Đa dạng loài và đặc điểm phân bố giun đất ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu

TÓM TẮT

Trên cơ sở phân tích 1.200 cá thể giun đất được thu định tính ở 58 điểm thuộc

tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào tháng 10 năm 2016, nghiên cứu này đã tổng kết

được 26 loài giun đất xếp trong 10 giống và 5 họ. Trong số các loài trên, có

17 loài lần đầu tiên được ghi nhận ở khu vực nghiên cứu; thêm vào đó, giống

Pheretima sensu stricto lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam và loài

Metphire mangophila (Nguyen, 2011) được điều chỉnh thành tên đồng vật của

Metaphire easupana (Thai & Huynh, 1993). Về cấu trúc thành phần loài, họ

Megascolecidae chiếm ưu thế tuyệt đối với 22 loài (chiếm 84,60%); các họ

còn lại Almidae, Rhinodrilidae, Moniligastridae và Octochaetidae mỗi họ có

1 loài. Giống Metaphire (12 loài) và giống Amynthas (5 loài) chiếm ưu thế so

với các giống còn lại; giống Polypheretima không phân bố ở vùng nội địa của

khu hệ này. Khu vực nghiên cứu có độ tương đồng về thành phần loài giữa các

địa hình cao (> 60%), trong khi đó độ tương đồng về thành phần loài giữa các

sinh cảnh tương đối thấp (29,91% – 53,76%). Chỉ số ưu thế của các loài giun

đất ở khu vực nghiên cứu thấp (λ < 0,24),="" tuy="" nhiên="" m.="" bahli,="">

polychaetiferus và M. houlleti có độ phong phú cao hơn các loài còn lại

pdf 12 trang phuongnguyen 5360
Bạn đang xem tài liệu "Đa dạng loài và đặc điểm phân bố giun đất ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đa dạng loài và đặc điểm phân bố giun đất ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu

