Đánh giá khả năng phân tích chính sách và dự báo của mô hình Keynes mới: phương pháp tiếp cận SVAR và BVAR-DSGE
Nghiên cứu khẳng định lại những công cụ chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đóng vai trò quan trọng nhằm hướng tới sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam (Nguyễn Đức Trung, Lê Đình Hạc & Nguyễn Hoàng Chung, 2018). Từ đó, nghiên cứu ứng dụng mô hình Keynes mới
SVAR đánh giá các cú sốc cấu trúc với kỳ vọng hợp lý của các chủ thể trong nền kinh tế mở và nhỏ (Nguyen
Duc Trung, Le Dinh Hac & Nguyen Hoang Chung, 2019). Đồng thời, nghiên cứu này cũng cho thấy sự
tương thích giữa dữ liệu thực tế và mô hình Keynes mới DSGE dự báo vĩ mô cho Việt Nam (Nguyễn Đức
Trung & Nguyễn Hoàng Chung, 2017).
Từ khóa: Chính sách tiền tệ, mô hình Keynes mới, SVAR, DSGE, kỳ vọng hợp lý.
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá khả năng phân tích chính sách và dự báo của mô hình Keynes mới: phương pháp tiếp cận SVAR và BVAR-DSGE", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá khả năng phân tích chính sách và dự báo của mô hình Keynes mới: phương pháp tiếp cận SVAR và BVAR-DSGE
Số 142/2020 thương mại khoa học 1 2 11 24 33 45 52 62 MỤC LỤC KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ 1. Cao Hoàng Long - Phân tích biến động năng suất lao động ngành công nghiệp thực phẩm Việt Nam giai đoạn 2010 - 2018. Mã số: 142.1MEco.11 A Study on Productivity Changes in Vietnam’s Food Industry in the Period 2010- 2018 2. Nguyễn Hoàng Chung - Đánh giá khả năng phân tích chính sách và dự báo của mô hình KEYNES mới: Phương pháp tiếp cận SVAR VÀ BVAR-DSGE. Mã số: 142.1MEIS.11 Assessment on Policy Analysis and Forecast of New KEYNES Model: Approaches of SVAR and BVAR-DSGE QUẢN TRỊ KINH DOANH 3. Phạm Hồng Chương, Nguyễn Hải Sơn và Phạm Thị Huyền - Ảnh hưởng của sự trải nghiệm tới sự hài lòng và hành vi mua lại của khách hàng: Nghiên cứu trong lĩnh vực nhà hàng. Mã số: 142.2BAdm.21 Customer’ experiences affecting satisfaction level and repurchase behavior: Empirical evi- dences in F&B sector 4. Nguyễn Quỳnh Trang - Nghiên cứu tác động của chất lượng thông tin kế toán đến quá trình ra quyết định của doanh nghiệp Việt Nam. Mã số: 1422.BAcc.21 A Study on the Effects of Accounting Information on the Decision Making in Vietnamese Enterprises 5. Nguyễn Thị Khánh Chi - Các nhân tố ảnh hưởng đến triển khai E-CRM thành công tại hãng Hàng không quốc gia Việt Nam. Mã số: 142.2BMkt.22 The Factors Affecting Successful E-CRM Implementation at Vietnam Airlines 6. Mai Thanh Lan và Đỗ Vũ Phương Anh - Các yếu tố ảnh hưởng đến thương hiệu nhà tuyển dụng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn TP. Hà Nội. Mã số: 142.2BMkt.21 Factors affecting employer’s brand of small and medium enterprises in Ha Noi city Ý KIẾN TRAO ĐỔI 7. Ngô Mỹ Trân và Lương Thị Thanh Trang - Ảnh hưởng của sự không phù hợp bằng cấp, kỹ năng và ngành nghề đến thu nhập người lao động trong các doanh nghiệp ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Mã số: 142.3OMIs.31 The Impacts of Unmatched Qualifications, Skills, and Employment on Laborer’s Income in Enterprises in Mekong Delta ISSN 1859-3666 1 1. Giới thiệu Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm thay đổi nhận thức của các ngân hàng trung ương (NHTW) (Blinder & ctg., 2008) trên thế giới. Theo đó, mục tiêu ổn định giá cả hay kiểm soát lạm phát không đủ để đảm bảo ổn định tài chính (OĐTC). Vì vậy, các NHTW cần kết hợp các công cụ của CSTT và chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) nhằm hướng đến mục tiêu OĐTC (Kim & Mehrotra, 2016). Nghiên