nợ nước 
ngoài/GDP” không phải 46% mà vượt quá 
50% (điều này có thể xảy ra nếu Việt Nam 
vay nợ nước ngoài quá nhiều nhưng lại đầu 
tư vào những dự án lớn khó có khả năng 
hồi vốn nhanh hay thậm chí là khó hồi vốn) 
thì ta sẽ phải xét đến nhánh bên phải theo 
sơ đồ Cây nhị phân là “Tỷ lệ lạm phát”. 
Theo báo cáo của GSO, tỷ lệ lạm phát của 
Việt Nam năm 2018 là 3,54% thấp hơn rất 
nhiều so với hạn mức là 10,47% nên câu 
trả lời cho mức này là không và tiếp tục 
xét đến mức nhu cầu tài trợ từ bên ngoài. 
Mặc dù hiện tại mức phụ thuộc vào việc 
cần có tài trợ từ bên ngoài của Việt Nam đã 
giảm xuống đáng kể do kinh tế đã phát triển 
hơn trước nhưng mức độ phụ thuộc vẫn 
nằm trong khoảng 50%. Ở đây 50% nhỏ 
hơn hạn mức đưa ra là 144% nên ta sẽ xét 
xuống nhánh trái là tỷ lệ “Nợ nước ngoài/
tổng thu ngân sách”. Theo thu thập từ báo 
cáo của Bộ Tài chính thì tỷ lệ này của năm 
2018 là 193% lớn hơn rất nhiều so với hạn 
mức là 3,1%. Tới đây thì nợ công Việt Nam 
sẽ rơi vào nút 12 nằm trong vùng rủi ro với 
khả năng xảy ra khủng hoảng là 40% (các 
cuộc khủng hoảng từng xảy ra ở trong nút 
này gồm Chile 1993, Thailand 1997).
Kịch bản 2: Khi tỷ lệ “Tổng nợ nước ngoài/
GDP” vẫn nhỏ hơn 50% nhưng tỷ lệ “Nợ 
công nước ngoài/Tổng thu ngân sách” lớn 
hơn 215%, điều này cũng có khả năng xảy 
ra vì trong những năm gần đây, tỷ lệ này 
LÊ THỊ DIỆU HUYỀN - NGUYỄN DIỆU LINH
23Số 222- Tháng 11. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
liên tục có chiều hướng gia tăng và năm 
2018 đã gần với mức 200%. Khi đó ta tiếp 
tục xét đến lạm phát của quốc gia, mặc dù 
tỷ lệ lạm phát năm 2018 được kiểm soát 
dưới 4%, nhưng vẫn có thể tăng lại trên 
hai con số trong tương lai nếu Chính phủ 
không thể điều tiết chính sách tiền tệ tốt. 
Khi đó thì Việt Nam sẽ rơi ở nút 5 với tỷ lệ 
xảy ra khủng hoảng là 55%.
Kịch bản 3: Khi tỷ lệ “Nợ nước ngoài ngắn 
hạn/dự trữ ngoại hối” vượt quá 134%, 
trường hợp này dù khó xảy ra nhưng nó sẽ 
đến sẽ nếu như nợ nước ngoài ngắn hạn tiếp 
tục tăng trong khi dự trữ ngoại hối ở NHNN 
càng ngày ít đi. Lúc đó ta sẽ xét tiếp, nên 
xét xuống nhánh trái để quan sát nợ nước 
ngoài có lớn hơn 19,1% GDP hay không. 
Câu trả lời là có vì tỷ lệ này năm 2018 là 
46%. Vì vậy xét tiếp xuống bên phải liên 
quan đến “Biến động tỷ giá”. Mức độ biến 
động này của Việt Nam là 1,5%, không 
đáng kể so với hạn mức là 27,88%, kết quả 
rơi vào nút 7, rủi ro xảy ra khủng hoảng nợ 
công là vô cùng cao, ở mức 41,5%. 
Dựa trên các kịch bản sử dụng số liệu của 
năm 2018, với các giả thuyết của nền kinh 
tế Việt Nam cho thấy hiện nay khả năng 
xảy ra khủng hoảng nợ công còn thấp. Tuy 
nhiên, với biến động khó lường trong tương 
lai, việc kiểm soát tính bền vững nợ công 
cùng với các biến số kinh tế vĩ mô được dự 
báo chuẩn xác hơn sẽ tránh cho Việt Nam 
rơi vào khủng hoảng nợ không đáng có. 
Mặc dù vậy, nhóm tác giả cho rằng theo 
mô hình Cây nhị phân chỉ đưa ra nguy cơ 
rơi vào khủng hoảng nợ tại một thời điểm 
dựa trên dữ liệu của quá khứ, nhưng cũng 
trên cơ sở đó để dự báo, cũng như khuyến 
nghị chính sách cùng phối hợp nhằm tránh 
nguy cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng nợ 
công trong tương lai.
