Công cụ tài chính tiền tệ trong Abenomics: tác động và hàm ý cho Việt Nam

Bước sang năm 2018, kinh tế Nhật Bản đã có sự kích thích lớn hơn nhờ tiếp tục được can thiệp

bằng các công cụ tài chính tiền tệ của Thủ tướng Shinzo Abe. Theo đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế

Nhật Bản năm 2018 dự kiến quanh ngưỡng 1,7%. Tuy nhiên, sau 5 năm áp dụng, Abenomics cần

tiếp tục được tổng kết, đánh giá và có sự điều chỉnh phù hợp. Bài viết phân tích và làm rõ tác động

của công cụ chính sách tài chính, tiền tệ đã được sử dụng như là đòn bẩy quan trọng trong chính

sách Abenomics ở Nhật Bản, từ đó rút ra một số hàm ý cho Việt Nam

Từ khóa: Nhật Bản, kinh tế, Abenomics, cải cách, tài chính, tiền tệ

pdf 6 trang phuongnguyen 140
Bạn đang xem tài liệu "Công cụ tài chính tiền tệ trong Abenomics: tác động và hàm ý cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Công cụ tài chính tiền tệ trong Abenomics: tác động và hàm ý cho Việt Nam

Công cụ tài chính tiền tệ trong Abenomics: tác động và hàm ý cho Việt Nam
30
Tư Tưởng Tập Cận Bình về kinh Tế và Chính sáCh kinh Tế ABe: những góC nhìn với kinh Tế việT nAm
tăng trưởng) bắt đầu triển khai từ đầu năm 
2013. Với mục tiêu mong muốn đẩy nhanh tốc 
độ phục hồi kinh tế thông qua tăng tổng cầu 
và kích thích chi tiêu, chính phủ Nhật Bản đã 
thông qua kênh thị trường tài chính bơm ra thị 
trường 20,2 nghìn tỷ Yên (210 tỷ USD, gọi là gói 
thứ nhất, tháng 1/2013), trong đó 10,3 nghìn tỷ 
Yên (116 tỷ USD) là chi tiêu trực tiếp của Chính 
phủ. Gói kích thích kinh tế này tập trung xây 
dựng các dự án quan trọng, cơ sở hạ tầng như 
cầu, đường hầm, và những con đường chống 
động đất ở Nhật Bản. Một gói kích thích 5,5 tỷ 
USD riêng biệt tiếp theo sau được mở ra trong 
tháng 4/2014 (gọi là gói thứ hai). Đến tháng 
12/2014, sau cuộc bầu cử, ông Shinzo Abe tiếp 
tục đẩy một gói chi tiêu khác, trị giá 3,5 nghìn 
tỷ Yên (gọi là gói thứ ba, tháng 1/2015). Ngày 
7/10/2015, BOJ đã quyết định duy trì chính 
sách nới lỏng tiền tệ hiện nay, với chương trình 
kích thích kinh tế trị giá 80 nghìn tỷ Yên tương 
đương 665 tỷ USD (gọi là gói thứ tư), do xu 
hướng giảm phát của nền kinh tế Nhật vẫn gia 
tăng. Cuối cùng, ngày 2/8/2016, Chính phủ Nhật 
Bản tiếp tục thông qua gói kích thích 28,1 nghìn 
tỷ Yên tương đương 240 tỷ USD (gói thứ năm). 
Như vậy, tổng giá trị các gói kích thích đưa ra 
thị trường là gần 140 nghìn tỷ Yên, song hệ quả 
tác động lên lạm phát và tăng trưởng theo đánh 
giá là vẫn chưa rõ ràng, vì còn tùy thuộc vào sự 
hấp thụ của nền kinh tế Nhật Bản.
Cùng với đó, chính sách tiền tệ không chính 
thống, đặc biệt là chương trình mua tài sản chưa 
từng có của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản 
(BOJ) cũng được thực hiện như là một trọng tâm 
của chiến lược Abenomics. Theo đánh giá của 
Mặc dù vẫn còn có nhiều cách hiểu khác nhau về giới hạn công cụ trong chính sách Abenomics của Thủ tướng Shinzo 
Abe, song công cụ Abenomics đề cập đến một tập 
hợp chính sách tiền tệ và tài chính tích cực, kết hợp 
với cải cách cơ cấu, hướng tới việc kéo Nhật Bản 