cứu của Nguyễn Đức Trung & Nguyễn Hoàng Chung (2018) khẳng định lại một lần nữa tăng trưởng kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào tăng trưởng tín dụng, nghiên cứu cũng tìm thấy bằng chứng các công cụ CSTT có ảnh hưởng mạnh hơn so với các công cụ ATVM trong việc duy trì OĐTC thông qua việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng tại Việt Nam. Điều đó có thể cho thấy vai trò quan trọng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) trong việc góp phần ổn định vĩ mô tại Việt Nam, đây cũng là cơ sở quan trọng để lý thuyết Keynes (Keynes, 1936) được vận dụng trong nghiên cứu. Vì vậy, nghiên cứu kết hợp lý thuyết kỳ vọng hợp lý và ứng dụng mô hình Keynes mới SVAR, DSGE cho nền kinh tế mở và nhỏ nhằm phân tích chính sách và dự báo vĩ mô tại Việt Nam. Đây được xem là mô hình mà các NHTW các nước theo đuổi CSTT lạm phát mục tiêu sử dụng (Svensson, 2000; Hạ Thị Thiều Dao, 2012). 2. Khung khổ lý thuyết về mô hình Keynes mới 2.1. Các cơ sở lý thuyết liên quan đến mô hình Keynes mới 2.1.1. Cơ sở lý thuyết về chính sách an toàn vĩ mô Theo Hội đồng OĐTC (FSB), Ngân hàng Thanh toán quốc tế (BIS) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), chính sách ATVM (nằm trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô1) sử dụng các công cụ an toàn để hạn chế các rủi ro mang tính hệ thống và/hoặc các rủi ro đối với hệ thống tài chính nhằm giảm thiểu khả năng đổ vỡ của hệ thống thông qua việc ngăn ngừa các dịch vụ tài chính có thể gây hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế thực (IMF, 2013). Đối tượng điều chỉnh của chính sách ATVM là rủi ro hệ thống với mục tiêu OĐTC (Kim & Mehrotra, 2016, Đỗ Việt Hùng & ctg, 2014). 11 ? Số 142/2020 KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ thương mại khoa học ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH VÀ DỰ BÁO CỦA MÔ HÌNH KEYNES MỚI: PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN SVAR VÀ BVAR-DSGE Nguyễn Hoàng Chung Trường Đại học Thủ Dầu Một Email: chungnh@tdmu.edu.vn Ngày nhận: 19/03/2020 Ngày nhận lại: 06/04/2020 Ngày duyệt đăng: 10/04/2020 N ghiên cứu khẳng định lại những công cụ chính sách tiền tệ (CSTT) của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đóng vai trò quan trọng nhằm hướng tới sự ổn định vĩ mô tại Việt Nam (Nguyễn Đức Trung, Lê Đình Hạc & Nguyễn Hoàng Chung, 2018). Từ đó, nghiên cứu ứng dụng mô hình Keynes mới SVAR đánh giá các cú sốc cấu trúc với kỳ vọng hợp lý của các chủ thể trong nền kinh tế mở và nhỏ (Nguyen Duc Trung, Le Dinh Hac & Nguyen Hoang Chung, 2019). Đồng thời, nghiên cứu này cũng cho thấy sự tương thích giữa dữ liệu thực tế và mô hình Keynes mới DSGE dự báo vĩ mô cho Việt Nam (Nguyễn Đức Trung & Nguyễn Hoàng Chung, 2017). Từ khóa: Chính sách tiền tệ, mô hình Keynes mới, SVAR, DSGE, kỳ vọng hợp lý. 1. Chính sách kinh tế vĩ mô là tập hợp các quy tắc và quy định nhằm kiểm soát, kích thích hoặc bình ổn các chỉ báo tổng gộp của nền kinh tế (Mankiw, 2011; Mankiw & Taylor, 2011). Hay nói cách khác, chính sách kinh tế vĩ mô là một hệ thống chính sách của chính phủ nhằm hướng đến các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô như tăng trưởng, công bằng và toàn dụng. Có nhiều chính sách kinh tế vĩ mô khác nhau như chính sách tài khóa, CSTT, chính sách cơ cấu, chính sách ngoại thương, trong đó hai chính sách đầu tiên thường được sử dụng nhất. Theo Mishkin (2012) và Nguyễn Văn Ngọc (2009); ?2.1.2. Cơ sở lý thuyết về chính sách tiền tệ CSTT là các quyết định về tiền tệ ở tầm vĩ mô của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền được biểu hiện bằng lạm