Đa dạng loài và đặc điểm phân bố giun đất ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 53, Phần A (2017): 96-107 
 96 
DOI:10.22144/ctu.jvn.2017.146 
ĐA DẠNG LOÀI VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÂN BỐ GIUN ĐẤT 
Ở TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU 
Nguyễn Thanh Tùng1, Nguyễn Quốc Nam2, Trương Thuý Ái3 và Nguyễn Phúc Hậu3 
1Khoa Sư Phạm, Trường Đại học Cần Thơ 
2Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Sinh học, Trường Đại học Cần Thơ 
3Khoa Khoa học Tự nhiên, Trường Đại học Cần Thơ 
Thông tin chung: 
Ngày nhận bài: 19/07/2017 
Ngày nhận bài sửa: 31/08/2017 
Ngày duyệt đăng: 29/11/2017 
Title: 
Diversity and distribution of 
earthworms in Ba Ria - Vung 
Tau province 
Từ khóa: 
Bà Rịa - Vũng Tàu, đa dạng 
loài, đặc điểm phân bố, giun 
đất, Pheretima sensu stricto 
Keywords: 
Ba Ria - Vung Tau, 
distribution, earthworms, 
Pheretima sensu stricto, 
species diversity 
ABSTRACT 
Basing on the analysis of 1200 earthworms individuals in 58 sites in Ba Ria - 
Vung Tau province on October 2016, this study inventoried that there were 26 
species of earthworm in 10 genera and 5 families. Of those species, seventeen 
species were firstly recorded in the study area; additionally, the genus 
Pheretima sensus stricto was firstly recorded in Vietnam, and the species 
Metphire mangophila (Nguyen, 2011) was adjusted as a junior synonym of 
Metaphire easupana (Thai & Huynh, 1993). Regarding to species 
composition and community structure, family Megascolecidae absolutely 
dominated with 22 species (84.60%); families Almidae, Rhinodrilidae, 
Moniligastridae and Octochaetidae with 1 species for each one. The genus 
Metaphire (12 species) and Amynthas (5 species) were more dominant than 
other genera; the genus Polypheretima was not distributed in mainland of the 
study site. Within the study area, the similarity index of species composition 
among terrains is rather high as over 60%, but low as of 29.91%–53.76% 
among habitats. Dominance index of earthworm species in the study area was 
low (λ < 0.24), However, M. bahli, A. polychaetiferus and M. houlleti were 
more dominant than other species. 
TÓM TẮT 
Trên cơ sở phân tích 1.200 cá thể giun đất được thu định tính ở 58 điểm thuộc 
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu vào tháng 10 năm 2016, nghiên cứu này đã tổng kết 
được 26 loài giun đất xếp trong 10 giống và 5 họ. Trong số các loài trên, có 
17 loài lần đầu tiên được ghi nhận ở khu vực nghiên cứu; thêm vào đó, giống 
Pheretima sensu stricto lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam và loài 
Metphire mangophila (Nguyen, 2011) được điều chỉnh thành tên đồng vật của 
Metaphire easupana (Thai & Huynh, 1993). Về cấu trúc thành phần loài, họ 
Megascolecidae chiếm ưu thế tuyệt đối với 22 loài (chiếm 84,60%); các họ 
còn lại Almidae, Rhinodrilidae, Moniligastridae và Octochaetidae mỗi họ có 
1 loài. Giống Metaphire (12 loài) và giống Amynthas (5 loài) chiếm ưu thế so 
với các giống còn lại; giống Polypheretima không phân bố ở vùng nội địa của 
khu hệ này. Khu vực nghiên cứu có độ tương đồng về thành phần loài giữa các 
địa hình cao (> 60%), trong khi đó độ tương đồng về thành phần loài giữa các 
sinh cảnh tương đối thấp (29,91% – 53,76%). Chỉ số ưu thế của các loài giun 
đất ở khu vực nghiên cứu thấp (λ < 0,24), tuy nhiên M. bahli, A. 
polychaetiferus và M. houlleti có độ phong phú cao hơn các loài còn lại. 
Trích dẫn: Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Quốc Nam, Trương Thuý Ái và Nguyễn Phúc Hậu, 2017. Đa dạng 
loài và đặc điểm phân bố giun đất ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Tạp chí Khoa học Trường Đại học 
Cần Thơ. 53a: 96-107. 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 53, Phần A (2017): 96-107 
 97 
1 GIỚI THIỆU 
Bà Rịa – Vũng Tàu thuộc vùng Đông Nam Bộ 
(Việt Nam), có diện tích tự nhiên 1975,73 km2, là 
vùng chuyển tiếp giữa Nam Trung Bộ và Nam Bộ, 
có tọa độ địa lí từ 10°17’ đến 10°47’ vĩ độ Bắc và 
107° đến 107°35’ kinh độ Đông. Có 3 dạng địa 
hình chính là miền đồi núi thấp, dải bậc thềm phù 
sa cổ và vùng đồng bằng ven biển với độ cao dao 
động từ 50 – 300 m. Khí hậu cận xích đạo, gió 
mùa, nóng ẩm quanh năm. Rừng chỉ chiếm khoảng 
17,6% diện tích toàn tỉnh, phần lớn diện tích còn 