4. Một số khuyến nghị chính sách đảm 
bảo bền vững nợ tránh khủng hoảng nợ 
công tại Việt Nam
Dựa trên phân tích đánh giá nguy cơ tiềm 
ẩn khủng hoảng nợ công dựa trên các chỉ số 
bền vững nợ công cũng như bối cảnh vĩ mô 
của Việt Nam, nhóm tác giả đề xuất một số 
khuyến nghị như sau:
Thứ nhất, kiểm soát chặt chẽ nền kinh tế vĩ 
mô, trước những diễn biến phức tạp của nền 
kinh tế thế giới, Chính phủ ổn định tiền tệ, 
kiểm soát giá cả nhằm hạn chế những biến 
động của thị trường, chính sách thu hút đầu 
tư nước ngoài, hỗ trợ doanh nghiệp, chống 
thất thu thuế, gian lận thương mại Bên 
cạnh đó, đảm bảo cân bằng cán cân ngân 
sách, để hạn chế mức tài trợ nợ, giúp nợ 
công không tăng thêm, giảm đi lượng vay 
nợ, không để xảy ra tình trạng vay thêm nợ 
mới. Từ đó, ổn định nền kinh tế, góp phần 
giảm nguy cơ xảy ra cuộc khủng hoảng nợ 
trong tương lai.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả và kiểm soát 
khoản vay, thực hiện đầu tư khoản vay một 
cách hiệu quả, tình trạng sử dụng vay dự 
án đầu tư cơ sở hạ tầng cần phải được kiểm 
soát chặt chẽ hơn nhằm tăng tính minh 
bạch đối với khoản đầu tư công, từ đó tăng 
cường hiệu quả sử dụng các khoản vay 
nhằm đảm bảo nguồn để trả nợ
Thứ ba, nâng cao kỷ luật tài khóa, cần tuân 
thủ các mức trần, hạn mức về chi tiêu, nợ 
và thâm hụt ngân sách, tiến tới thu hẹp mức 
độ thâm hụt ngân sách, tăng thu dùng để 
giảm bội chi. Các khoản chi tiêu công của 
các bộ ngành và chính quyền địa phương 
chỉ được phép với giới hạn trong dự toán và 
đảm bảo trần chi tiêu theo xu hướng giảm 
bội chi ngân sách để giảm gánh nặng nợ 
công trong tương lai.
Đánh giá khả năng xảy ra khủng khoản nợ dựa trên bền vững nợ công tại Việt Nam
24 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 222- Tháng 11. 2020
Thứ tư, phối hợp hài hòa giữa chính sách 
tài khóa và chính sách tiền tệ. Các chính 
sách nhằm hướng tới mục tiêu an toàn 
nợ, đối với chính sách tiền tệ đảm bảo ổn 
định, lãi suất, tỷ giá, chính sách tài khóa 
cùng phối hợp giảm thâm hụt ngân sách để 
không tăng thêm gánh nặng nợ. Ngoài ra, 
để đề phòng trường hợp khủng hoảng nợ 
công xảy ra, cần phải nghiên cứu và xây 
dựng thêm các phương án phản ứng nhằm 
đáp ứng mọi tình huống ■
Tài liệu tham khảo
Bộ Tài chính (2019), Bản tin nợ công số từ 01-08, Hà Nội.
Bộ Tài Chính (2014-2018), Báo cáo quyết toán NSNN 2014 - 2018, Hà Nội.
Bộ Tài chính (2019), Thị trường trái phiếu Việt Nam năm 2018, NXB Hồng Đức, Hà Nội.
Chính phủ (2012), Quyết định số 958/QĐ-TTg về phê duyệt Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 
2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
Hakan Tokaç & Mike Williams (2013), Government debt management and operational risk: a risk management 
framework and its application in turkey, Sigma paper No.50, OECD.
IMF & World Bank (2011), Public Sector Debt Statistics: Guide for Compilers and Users
IMF & World Bank IMF (2012), Guideline for public debt management
McKinsey (2010), Debt and Deleveraging: The Global Credit Bubble and Its Economic Consequences, McKinsey Global 
Institute, January 2010.
Manasse P. & Roubini N (2005), Rules of Thumb for Sovereign Debt Crises, IMF Working Paper No. 05/42.
Nelson và cộng sự (2010), Greece’s Debt Crisis: Overview, Policy Responses, and Implications, Congressional Research 
Service,7-5700 www.crs.gov, R41167 
Nguyễn Thị Lan (2017), Đánh giá tính bền vững của nợ công Việt Nam theo mô hình DSF của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và 
Ngân hàng Thế giới, Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 244, tháng 10/2017.
Phạm Thế Anh và cộng sự (2013), Quản lý nợ công và tính bền vững ở Việt Nam: Quá khứ, hiện tại và tương lai, Ủy ban 
Kinh tế.
Philip R. Lane (2012), The Europe Sovereign debt crisis, Journal of Economic Perspectives -Volume 26, Number 3, 
Pages 49–68.
Quốc hội (2017), Luật Quản lý nợ công sửa đổi 2017.
Reihart và Rogoff (2010), Growth in a Time of Debt, American Economic Review Paper & Proceedings 100 (May 2010): 
pp 573-578.
Reihart và Rogoff (2013), Fianancial and Sovereign debt crises: Some lessons learned and those forgotten, Working 
Paper No.13/266.
Sandoval và cộng sự (2011), The European sovereign crisis: Responses to the financial crisis, New voices in public 
policy, ISSN: 1947-2633 
Stephen G Cecchetti, M.S. Mohanty & Fabrizio Zampolli (2010), The future of public debt: prospects and implications, 
BIS working paper No.300.
Tổng cục thống kê (2014-2018), Niên giám thống kê Việt Nam 2014-2018, NXB Thống kê, Hà Nội.
Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia. (2018). Báo cáo tổng quan thị trường tài chính năm 2017.
Vũ Thành Tự Anh (2012), Tính bền vững của nợ công Việt Nam, Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright, Đại học 
Quốc gia Hà Nội.
WB (2002), Guideline for public debt management: Accompanying Document.
WB (2006), A Guid to LIC Debt Substainability Analysis.
Trang web: https://www.imf.org/en/Countries/VNM; 
https://www.worldbank.org/en/country/vietnam

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_kha_nang_xay_ra_khung_khoan_no_dua_tren_ben_vung_no.pdf