phát (Lý Hoàng Ánh & Lê Thị Mận, 2012). Vì vậy, NHTW sử dụng CSTT nhằm thay đổi cung tiền hoặc lãi suất chính sách (LSCS) để hướng đến mục tiêu ổn định lạm phát, tăng trưởng kinh tế và ổn định tỷ giá hối đoái (Araújo, 2015). NHTW thực thi CSTT để hướng đến sự ổn định kinh tế vĩ mô nhưng ổn định giá cả vẫn luôn là mục tiêu quan trọng nhất (Cecchetti & Krause 2002; Issing, 2004; Spyromitros & Tuysuz, 2012; Van der Cruijsen & Demertzis, 2007). Kênh kỳ vọng và giá trị kỳ vọng hợp lý Bên cạnh kênh lãi suất, tỷ giá, giá tài sản và tín dụng, thị trường tài chính còn tồn tại một kênh truyền dẫn CSTT thông qua kỳ vọng của các chủ thể trong nền kinh tế (Kohn & Sack, 2003; Mukherjee & Bhattacharya, 2011; Leu, 2011). Khi các mô hình kinh tế lượng truyền thống không còn phù hợp cho việc đánh giá các phản ứng chính sách (Mishkin, 2012) thì mô hình với lý thuyết kỳ vọng hợp lý trở thành cơ sở quan trọng giải thích chính sách và dự báo vĩ mô (Lucas, 1976; Sbordone, Tambalotti, Rao & Walsh, 2010). Cơ chế truyền dẫn của kênh này mạnh hay yếu phụ thuộc vào sự minh bạch và độ tin cậy của NHTW. Kỳ vọng này sẽ tác động đến công chúng, từ đó quyết định tổng cầu hay sản lượng của nền kinh tế (Dabla- Norris & Floerkemeier, 2006; Mukherjee & ctg, 2011; Kohn & ctg, 2003; Leu, 2011). 2.1.3. Lý thuyết cân bằng tổng thể Lý thuyết cân bằng tổng thể là một nhánh của kinh tế học, giải thích cung - cầu và mức giá của cả một nền kinh tế với nhiều thị trường tương tác với nhau dẫn đến trạng thái cân bằng tổng thể của cả một nền kinh tế. Một trong số đó là lý thuyết Keynes mới mà nghiên cứu này đang tiếp cận. Các hướng nghiên cứu bao gồm (i) điều kiện thị trường hoàn hảo tối ưu Pareto (Arrow & Debreu, 1954) hay (ii) điều kiện thị trường không hoàn hảo và xem nền kinh tế trong ngắn hạn có nhiều bất ổn (Nguyễn Văn Ngọc, 2006). Một số tranh luận khác liên quan đến trường phái tân cổ điển và các trường phái kinh tế khác (Nguyễn Đức Thành, 2010) hay trường phái kinh tế vĩ mô cổ điển mới cho rằng có thể giải thích các biến động kinh tế trong khi vẫn duy trì các giả định của mô hình cổ điển (Nguyễn Văn Ngọc; 2006, 2009). 2.1.4. Lý thuyết về tổng cầu - tổng cung Theo các nghiên cứu của Mishkin (2012) và Nguyễn Văn Ngọc (2009), các biến động của nền kinh tế nói chung bắt nguồn từ những thay đổi của tổng cung và tổng cầu. Đây là những thay đổi ngoại sinh của đường tổng cung2 và đường tổng cầu3 hay là cú sốc tổng cung4 và cú sốc tổng cầu5 đối với nền kinh tế. 2.1.5. Lý thuyết về cung tiền và lạm phát Theo Friedman (1963), mối quan hệ giữa cung tiền và lạm phát được thể hiện qua phương trình định lượng: M*V = P*Y, biểu diễn mối quan hệ qua lại giữa các biến động của yếu tố cung tiền, vòng quay của tiền, giá cả và GDP thực tế tại Việt Nam. Theo đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế thực và tỷ lệ lạm phát sẽ xác định tỷ lệ tăng trưởng tín dụng trong nền kinh tế (Nguyễn Đức Trung & ctg, 2018). 2.1.6. Lý thuyết về dự báo kinh tế Dự báo là một quá trình đưa ra các nhận định về tương lai dựa vào những thông tin có sẵn trong quá khứ và hiện tại. Chuỗi kết quả dự báo có được trong nghiên cứu này được gọi là dự báo ngoài mẫu (Hoge & cộng sự, 2008; Nguyễn Đức Trung & Nguyễn Hoàng Chung, 2017). Nghiên cứu khẳng định lại DSGE là mô hình quan trọng của các NHTW trên thế giới trong phân tích chính sách và dự báo vĩ mô (Berg, Karam & Laxton, 2006; Smets & Wouters, 2007; Rochelle & Refet, 2010; Kai, Gunter & Anders, 2010). Thậm chí mô hình này có khả năng dự báo tốt hơn mô hình dự báo Greenbook của Fed (Edge, Kiley & Laforte, 2010). Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ một số hạn chế (Sims, 1980, 1986; Rochelle & ctg, 2010) nhưng các sai lệch của mô hình DSGE không phải là vấn đề lớn khi phân tích chính sách (Del Negro & Schorfheide, 2006; Smets & Wouters, 2007). 2.2. Những lý luận cơ bản về mô hình Keynes mới Lucas (1976) đã chỉ ra hạn chế của các mô hình kinh tế vĩ mô quy mô lớn khi các mô hình này đều dựa trên giả định chung là phản ứng chính sách của các chủ thể kinh tế kết hợp yếu tố kỳ vọng có thể Số 142/202012 KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ thương mại khoa học 2. Đường tổng cung biểu thị mối quan hệ giữa tổng cung và mức giá chung khi mọi biến số khác được giữ nguyên. 3. Đường tổng cầu biểu thị mối quan hệ giữa lượng cầu về hàng hóa và mức giá chung. 4. Cú sốc tổng cung là sự thay đổi về mặt công nghệ và cung ứng nguyên nhiên liệu thô (cú sốc cung) có thể làm dịch chuyển đường tổng cung. 5. Cú sốc tổng cầu liên quan đến những thay đổi trong cung tiền, chính sách tài khóa (thuế và chi tiêu Chính phủ), xuất khẩu ròng, và khả năng chi tiêu, đầu tư làm dịch chuyển của đường tổng cầu. khiến phản ứng chính sách thay đổi. Chính vì vậy, Kydland & Prescott (1982) đưa ra mô hình chu kỳ kinh doanh thực với nền tảng kinh tế vi mô, trong đó các hộ gia đình tối ưu hóa lợi ích với ràng buộc về thu nhập, doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận trong điều kiện tối thiểu hóa chi phí, giới hạn về vốn, lao động và công nghệ... Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực (Real Business Cycle - RBC) giải thích tính chu kỳ của nền kinh tế một quốc gia (Kydland & ctg, 1982) với các cú sốc thực (cú sốc thiên tai, cú sốc công nghệ) có thể gây ra các biến động chu kỳ kinh doanh theo giả định giá cả và tiền lương linh hoạt (Long, John & Charles, 1983; Cooley, 1995; King, Robert & Sergio, 1999). Theo Romer (2012), mô hình RBC giả định các chủ thể trong nền kinh tế bị ràng buộc yếu tố đầu vào (Kydland & ctg, 1982) hoặc đặt dưới nền tảng vi mô về phản ứng của các cú sốc cơ bản (Long & ctg, 1983). Tuy nhiên, mô hình này cho rằng CSTT không ảnh hưởng đến sản lượng và biến vĩ mô khác (Nguyễn Văn Ngọc, 2006, 2009; Chen, 2010) khi chỉ đề cập đến các cú sốc thực: cú sốc cung, cú sốc năng suất lao động hay cú sốc kĩ thuật mà chưa quan tâm đến cú sốc cầu. Do đó, nghiên cứu phải tiếp cận được các mô hình thể hiện vai trò của CSTT (tính phi trung lập của CSTT6). Lý thuyết Keynes mới Lý thuyết này kế thừa nền tảng vi mô từ RBC đồng thời bổ sung thêm: (i) độ cứng danh nghĩa (giá cả, tiền lương cứng nhắc) trong điều kiện thị trường không hiệu quả (tính phi trung lập của CSTT) trong ngắn hạn để giải thích cho các phản ứng trong mô hình thực nghiệm (Romer & Romer, 2000; Romer, 2012); (ii) yếu tố động vào để giải thích nền tảng vi mô cho chu kì kinh doanh (Rotemberg & Woodford, 1997; Woudford, 2003; Galí, 2008); (iii) tác động của CSTT (Clarida, Gali & Gertler, 1999, 2000) và (iv) kỳ vọng hợp lý của trường phái cổ điển mới (Nguyễn Đức Thành, 2010). Cấu trúc mô hình Keynes mới này cũng mô tả mối quan hệ giữa các biến số vĩ mô, tập trung vào việc xây dựng CSTT ở các NHTW (Galí & Monacelli, 2005; Lubik & Schorfheide, 2007). Theo đó, Nguyễn Đức Trung (2016) giới thiệu mô hình Keynes mới với ba phương trình. Tiếp đến, nghiên cứu bổ sung phương trình đại diện cho nền kinh tế mở nhằm tránh những hạn chế của nền kinh tế đóng thông qua mô hình Keynes mới với bốn phương trình (del Negro & ctg, 2004; Berg, Charry, Portillo & Vlcek, 2013; Berg, Karam & Laxton, 2006; Berg, Portillo & Unsal, 2010; Lubik & ctg, 2007; Lees, Matheson & Smith, 2007; Hodge, Robinson & Stuart 2008; Chen, 2010; Dizioli & Schmittmann, 2015; Nguyễn Đức Trung & Nguyễn Hoàng Chung, 2017; Nguyễn Đức Trung & ctg, 2018). Mô hình Keynes mới SVAR Leu (2011) giới thiệu mô hình Keynes mới với phương pháp tiếp cận SVAR (mô hình Keynes mới SVAR) của nền kinh tế Úc là nền kinh tế mở và nhỏ nhằm xác định tương tác giữa các cú sốc cấu trúc ngoại sinh và hành vi hướng về tương lai của các chủ thể kinh tế. Trong đó, NHTW và các chủ thể tư nhân trong nền kinh tế giả định kỳ vọng hợp lý và hướng về tương lai (Hodge & ctg, 2008; Nguyen Duc Trung & ctg, 2019). Mô hình Keynes mới DSGE Mô hình cân bằng tổng thể động (Dynamic General Equilibrium Model - DSGE) là một nhánh của ứng dụng lý thuyết cân bằng tổng thể. Tính chất này của mô hình thể hiện trong mối quan hệ của ba khối: tổng cung, tổng cầu, phương trình CSTT và kỳ vọng của các chủ thể trong nền kinh tế bao gồm: hộ gia đình, doanh nghiệp, các trung gian tài chính và chính phủ. Mỗi chủ thể này tương tác với nhau và dẫn đến trạng thái cân bằng tổng thể của mô hình. Mặt khác, mô hình DSGE trên nền tảng vi mô với các trung gian tài chính là nguyên nhân chủ yếu gây ra các cú sốc CSTT (Sbordon & ctg, 2010) hay các cú sốc ngẫu nghiên với điều kiện ràng buộc về hành vi của các chủ thể nhằm tối ưu hóa lợi ích và kì vọng hợp lí (Chen, 2010). Các dạng mở rộng của mô hình này bao gồm việc đưa vào tiền lương cứng nhắc và ma sát thị trường (Smets & ctg, 2007) hoặc nghiên cứu về cơ chế truyền dẫn CSTT (Shiller, Campbell & Schoenholtz, 1983; Cogley & Sargent, 2005; An & Schorfheide, 2007; Hülsewig, Mayer & Wollmershäuser, 2009; Vivien & Celine, 2012). 13 ? Số 142/2020 KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ thương mại khoa học 9. Tính phi trung lập của tiền khẳng định vai trò và ảnh hưởng của CSTT đế ... am số trong mô hình DSGE (Hodge & ctg, 2008) để rút ra tập tham số phi (Φ) của ma trận VAR và ma trận hiệp phương sai Σu. Với mỗi Σu có thể tính toán được một vector phần dư ut+1 từ phân phối chuẩn đa biến N(0,Σu) và tính toán được giá trị yt+1 bằng cách sử dụng tập tham số Φ của VAR, có thể tính toán lần lượt được chuỗi liên tiếp gồm bốn giá trị tương ứng với việc dự báo cho bốn quý. Nghiên cứu thực hiện toàn bộ quá trình này 1000 lần (Hodge & ctg, 2008) và sau đó lấy giá trị dự báo trung bình để cho ra kết quả dự báo cuối cùng. Từ đó, nghiên cứu sử dụng chỉ tiêu RMSE để lựa chọn cách kết hợp tối ưu giữa độ trễ trong mô hình VAR với hệ số tỉ lệ λ. Theo Bảng 6, với kết quả dự báo cho bốn quý tiếp theo (độ trễ 3, λ = 1) mô hình có khả năng dự báo ít sai số nhất cho Việt Nam. Như vậy, so với Hodge & ctg (2008), kết quả dự báo (bốn quý) của Việt Nam phù hợp và khá tương đồng vì có cùng độ trễ và giá trị λ nhỏ (λ = 1). Cuối cùng, theo Del Negro & ctg (2006), mô hình DSGE phù hợp để mô tả cho nền kinh tế Việt Nam. 4.4.2. Mô hình DSGE Bảng 7 cho thấy kết quả phân phối hậu nghiệm có sự tương đồng và phù hợp với phân phối tiền nghiệm trong phương pháp ước lượng DSGE-VAR. Sự khác biệt là không quá lớn nên có thể thấy rằng, việc lựa chọn tiền nghiệm và bộ dữ liệu trong phương pháp ước lượng này tương thích với phần mềm sử dụng để ước lượng, mô phỏng và dự báo kết quả. Số 142/202020 KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ thương mại khoa học Bảng 4: Kết quả phân rã phương sai của lãi suất Nguồn: Thu thập dữ liệu và ước lượng dữ liệu bằng Eview 8 ! " # 4.4.3. Cú sốc ngoại sinh Theo Bảng 8, nghiên cứu chỉ ra một số kết luận phản ứng của các biến số vĩ mô trước các cú sốc: cú sốc điều khoản thương mại, cú sốc lạm phát thế giới (của Mỹ), cú sốc lãi suất của Mỹ, cú sốc