lại là đất trồng cây công nghiệp, cây lương thực và 
cây ăn quả (Thạch Phương và Nguyễn Trọng Minh, 
2005; Lê Thông và ctv., 2010). 
Trước đây, khu hệ Bà Rịa – Vũng Tàu chỉ ghi 
nhận được 10 loài giun đất, thuộc 5 giống, xếp 
trong 3 họ, chủ yếu ở Côn Đảo và Hòn Bảy Cạnh 
(Omodeo, 1957; Thái Trần Bái, 1996; Thái Trần 
Bái và ctv., 2004). Trong khi đó, thành phần loài 
giun đất ở những khu khu vực còn lại chưa được 
biết đến, vì vậy, nghiên cứu này được triển khai và 
thực hiện để bổ sung thêm các dẫn liệu về thành 
phần loài và một số nhận xét về đặc điểm phân bố 
của giun đất ở vùng đất liền cho khu hệ này. 
2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu 
Mẫu giun đất được thu định tính ở 58 điểm vào 
cuối mùa mưa (10/2016) trên 3 dạng địa hình chính 
là miền đồi núi thấp, dải bậc thềm phù sa cổ và 
vùng đồng bằng ven biển. Các điểm thu mẫu được 
bố trí chủ yếu trong sinh cảnh rừng tự nhiên, đất 
trồng cây lâu năm, đất trồng cây ngắn ngày và 
bãi hoang. Vị trí thu mẫu cụ thể được thể hiện ở 
Hình 1. 
Hình 1: Các điểm thu mẫu giun đất ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu 
2.2 Phương pháp nghiên cứu 
Mẫu giun đất được thu định tính trực tiếp bằng 
tay, sau khi dùng leng đào chúng lên khỏi mặt đất. 
Phạm vi thu mẫu trong một sinh cảnh phụ thuộc 
vào mức độ đa dạng loài, sinh cảnh nào có độ đa 
dạng cao thì phạm vi thu mẫu càng lớn. Sau khi 
thu, mẫu được rửa sạch trong nước, làm chết bằng 
dung dịch formol 2%, duỗi thẳng mẫu trong thời 
gian 15 phút và cố định trong dung dịch formol 4% 
(tỉ lệ 1 formol: 9 nước). 
Tổng số 1.200 cá thể giun đất được định loại 
dựa trên nhiều tài liệu khác nhau, từ khóa định loại 
đến các mô tả từng loài của Gates (1972), Sims và 
Easton (1972), Easton (1979), Thái Trần Bái 
(1986), Blakemore (2002), Nguyễn Thanh Tùng 
(2014). Các loài thuộc nhóm Pheretima trong bài 
báo này được sắp xếp theo hệ thống phân loại của 
Sims và Easton (1972) và Easton (1979). 
 Chỉ số ưu thế Simpson λ = ∑(pi)2, chỉ số đa 
dạng loài Shannon – Weiner H’ = -∑[pi*log(pi)], 
chỉ số phong phú loài Margalef d = (S-1)/log(N) và 
chỉ số đồng đều Pielou J’ = H’/log(S) (pi là tần số 
xuất hiện của mỗi loài pi = ni/N; ni là số lượng cá 
thể của loài thứ i; N là tổng số cá thể của tất cả các 
loài; S tổng số loài. Độ tương quan về thành phần 
loài và số lượng giun đất giữa các dạng địa hình, 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 53, Phần A (2017): 96-107 
 98 
sinh cảnh trong khu vực nghiên cứu được xác định 
bằng phần mềm PRIMER 5. Tọa độ các điểm thu 
được xác định bằng máy GPS 72H (Garmin), hình 
mẫu được chụp bằng kính lúp Motic DM143 – 
FBGG – C. Tất cả các mẫu giun đất hiện nay được 
lưu trữ tại Phòng thí nghiệm Động vật, Bộ môn Sư 
phạm Sinh học, Trường Đại học Cần Thơ. 
3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
3.1 Đa dạng loài giun đất ở Bà Rịa - Vũng Tàu 
Dựa trên cơ sở tổng kết số liệu từ các mẫu thu ở 
phần đất liền và các dẫn liệu thư mục nghiên cứu 
trước đây ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho thấy có 26 
loài giun đất xếp trong 10 giống và 5 họ được ghi 
nhận ở khu vực này (Bảng 1). 
Bảng 1: Danh sách các loài giun đất được phát hiện ở Bà Rịa – Vũng Tàu và các khu vực lân cận 
STT Taxon Bà Rịa – Vũng Tàu Đồng Nai (2) 
Bình 
Dương (3) ĐBSCL (4) Đất liền Đảo (1) 
Họ ALMIDAE Duboscq, 1902 
Giống Glyphidrilus Horst, 1889 
1. Glyphidrilus papillatus (Rosa, 1890) + + + 
Họ RHINODRILIDAE Benham, 1890 
Giống Pontoscolex Schmarda, 1861 
2. Pontoscolex corethrurus (Müller, 1856) + + + + + 
Họ MEGASCOLECIDAE (part Rosa, 1891) 
Giống Amynthas Kinberg, 1867 
3. Amynthas polychaetiferus (Thai, 1984) + + + + 
4. Amynthas corticis (Kinberg, 1867) + 
5. Amynthas sp. 1 + 
6. Amynthas sp. 2 + 
7. Amynthas sp. 3 + 
Giống Lampito Kinberg, 1866 
8. Lampito mauritii Kinberg, 1866 + + + + 
Giống Metaphire Sims & Easton, 1972 
9. Metaphire anomala (Michaelsen, 1907) + + + + + 
10. Metaphire bahli (Gates, 1945) + + + + + 
11. Metaphire californica (Kinberg, 1867) + + + + 
12. Metaphire campanulata (Rosa, 1890) + + + + 
13. Metaphire houlleti (Perrier, 1872) + + + + 
14. Metaphire easupana (Thai & Huynh, 1993)* + + + + 
15. Metaphire peguana peguana (Rosa, 1890) + + + + 
16. Metaphire posthuma (Vaillant, 1868) + + + 
17. Metaphire sp. 1 + 
18. Metaphire sp. 2 + 
19. Metaphire sp. 3 + + 
20. Metaphire sp. 4 + 
Giống Pheretima Kinberg, 1867 
21. Pheretima sp. + 
Giống Polypheretima Michaelsen, 1934 
22. Polypheretima colonensis (Thai, 1996) + 
23. Polypheretima grandisetosa (Thai, 1996) + 
Giống Pontodrilus Perrier, 1874 
24. Pontodrilus litoralis (Grube, 1855) (5) + + 
Họ MONILIGATIDAE Claus, 1880 
Giống Drawida Michaelsen, 1900 
25. Drawida sp. + + + + 
Họ OCTOCHAETIDAE Gates, 1959 
Giống Dichogaster Beddard, 1888 
26. Dichogaster bolaui (Michaenlsen, 1891) + + + + 
Tổng cộng 22 8 10 13 14 
(1): Theo Thái Trần Bái và ctv. (2004); (2): Theo Lê Văn Nhãn (2015); (3): Theo Nguyễn Thị Ngọc Nhi (2014) và 
Nguyễn Thị Mai và ctv. (2015); (4): Theo Nguyễn Thanh Tùng (2014); (5): Theo Omodeo, 1957; *: Loài này trước đây 
được công bố với tên Metaphire mangophila (Nguyen, 2011) 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 53, Phần A (2017): 96-107 
 99 
Trong số các loài trên, có 2 loài Polypheretima 
colonensis (Thai, 1996), Polypheretima 
grandisetosa (Thai, 1996) được Thái Trần Bái 
(1996) công bố loài mới cho khoa học và 9 taxon 
đang được kiểm tra dẫn liệu phân tử để công bố 
loài mới do có nhiều đặc điểm khác với những loài 
đã gặp trước đây. Nghiên cứu này đã bổ sung thêm 
17 loài giun đất mới ghi nhận ở tỉnh Bà Rịa – Vũng 
Tàu, kể từ sau nghiên cứu của Omodeo (1957) ghi 
nhận được 1 loài (Pontodrilus litoralis) và Thái 
Trần Bái và ctv. (2004) ghi nhận 8 loài giun đất ở 
Côn Đảo và Hòn Bảy Cạnh (Bảng 1). 
Một đóng góp quan trọng của nghiên cứu này là 
lần đầu tiên ghi nhận giống Pheretima sensu stricto 
ở Việt Nam. Mẫu Pheretima sp. thu được có các 
đặc điểm đặc trưng cho giống Pheretima sensu 
stricto như: có buồng giao phối, có nhiều vi thận 
đính trên cuống túi nhận tinh ở 6/7/8/9, manh tràng 
đơn giản (Hình 2A). Trước đây, giống này chỉ 
được ghi nhận ở một số nước như: Indonesia, 
Malaysia và Philippines (Sims & Easton, 1972; 
James, 2004; Hong & James, 2011; Aspe & James, 
2014). 
Ngoài ra, trong quá trình phân tích các mẫu ở 
khu vực nghiên cứu cũng phát hiện thêm loài 
Metphire mangophila (Nguyen, 2011) chính là tên 
đồng vật của loài Metaphire easupana (Thai & 
Huynh, 1993) vì giữa chúng có nhiều điểm giống 
nhau và các đặc điểm này rất ổn định cho loài như: 
không có nhú phụ sinh dục ở vùng đực và vùng 
nhận tinh, 2 đôi lỗ nhận tinh ở 5/6/7, môi kiểu epi, 
lỗ lưng đầu tiên ở 12/13, túi nhận tinh có 
diverticulum dài hơn ampun, túi tinh hoàn thông 
nhau, tuyến trứng và túi trứng ở 12/13, đôi manh 
tràng hình lược, (Hình 2B) (Thái Trần Bái và 
Huỳnh Thị Kim Hối, 1993; Nguyễn Thanh Tùng, 
2011). 
Hình 2: Pheretima sp. (A) và Metaphire easupana (Thai & Huynh, 1993) (B) ở Bà Rịa – Vũng Tàu 
A1: Vùng đực nhìn từ phía bụng; A2: Túi nhận tinh ở 6/7 phóng to; A3: Bộ túi nhận tinh bên trái; B1: Vùng đực nhìn từ 
phía bụng; B2: Bộ túi nhận tinh bên trái; B3: Manh tràng; (ag = tuyến phụ sinh dục, amp = ampun, dv = diverticulum, 
mp = lỗ đực, nph = vi thận); Tỉ lệ: 1mm 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 53, Phần A (2017): 96-107 
 100 
Hình 3: Vùng đực của các loài giun đất thuộc giống Amynthas và Metaphire ở Bà Rịa – Vũng Tàu 
A: M. anomala; B: M. bahli; C: M. californica; D: M. houlleti; E: M. campanulata; F: M. easupana; G: M. peguana 
peguana; H: M. sp. 1; I: M. sp. 2; J: M. sp. 4; K: M. sp. 3; L: A. polychaetiferus; M: A. sp. 3; N: A. sp. 2; O: A. sp. 1. 
(ag = tuyến phụ sinh dục, amp = ampun, dv = diverticulum, gm = nhú phụ sinh dục, mp = lỗ đực, sp = lỗ nhận tinh, st = 
đám tơ); Tỉ lệ: 1 mm. 
Trong số 26 loài giun đất ghi nhận ở tỉnh Bà 
Rịa – Vũng Tàu, họ Megascolecidae chiếm ưu thế 
với 22 loài (chiếm 84,60%); các họ còn lại 
Almidae, Rhinodrilidae, Moniligastridae và 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 53, Phần A (2017): 96-107 
 101 
Octochaetidae mỗi họ có một loài (chiếm 3,85%). 
Nhóm Pheretima có 4 giống (Amynthas, 
Metaphire, Polypheretima và Pheretima) với 20 
loài chiếm ưu thế (khoảng 76,92%), phù hợp với 
tính chất khu hệ giun đất ở Đông Dương là do khu 
vực nghiên cứu nằm trong vùng phân bố gốc của 
nhóm loài này (Hendrix et al., 2008); trong số đó 
giống Metaphire chiếm ưu thế nhất với 12 loài 
(46,15%), kế đến là giống Amynthas với 5 loài 
(19,20%). Các giống còn lại mỗi giống có 1 loài 
(khoảng 3,85%). Khi so sánh về cấu trúc thành 