sản lượng thế giới và cú sốc công nghệ: Một là, cú sốc điều khoản thương mại ít có ảnh hưởng đến độ lệch sản lượng, lạm phát, tỷ giá, cụ thể: sự thay đổi về điều khoản thương mại làm lạm phát tăng lên trong hai kỳ và tỷ giá sụt giảm trong hai kỳ đầu tiên sau đó trở về trạng thái cân bằng. Hai là, cú sốc lạm phát của Mỹ làm tỷ giá tăng và cân bằng sau 8 - 10 kỳ. Ba là, cú sốc lãi suất của Mỹ tăng làm sản lượng trong nước tăng lên trong hai kỳ sau đó cân bằng. Lãi suất trong nước giảm và cân bằng sau 4 kỳ. Lạm phát trong nước tăng và cân bằng sau 8 kỳ. Cú sốc này làm tỷ giá tăng và cân bằng sau 6 kỳ. Bốn là, cú sốc sản lượng của Mỹ tăng làm sản lượng trong nước tăng lên trong hai kỳ và sau đó cân bằng. Cú sốc sản lượng làm lãi suất tăng lên trong ba kỳ, sau đó giảm xuống dần, sau hai kỳ. Cú sốc sản lượng làm lạm phát giảm và cân bằng sau 8 kỳ. Cú sốc sản lượng làm tỷ giá giảm và cân bằng sau 4 - 5 kỳ. Năm là, cú sốc công nghệ làm sản lượng, tỷ giá, lạm phát trong nước giảm và lãi suất tăng lên. Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy các biến số vĩ mô của Mỹ có ảnh hưởng đến các biến số vĩ mô của Việt Nam. Theo Bảng 9, kết quả tiền nghiệm và hậu nghiệm của các cú sốc cho thấy độ lệch chuẩn không lớn, điều đó cho thấy khả năng mô phỏng các cú sốc hậu nghiệm của mô hình tương đối phù hợp với thông tin tiền nghiệm, mở ra khả năng dự báo các cú sốc vĩ mô. 5. Kết luận 5.1. Tóm tắt kết quả nghiên cứu Thứ nhất, nghiên cứu khẳng định lại một lần nữa vai trò của CSTT trong việc đảm bảo sự OĐTC tại Việt Nam. Thứ hai, nghiên cứu trình bày các vấn đề liên quan đến mô hình Keynes mới DSGE và SVAR với giả thuyết về sự cứng nhắc của giá và tiền lương danh nghĩa với việc ứng dụng nền tảng vi mô, lý thuyết thị trường không hoàn hảo để xây dựng mô hình với hệ các phương trình ước lượng nhằm phân tích tác động của các cú sốc CSTT đến các biến số vĩ mô và cơ chế truyền dẫn, các nghiên cứu về khả năng dự báo của mô hình DSGE. Từ đó, nghiên cứu đóng góp một nền tảng cho các nhà hoạch định chính sách và giới đầu tư đưa ra các phân tích chính sách và dự báo về sự thay đổi của các biến số vĩ mô dựa trên sự hiểu biết về các thông tin trong quá khứ của các biến số này. 21 ? Số 142/2020 KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ thương mại khoa học Bảng 5: RSME của mô hình BVAR-DSGE với trọng số λ (lamda) và độ trễ (lag) Nguồn: Thu thập dữ liệu và ước lượng dữ liệu bằng Matlab2016a !" $ % & Bảng 6: Giá trị trung bình RMSE của mô hình BVAR - DSGE với hệ số λ Bảng 7: Kết quả ước lượng (đại diện) mô hình DSGE (4 quý tiếp theo) với độ trễ 3, λ = 1 Nguồn: Thu thập dữ liệu và ước lượng dữ liệu bằng Matlab2016a !"# $%&'(' )* + *+,*' -./011' 234*31 -15)*6 7 ?5.2. Hàm ý chính sách Thứ nhất, Đỗ Việt Hùng & ctg (2014) khẳng định lại một lần nữa OĐTC mới là mục tiêu của NHTW các nước hiện nay. Do đó, nền kinh tế cần phải tăng trưởng theo chiều sâu để ổn định vĩ mô trong dài hạn (Trần Thọ Đạt, 2002; Trần Thọ Đạt & Đỗ Tuyết Nhung, 2012). Thứ hai, thay đổi quan điểm về sự kết hợp giữa CSTT nới lỏng (thắt chặt) với sự giảm (tăng) của lãi suất danh nghĩa ngắn hạn. Bởi vì công cụ lãi suất của NHNN sử dụng là lãi suất danh nghĩa ngắn hạn (Mishkin, 2012; SBV, 2011). Nhưng SBV (2011) khẳng định lại một lần nữa lý thuyết của Mishkin (1981) là lãi suất thực mới là kênh truyền dẫn của CSTT. Tuy nhiên, biến động của lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa không phải lúc nào cũng giống nhau (Romer, 2000; Nguyễn Hoàng Chung & ctg, 2018). Do đó, nếu NHNN và công chúng quá kỳ vọng vào lãi suất danh nghĩa như là một đại diện cho quan điểm