phần loài khu hệ giun đất ở Bà Rịa – Vũng Tàu có 
nhiều điểm tương đồng với các khu hệ lân cận như 
Đồng Nai, Bình Dương, ĐBSCL với giống 
Metaphire chiếm ưu thế, kế đến là giống 
Amynthas. Tuy nhiên, tỉ lệ của giống 
Polypheretima (thuộc nhóm Pheretima không có 
manh tràng) thấp hơn so với khu hệ Đồng Nai và 
ĐBSCL, đặc biệt không tìm thấy đại diện của 
giống này ở phần đất liền của tỉnh Bà Rịa – Vũng 
Tàu. 
Hình 4: Vùng đực của các loài giun đất không thuộc nhóm Pheretima ở Bà Rịa – Vũng Tàu 
A: Gly. papillatus; B: Lampito mauritii; C: Pont. corethrurus; D: Drawida sp.; E: Dic. bolaui. (fp = lỗ cái, gm = nhú 
phụ sinh dục, mp = lỗ đực, np = lỗ đổ của vi thận, ps = tơ giao phối, sp = lỗ nhận tinh, wi = vây bên); Tỉ lệ: 1 mm. 
Bảng 2: So sánh cấu trúc thành phần loài của giun đất ở khu hệ Bà Rịa – Vũng Tàu với các khu hệ lân cận 
STT Taxon Bà Rịa – Vũng Tàu Đồng Nai (1) Bình Dương (2) ĐBSCL (3) n n% n n% n n% n n% 
1. Họ ALMIDAE 
1. Glyphidrilus 1 3,85 - - 1 7,69 1 2,63 
2. Họ RHINODRILIDAE 
2. Pontoscolex 1 3,85 1 4,35 1 7,69 1 2,63 
3. Họ MEGASCOLECIDA 
3. Amynthas 5 19,20 3 13,04 1 7,69 6 15,79 
4. Lampito 1 3,85 1 4,35 1 7,69 1 2,63 
5. Metaphire 12 46,15 14 60,87 7 53,85 16 41,11 
6. Pheretima 1 3,85 - - - - - - 
7. Polypheretima 2 7,70 3 13,4 - - 6 15,79 
8. Pontodrilus 1 3,85 - - - - 1 2,63 
4. Họ MONILIGATIDAE 
9. Drawida 1 3,85 1 4,35 2 15,38 3 7,89 
5. Họ OCTOCHAETIDAE 
10. Dichogaster 1 3,85 - - - - 1 2,63 
Tổng số loài 26 23 13* 38 
(1): Theo Lê Văn Nhãn (2015); (2): Theo Nguyễn Thị Ngọc Nhi (2014) và Nguyễn Thị Mai và ctv. (2015); (3): Theo 
Nguyễn Thanh Tùng (2014); *: Trong nhóm Pheretima chỉ tính những loài được xác định tên khoa học. 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 53, Phần A (2017): 96-107 
 102 
3.2 Khóa định loại các loài giun đất ở Bà 
Rịa – Vũng Tàu 
Khóa định loại các loài giun đất ở Bà Rịa – 
Vũng Tàu được xây dựng dựa trên phần lớn các 
đặc điểm chẩn loại dễ nhận biết như đai sinh dục, 
kiểu tơ, nhú phụ sinh dục, manh tràng, vị trí lỗ 
nhận tinh. Ngoài ra, khóa định loại này còn sử 
dụng một số đặc điểm quan trọng đặc trưng cho 
từng loài. 
1. - Có 4 đôi tơ trên mỗi đốt .......................................................................................................... ... (2017): 96-107 
 104 
Địa hình MĐNT có độ cao từ 100 – 300 m, tập 
trung ở phía Bắc các huyện Tân Thành, Châu Đức 
và Xuyên Mộc (Lê Thông và ctv., 2006). Trong 
một thời gian dài, thảm thực vật ở đây bị chiến 
tranh tàn phá và khai thác bừa bãi của con người 
nên còn lại chủ yếu là các cây gỗ nhỏ với tầng 
thảm mục rất hạn chế. Chính vì thế, khu vực này có 
độ đa dạng về giun đất thấp hơn so với các địa hình 
còn lại trong khu vực nghiên cứu (với 9 loài, chỉ số 
d = 1,35 và H’ = 0,81). Loài M. bahli chiếm ưu thế 
(n% = 36,48), kế đến là các loài M. houlleti và A. 
polychaetiferus, tương đương với đặc trưng chung 
của cả khu hệ, tuy nhiên chỉ số ưu thế của các loài 
trong địa hình này tương đối thấp (λ = 0,20). 
Địa hình DBTPSC có độ cao từ 50 – 100 m, 
chạy từ phía Tây huyện Tân Thành đến phía Đông 
huyện Xuyên Mộc, địa hình khá bằng phẳng, thích 
hợp với việc trồng các loại cây lâu năm (Lê Thông 
và ctv., 2006). Tuy địa hình này chỉ có 15 loài (d = 
2,30) nhưng chỉ số đa dạng loài cao nhất (H’ = 
0,99) do chỉ số đồng đều giữa các loài tương đối 
cao (J’ = 0,85). Điểm đặc trưng về phân bố của 
giun đất ở vùng địa hình này là không có loài nào 
chiếm ưu thế (λ = 0,12), có 3 loài với độ phong phú 
về số lượng cá thể cao hơn các loài khác là M. 
easupana, M. bahli và A. polychaetiferus. 
Địa hình VĐBVB có độ cao dưới 50 m chạy 
dọc theo bờ biển phía Nam thuộc thành phố Vũng 
Tàu, thành phố Bà Rịa, huyện Long Điền, Đất Đỏ 
và một phần phía Đông Nam của huyện Xuyên 
Mộc, chủ yếu là các đồng lúa, cồn cát ven biển, 
(Lê Thông và ctv., 2006). Địa hình này có số loài 
cao hơn các dạng địa hình còn lại (20 loài; d = 
3,20), tuy nhiên chỉ số đồng đều giữa các loài thấp 
(J’ = 0,72) nên chỉ số đa dạng loài (H’ = 0,93) thấp 
hơn dạng địa hình DBTPSC. Loài M. bahli (n% = 
35,51) chiếm ưu thế tuyệt đối, kế đến là Lampito 
mauritii (n% = 20,05), phù hợp với các nhận xét 
trước đây Lampito mauritii tập trung chủ yếu ở khu 
vực ven biển (Nguyễn Văn Thuận, 1994). 
Do địa hình vùng đất liền của tỉnh Bà Rịa – 
Vũng Tàu tương đối bằng phẳng, độ chia cắt không 
quá lớn. Chính vì thế, sự tương đồng về thành phần 
loài giữa các dạng địa hình trong khu vực này 
tương đối cao, lớn hơn 60% (Bảng 5). Trong số các 
loài ở khu vực nghiên cứu, có 9 loài phân bố ở cả 3 
dạng địa hình, chiếm 42,86% tổng số loài; có 6 loài 
chỉ xuất hiện ở địa hình VĐBVB và 1 loài chỉ xuất 
hiện ở địa hình DBTPSC, đều là loài ngẫu nhiên 
với tần số xuất hiện thấp, dao động trong khoảng 
1,72 – 6,90 (Bảng 3). 
Bảng 5: Tỉ lệ tương đồng về thành phần loài giun đất giữa các địa hình ở vùng nội địa Bà Rịa – Vũng 
Tàu 
Địa hình Miền đồi núi thấp Dải bậc thềm phù sa cổ Vùng đồng bằng ven biển 
Miền đồi núi thấp 60,41 64,74 
Dải bậc thềm phù sa cổ 63,00 
Vùng đồng bằng ven biển 
3.3.2 Đặc điểm phân bố của giun đất theo 
sinh cảnh 
Bà Rịa – Vũng Tàu nằm trong vùng khí hậu 
nhiệt đới gió mùa nên thảm thực vật ở đây rất đa 
dạng. Thực tế cho thấy, mỗi loại sinh cảnh có 
những nét đặc trưng riêng, yếu tố quan trọng tạo 
nên sự khác biệt giữa các sinh cảnh là hệ thực vật 
và mức độ tác động của con người nhiều hay ít. 
Dựa vào cơ sở trên, có thể chia khu vực nghiên cứu 
thành 4 loại sinh cảnh chính: rừng tự nhiên (RTN), 
đất trồng cây lâu năm (ĐTCLN), đất trồng cây 
ngắn ngày (ĐTCNN) và bãi hoang (BH), giữa các 
sinh cảnh có những điểm tương đồng về phân bố 
của giun đất nhưng cũng có những đặc trưng riêng. 
Sinh cảnh RTN phân bố rải rác ở khu vực 
nghiên cứu, tập trung chủ yếu ở khu bảo tồn thiên 
nhiên Bình Châu – Phước Bửu và các núi như: núi 
Dinh, núi Minh Đạm, núi Bao Quan. Sinh cảnh 
rừng tự nhiên có hệ thực vật đa dạng; độ dốc cao; 
lớp thảm mục mỏng, chủ yếu tập trung trong các 
hốc đá; ít chịu tác động của con người hơn so với 
các sinh cảnh còn lại. Sinh cảnh này có số loài và 
chỉ số phong phú loài cao nhất (17 loài; d = 2,79), 
chỉ số đa dạng loài thấp hơn so với ĐTCLN do chỉ 
số đồng đều giữa các loài là tương đối thấp (J’ = 
0,66). Tuy chỉ số ưu thế thấp (λ = 0,24) nhưng có 2 
loài M. easupana và M. bahli có độ phong phú về 
số lượng cá thể cao hơn hẳn so với tất cả các loài 
còn lại trong sinh cảnh (n% = 38,76 và 28,34). 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 53, Phần A (2017): 96-107 
 105 
Bảng 6: Thành phần loài và phân bố của giun đất theo các sinh cảnh ở vùng nội địa tỉnh Bà Rịa – 
Vũng Tàu 
STT Loài RTN (11)* BH (18)* ĐTCLN (19)* ĐTCNN (10)* n n% n n% n n% n n% 
1. Amynthas polychaetiferus 10 3,26 19 5,37 76 28,36 35 12,92 
2. Lampito mauritii 9 2,93 92 25,99 6 2,24 24 8,86 
3. Metaphire anomala 14 4,56 7 1,98 16 5,97 4 1,48 
4. Metaphire bahli 87 28,34 157 44,35 9 3,36 87 32,10 
5. Metaphire campanulata 2 0,65 5 1,41 2 0,75 14 5,17 
6. Metaphire houlleti 26 8,47 21 5,93 29 10,82 70 25,83 
7. Metaphire sp. 3 12 3,91 1 0,28 25 9,33 4 1,48 
8. Pontoscolex corethrurus 2 0,65 25 7,06 58 21,64 - - 
9. Metaphire sp. 1 5 1,63 2 0,56 4 1,49 - - 
10. Pheretima sp. 1 0,33 2 0,56 6 2,24 - - 
11. Amynthas sp. 1 2 0,65 3 0,85 - - - - 
12. Metaphire easupana 119 38,76 6 1,69 - - - - 
13. Amynthas sp. 2 3 0,98 - - - - - - 
14. Amynthas sp. 3 2 0,65 - - - - - - 
15. Metaphire sp. 2 6 1,95 - - - - - - 
16. Metaphire sp. 4 3 0,98 - - - - - - 
17. Drawida sp. 4 1,30 - - - - 12 4,43 
18. Metaphire californica - - 7 1,98 32 11,94 16 5,90 
19. Dichogaster bolaui - - 4 1,13 5 1,87 - - 
20. Metaphire peguana peguana - - 3 0,85 - - - - 
21. Glyphidrilus papillatus - - - - - - 5 1,85 
Tổng 307 354 268 271 
n: số cá thể; n%: độ phong phú; *: số điểm thu mẫu; RTN=Rừng tự nhiên; BH=Bãi hoang; ĐTCLN=Đất trồng cây lâu 
năm; ĐTCNN=Đất trồng cây ngắn ngày 
Sinh cảnh BH phân bố rải rác ở khu vực nghiên 
cứu, chủ yếu là những khoảng đất trống ven đường, 
không được canh tác, là nơi tập trung nhiều rác thải 
nông nghiệp và sinh hoạt. Do sinh cảnh này tương 
đối phức tạp và không đồng nhất nên chỉ số phong 
phú loài cao (15 loài; d = 2,39) nhưng chỉ số đa 
dạng loài thấp nhất (H’ = 0,74) do chỉ số đồng đều 
giữa các loài thấp (J’ = 0,63). Loài chiếm ưu thế 
tuyệt đối ở sinh cảnh này là M. bahli (n% = 44,35), 
kế đến là Lampito mauritii (n% = 25,99). 
 Hệ thực vật của sinh cảnh ĐTCLN chủ yếu là 
cây công nghiệp như hồ tiêu, điều, cà phê, cao su 
và tràm bông vàng. Phần lớn sinh cảnh này người 
dân thường bón phân và tưới tiêu theo mùa, ngoài 
ra một số ít nơi còn thường xuyên bị ảnh hưởng 
của thuốc diệt cỏ. Tuy sinh cảnh này chỉ có 12 loài 