về CSTT có thể là nguyên nhân dẫn đến các bất ổn trong nền kinh tế. Thứ ba, CSTT có thể rất hiệu quả trong việc khôi phục một nền kinh tế yếu kém ngay cả khi lãi suất ngắn hạn thấp (SBV, 2011). Thứ tư, tránh những dao động không dự tính trong lạm phát là mục tiêu quan trọng của CSTT (Mishkin, 2012). Để thực hiện ổn định lạm phát, cần xây dựng được một NHTW độc lập. Bên cạnh đó, NHNN phải minh bạch về thông tin về tỷ giá hối đoái, lãi suất, CSTT và các hoạt động của NHNN, xây dựng bộ chỉ số tiền tệ và tài chính hay một chỉ số tổng hợp như điều kiện tài chính (Nguyễn Khắc Quốc Bảo & ctg, 2017) và công bố rộng rãi để dẫn dắt thị trường và công chúng theo định hướng của NHNN. 5.3. Hạn chế của nghiên cứu Đầu tiên, dữ liệu nghiên cứu hiện tại là phù hợp với điều kiện của Việt Nam nhưng chưa đáp ứng theo tiêu chuẩn quốc tế (Nguyễn Đức Trung & ctg, 2018). Thứ hai, độ bao phủ của nghiên cứu chưa đại diện cho toàn bộ hệ thống NHTM tại Việt Nam. Nghiên cứu chỉ xây dựng mô hình cấu trúc sử dụng kênh kỳ vọng nhưng kênh này chỉ phát huy tác dụng khi công chúng có niềm tin vào các chính sách của NHNN. Thứ ba, trong mô hình Keynes mới DSGE, các thông tin tiền nghiệm đưa vào mô hình dựa trên nghiên cứu thực nghiệm tại Úc và Trung Quốc, hai nền kinh tế là khác biệt so với Việt Nam. Thứ tư, nghiên cứu chưa xử lý được nội sinh trong mô hình (Nguyễn Đức Trung & ctg, 2018). Cuối cùng, nghiên cứu khẳng định vai trò của LSCS đến các biến số vĩ mô như sản lượng và lạm phát nhằm ổn định KTVM để tích lũy các yếu tố cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng cao sau này (Chu Khánh Lân, 2018). Tuy nhiên, các biến số vĩ mô này chịu tác động nhiều từ mệnh lệnh hành chính dẫn đến trong dài hạn việc kiểm soát lãi suất này sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro gây mất OĐTC.u Tài liệu tham khảo: 1. An, S., & Schorfheide, F. (2007), Bayesian analysis of DSGE models, Econometric Reviews, 26(2-4), 113-173. 2. Araújo, E. (2015), Monetary policy objectives and Money’s role in U.S. business cycles, Journal of Macroeconomics, 45, 85 - 107. 3. Blanchard, O. J. & Quah, D., (1989), The Dynamic Effects of Aggregate Demand and Supply Disturbances, American Economic Review, American Economic Association, 79(4), 655 - 673. 4. Chen, S. S. (2010), DSGE Models and Central Bank Policy Making: A Critical Review, Department of economics national Taiwan university, National Taiwan University. 5. Clarida, R. Galí, J. & Gertler, M. (2000), Monetary Policy Rules and Macroeconomic Số 142/202022 KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ thương mại khoa học Bảng 8: Phản ứng của các biến số vĩ mô trước cú sốc ngoại sinh Nguồn: Tổng hợp dữ liệu và tính toán của tác giả từ phần mềm matlab 2016a # !" # $%% &' (' # ) ) (' # Bảng 9: Độ lệch chuẩn của các cú sốc Stability: Evidence and Some Theory, Quarterly Journal of Economics, 115(1), 147-180. 6. Dabla-Norris, E., & Floerkemeier, H. (2006), Transmission mechanisms of monetary policy in Armenia: evidence from VAR analysis, vol. 6. IMF Working paper. 7. Del Negro, M. & Schorfheide, F. (2006), How good is what you’ve got? DSGE-VAR as a toolkit for evaluating DSGE models, Economic Review, 91(2), 21 - 37. 8. Dizioli, A. & Schmittmann, J. M. (2015), A Macro - Model Approach to Monetary Policy Analysis and Forecasting for Viet Nam, IMF Working Paper, WP/15/273. 9. Friedman, M., & Meiselman, D. (1963), The Relative Stability of the Investment Multiplier and Monetary Velocity in the United States, 1897-1958. Stabilization Policies, Englewood Cliffs. New Jersey: Prentice - Hall. 10. Galí, J. (2008), Monetary policy, inflation, and the business cycle: An introduction to the new Keynesian framework, Princeton University Press. 