nhưng chỉ số đa dạng loài cao nhất (H’ = 0,88) do 
chỉ số đồng đều giữa các loài cao nhất (J’ = 0,82), 
A. polychaetiferus và Pontscolex corethrurus 
chiếm ưu thế hơn so với các loài còn lại trong sinh 
cảnh (n% = 28,36 và 21,64). 
Sinh cảnh ĐTCNN có hệ thực vật chủ yếu là 
bắp, khoai mì và ruộng lúa, thường xuyên chịu sự 
tác động của con người. Chính vì thế, sinh cảnh 
này có số loài và chỉ số độ phong phú loài thấp hơn 
so với các sinh cảnh còn lại (10 loài và d = 1,61). 
Loài ưu thế cho sinh cảnh này là M. bahli (n% = 
32,10 ) và M. houlleti (n% = 25,83). 
Bảng 7: So sánh các chỉ số đa dạng sinh học của giun đất giữa các dạng sinh cảnh ở vùng nội địa tỉnh 
Bà Rịa – Vũng Tàu 
STT Sinh cảnh N S d J’ H’ λ 
1. Rừng tự nhiên 307 17 2,79 0,66 0,81 0,24 
2. Bãi hoang 354 15 2,39 0,63 0,74 0,23 
3. Đất trồng cây lâu năm 268 12 1,97 0,82 0,88 0,17 
4. Đất trồng cây ngắn ngày 271 10 1,61 0,80 0,80 0,20 
Cả khu vực 1200 21 2,82 0,75 0,99 0,14 
N: số cá thể; S: số loài 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 53, Phần A (2017): 96-107 
 106 
 Từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy, đặc 
điểm phân bố của giun đất theo sinh cảnh tuân thủ 
theo quy luật chung, số loài và chỉ số phong phú 
loài (d) tỉ lệ nghịch với mức độ tác động của con 
người, sinh cảnh có mức độ tác động của con 
người càng cao thì số loài và chỉ số phong phú 
càng ít, điều này phù hợp với các nghiên cứu trước 
đây (Thái Trần Bái, 1983; Nguyễn Thanh Tùng, 
2013). Trong số các loài có ở khu vực nghiên cứu, 
có 7 loài phân bố ở cả 4 loại sinh cảnh (chiếm 
33,33% tổng số loài), đa số các loài này đều là loài 
phổ biến ở ĐBSCL và Đồng Nai (Lê Văn Nhãn, 
2015; Nguyễn Thanh Tùng, 2014). Tuy nhiên, 
cũng có những loài đặc trưng riêng cho từng loại 
sinh cảnh: RTN có 4 loài (A. sp. 2, A. sp. 3, M. sp. 
ire eM. sp. 4), BH có 1 loài (M. peguana 
peguana), ĐTCNN có 1 loài (Glyphidrilus 
papillatus) tất cả các loài trên đều là loài ngẫu 
nhiên có tần số xuất hiện và độ phong phú thấp. 
Tuy một số loài có độ phong phú về số lượng cá 
thể cao hơn các loài khác trong cùng sinh cảnh 
nhưng chỉ số ưu thế tương đối thấp (λ = 0,17 – 
0,24). Giữa các sinh cảnh khác nhau lớn về hệ thực 
vật và mức độ nhân tác nên mức độ tương đồng về 
thành phần loài tương đối thấp, mức độ tương đồng 
cao nhất giữa sinh cảnh ĐTCNN và BH là 53,76%, 
giữa sinh cảnh ĐTCLN với RTN có độ tương đồng 
ít nhất 29,91%. Từ đó cho thấy, mức độ tương 
đồng về thành phần loài không tỉ lệ thuận với mức 
độ nhân tác, có thể do các yếu tố khác chi phối như 
thảm thực vật, đất đai, 
Bảng 8: Tỉ lệ tương đồng về thành phần loài giun đất giữa các sinh cảnh ở vùng nội địa Bà Rịa – Vũng 
Tàu 
 Rừng tự nhiên Bãi hoang Đất trồng cây lâu năm Đất trồng cây ngắn ngày 
Rừng tự nhiên 45,39 29,91 50,52 
Bãi hoang 33,76 53,76 
Đất trồng cây lâu năm 38,96 
Đất trồng cây ngắn 
ngày 
4 KẾT LUẬN 
 Đã ghi nhận được 26 loài giun đất xếp trong 
10 giống và 5 họ ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Trong 
đó, bổ sung thêm 17 loài giun đất ở khu vực nghiên 
cứu, lần đầu tiên ghi nhận giống Pheretima sensu 
stricto ở Việt Nam và xác định lại vị trí phân loại 
học của Metphire mangophila (Nguyen, 2011), tên 
đồng vật của Metaphire easupana (Thai & Huynh, 
1993). Ngoài ra, còn cung cấp khóa định loại đầy 
đủ cho tất cả các loài giun đất ở Bà Rịa – Vũng 
Tàu. 
 Về cấu trúc thành phần loài giun đất ở khu 
vực nghiên cứu có sự tương đồng với các khu hệ 
lân cận, họ Megascolecidae chiếm ưu thế tuyệt đối 
với 22 loài (chiếm 84,60%); Giống Metaphire (12 
loài) chiếm ưu thế so với các giống còn lại, giống 
Polypheretima không phân bố ở vùng nội địa của 
khu hệ này. 
 Độ tương đồng về thành phần loài giun đất 
giữa các địa hình tương đối cao (> 60%), trong khi 
đó độ tương đồng về thành phần loài giữa các sinh 
cảnh tương đối thấp (29,91% – 53,76%). Chỉ số ưu 
thế của các loài giun đất ở khu vực nghiên cứu thấp 
(λ < 0,24); tuy nhiên, M. bahli, A. polychaetiferus 
và M. houlleti có độ phong phú cao hơn các loài 
còn lại. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Aspe, N.M., James, S.W., 2014. New species of 
Pheretima (Oligochaeta: Megascolecidae) from 
the Mt. Malindang Range, Mindanao Island, 
Philippines. Zootaxa. 3881(5): 401–439. 
Blakemore, R.J., 2002. Cosmopolitan Earthworms – 
an Eco-Taxonomic Guide to the Peregrine 
Species of the World. VermEcology. Australia, 
506 pages. 
Easton, E.G., 1979. A revision of the 'acaecate' 
earthworms of the Pheretima group 
(Megascolecidae: Oligochaeta): Archipheretima, 
Metapheretima, Planapheretima, Pleionogaster 
and Polypheretima. Bull. Br. Mus. Nat. Hist. 
Zool. 35: 1–126. 
Gates, G.E., 1972. Burmese Earthworms – An 
introduction to the systematics and biology of 
megadrile oligochaetes with special reference to 
southeast Asia. Trans. Am. Phil. Soc. 62(7): 1-326. 
Hendrix, P.F., Callaham Jr, M. A., Drake, J.M., 
Huang, C.Y., James, S.W., Snyder, B.A., Zhang, 
W., 2008. Pandora's box contained bait: the 
global problem of introduced 
earthworms. Annual Review of Ecology, 
Evolution, and Systematics. 39: 593-613. 
Hong, Y., James, S.W., 2011. New species 
of Pheretima, Pithemera, 
and Polypheretima (Clitellata: Megascolecidae) 
from Kalbaryo, Luzon Island, Philippines. 
Raffles Bulletin of Zoology. 59(1): 19-28. 
James, S.W., 2004. New genera and species of 
pheretimoid earthworms (Clitellata: 
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Tập 53, Phần A (2017): 96-107 
 107 
Megascolecidae) from southern Luzon, Philippines. 
Systematics and Biodiversity. 2(3): 271-279. 
Lê Thông, Nguyễn Minh Tuệ, Lê Huỳnh, Nguyễn Văn 
Phú, Nguyễn Quý Thao, Nguyễn Thị Sơn, Hoàng 
Phúc Lâm, Trần Ngọc Điệp và Thành Ngọc Linh, 
2010. Việt Nam các tỉnh và thành phố. Nhà xuất 
bản Giáo Dục. Việt Nam, 801-805. 
Lê Thông, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ, Lê 
Huỳnh, Phạm Xuân Hậu, Hoàng Phúc Lâm và 
Nguyễn Thị Sơn, 2006. Địa lí các tỉnh và thành 
phố Việt Nam (Tập 5). Nhà xuất bản Giáo dục. 
Việt Nam, 167-168. 
Lê Văn Nhãn, 2015. Đa dạng loài và đặc điểm phân 
bố của giun đất ở tỉnh Đồng Nai. Luận văn thạc 
sĩ. Đại học Cần Thơ. Việt Nam. 
Nguyễn Thanh Tùng, 2011. Descriptions of two new 
species of earthworm of the genus Pheretima 
Kinberg, 1867 (Oligochaeta: Megascolecidae) 
from Mekong Delta – Vietnam. Tạp chí Sinh 
học. 33(1): 24-29. 
Nguyễn Thanh Tùng, 2014. Danh lục và một số nhận 
xét về tính chất khu hệ giun đất ở Đồng bằng 
sông Cửu Long, Việt Nam. Tạp chí Khoa học 
Trường Đại học Cần Thơ. 32: 106-119. 
Nguyễn Thị Mai, Cao Văn Luân, Nguyễn Thanh 
Hoài và Nguyễn Thị Ngọc Nhi, 2015. Thành 
phần loài giun đất ở huyện Phú Giáo tỉnh Bình 
Dương. Tạp chí khoa học Trường Đại học Thủ 
Dầu 1. 5(24): 34-38. 
Nguyễn Thị Ngọc Nhi, 2014. Thành phần loài và đặc 
điểm phân bố giun đất ở huyện Dầu Tiếng tỉnh 
Bình Dương. Tạp chí khoa học Trường Đại học 
Thủ Dầu 1. 5(18): 48-54. 
Nguyễn Văn Thuận, 1994. Nhận xét bước đầu về 
khu hệ giun đất Bình Trị Thiên. Thông báo khoa 
học Đại học Sư Phạm Hà Nội 1. 2: 80-84. 
Omodeo, P., 1957. Oligocheti dell' Indocina e del 
Mediterraneo Orientale. Memorie del Musceo 
Civico di Storia Naturale. 5: 321-336. 
Sims, R.W., Easton, E.G., 1972. A numerical 
revision of the earthworm genus Pheretima auct. 
(Megascolecidae: Oligochaeta) with the 
recognition of new genera and an appendix on 
the earthworms collected by the Royal Society 
North Borneo Expedition. Biological Journal of 
the Linnean Society. 4(3): 169-268. 
Thạch Phương và Nguyễn Trọng Minh, 2005. Địa 
chí Bà Rịa – Vũng Tàu. Nhà xuất bản Khoa học 
Xã hội. Hà Nội, 51-58. 
Thái Trần Bái, 1983. Giun đất Việt Nam (Hệ thống 
học, khu hệ, phân bố và địa lý động vật). Luận án 
Tiến sĩ khoa học. Đại học M.V. Lomonosov. Nga. 
Thái Trần Bái, 1996. Mô tả các loài Pheretima 
không có manh tràng (Acoecata) mới gặp ở Việt 
Nam và khoá định loại Acoecata ơ khu vực Đông 
Dương. Tạp chí Sinh học. 18(1): 1-6. 
Thái Trần Bái, Đỗ Văn Nhượng và Huỳnh Thị Kim 
Hối, 1993. Các loài giun đất mới thuộc giống 
Pheretima Kinberg, 1867 (Megascolecidae – 
Oligochaeta) vùng Yốkđôn tỉnh Đắk Lắk”. Tạp 
chí Sinh học. 15 (4): 12-15. 
Thái Trần Bái, Huỳnh Thị Kim Hối và Nguyễn Đức 
Anh, 2004. Một vài nhận định về giun đất trên 
các đảo phía Nam Việt Nam. Trong: Kỷ yếu hội 
nghị toàn quốc lần thứ 3: Những vấn đề cơ bản 
trong khoa học sự sống, 757-761. 
Thái Trần Bái,1986. Khoá định loại các loài giun đất 
ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu 
Long Việt Nam. Thông báo khoa học Đại học Sư 
phạm Hà Nội. 3-20. 

File đính kèm:

  • pdfda_dang_loai_va_dac_diem_phan_bo_giun_dat_o_tinh_ba_ria_vung.pdf