11. Hodge, A., Robinson, T. & Stuart, R. (2008), A small BVAR-DSGE model for forcasting the Australian Economy, RBA Research Discussion Paper 2008-04. 12. International Monetary Fund (2013), Key aspects of macroprudential policy, Washington: International Monetary Fund. 13. Keating, J. W. (1990). Identifying VAR mod- els under rational expectations. Journal of Monetary Economics, 25(3), 453-476. 14. Keynes, J. M. (1936), The general theory of employment interest and money, New York: Macmillan Cambridge University Press. 15. Kim, S. & Mehrotra, A. (2016), Maintaining price and financial stability by monetary and macroprudential policy - evidence from Asia and the Pacific, Bis Working Papers, 88, 17-28. 16. Kydland, F. E., & Prescott, E. C. (1982), Time to build and aggregate fluctuations, Econometrica, 50(6), 1345–1370. 17. Leu, S.C.Y. (2011), A new keynesian SVAR model of the Australian economy, Economic Modelling, 28(1), 157-168. 18. Lucas, R. E. (1976), Econometric Policy Evaluations: A Critique, Carnegie - Rochester 19. Conference Series on Public Polic, Elsevier Science Publishers B, V (North - Holland), 1983. 20. Mishkin, F. S. (2012), The Economics of Money, Banking and Financial Markets, Pearson Education. 21. Nguyễn Đức Trung & Nguyễn Hoàng Chung (2017), Mô hình dự báo cho nền kinh tế nhỏ và mở cửa của Việt Nam, Tạp chí Phát triển Kinh tế, 28(10), 5-39. 22. Nguyen Duc Trung, Le Dinh Hac & Nguyen Hoang Chung (2019), Analysis of Monetary Policy shocks in the New Keynesian model for Viet Nam’s Economy: Rational Expectations Approach, Springer, EconVN Paper. 23. Nguyễn Khắc Quốc Bảo, Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Thị Ngọc Trang, Đinh Thị Thu Hồng & Nguyễn Thị Diễm Kiều (2017), Chỉ số điều kiện tài chính FCI đo lường và ứng dụng tại Việt Nam, NXB Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh. 24. Rochelle, M. E. & Refet, G., (2010), How Useful Are Estimated DSGE Model Forecasts for Central Bankers? Brookings Papers on Economic Activity, 41(2), 209 - 259. 25. Romer, D. (2012), Advanced Macroeconomics, 4th Edition, McGraw-Hill Irwin, New York. 26. Spyromitros, E., & Tuysuz, S. (2012), Do monetary policy transparency, independence and credibility enhance macro-financial stability? International Journal of Economics and Finance, 4(4), p44. 27. Taylor, J. B. (1993), Discretion versus Policy Rules in Practice, Carnegie-Rochester Conference series on Public Policy 39, 195-214. 28. Zheng, T., & Guo, H. (2013), Estimating a small open economy DSGE model with indetermina- cy: Evidence from China, Economic Modelling, 31, 642–652. doi: 10.1016/j.econmod.2013.01.002. Summary The study reaffirms that the policy and monetary tools of State Bank of Vietnam (SBV) upholds the important role in maintaining the macro stability in Vietnam (Nguyễn Đức Trung, Lê Đình Hạc & Nguyễn Hoàng Chung, 2018). From there, this study has applied the new Keynes SVAR model, to assess the combination of structural shocks and rational expectations of agents in the open and small economy (Nguyen Duc Trung, Le Dinh Hac & Nguyen Hoang Chung, 2019). At the same time, this study has also shown the suitability between real data and the new Keynes DSGE macro forecasting models for Vietnam (Nguyen Duc Trung & Nguyen Hoang Chung, 2017). 23Số 142/2020 KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ thương mại khoa học
File đính kèm:
- danh_gia_kha_nang_phan_tich_chinh_sach_va_du_bao_cua_mo_hinh.pdf