ra khỏi suy thoái giảm phát trong nhiều thập kỷ. 
Thực tiễn chuyển tiếp từ Abenomics 1.0 đến 2.0
Trong chương trình cải cách Abenomics ở 
Nhật Bản, việc sử dụng kích thích tài chính theo 
trường phái Keynes (lấy lạm phát kích thích 
CÔNG CỤ Tài CHíNH TiềN Tệ TRoNG ABeNoMiCs: 
TáC ĐỘNG Và HàM Ý CHo ViệT NAM
PGs.,Ts. PHạM QUÝ loNG - Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á *
Bước sang năm 2018, kinh tế Nhật Bản đã có sự kích thích lớn hơn nhờ tiếp tục được can thiệp 
bằng các công cụ tài chính tiền tệ của Thủ tướng Shinzo Abe. Theo đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế 
Nhật Bản năm 2018 dự kiến quanh ngưỡng 1,7%. Tuy nhiên, sau 5 năm áp dụng, Abenomics cần 
tiếp tục được tổng kết, đánh giá và có sự điều chỉnh phù hợp. Bài viết phân tích và làm rõ tác động 
của công cụ chính sách tài chính, tiền tệ đã được sử dụng như là đòn bẩy quan trọng trong chính 
sách Abenomics ở Nhật Bản, từ đó rút ra một số hàm ý cho Việt Nam 
Từ khóa: Nhật Bản, kinh tế, Abenomics, cải cách, tài chính, tiền tệ
By 2018, the Japanese economy has more 
stimulus by continuing to intervene with 
financial instruments such as Abenomics policy 
of Prime Minister Shinzo Abe. Accordingly, the 
economic growth of Japan in 2018 is expected 
to be around 1.7%, however, after 5 years of 
application, Abenomics policy continues to be 
reviewed, evaluated and adjusted accordingly. 
The paper analyzes and clarifies the impacts 
of monetary and fiscal policy instruments that 
have been used as leverage in the Abenomics 
reform in Japan, thus recommending some 
implications for Vietnam.
Keywords: Japan, Econmics, Abenomics, reform, finance, currency
Ngày nhận bài: 8/2/2018
Ngày hoàn thiện biên tập: 1/3/2018
Ngày duyệt đăng: 3/3/2018
*Email: longpq2004@gmail.com
TÀI CHÍNH - Tháng 3/2018
31
nhiều nhà phân tích tài chính Phố Wall tại thời 
điểm năm 2013: “Chương trình này như là một thí 
nghiệm khổng lồ trong chính sách tiền tệ”. Theo 
Thống đốc BOJ Haruhiko Kuroda, các ngân hàng 
Nhật Bản đã thực hiện một vòng đầu của chính 
sách nới lỏng tiền tệ trong năm 2013. Họ đã tăng 
gấp đôi khối lượng tiền mặt thanh khoản trong 
bảng cân đối nhưng so với mục tiêu 2% kỳ vọng, 
thực tế lạm phát tiếp tục trì trệ ở dưới 1%. Vì thế, 
các ngân hàng đã chuyển sang giai đoạn nới lỏng 
tiền tệ bao gồm 660 tỷ USD cho việc tiếp tục mua 
sắm tài sản hàng năm. 
Giá trị của tài sản được nắm giữ bởi tổ chức 
BOJ đã vượt quá 70% của GDP, (trong khi tài sản 
tại Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và tài sản của Ngân 
hàng Trung ương châu Âu, ở mức dưới 25% GDP). 
Với nền kinh tế của Nhật Bản còn yếu, trong tháng 
Giêng năm 2016, BOJ đã bất ngờ giới thiệu lãi suất 
“tiêu cực/âm” trong một nỗ lực mới để thúc đẩy 
cho vay và đầu tư. BOJ gia nhập ECB, Đan Mạch, 
Thụy Điển và Thụy Sĩ, được xem như là các ngân 
hàng trung ương duy nhất để thúc đẩy một số 
mức lãi suất ngưỡng dưới 0,0% “ngưỡng ép buộc 
“ hay lãi suất âm. Giống như là ảnh hưởng to lớn 
tới thị trường từ các quyết định của Ngân hàng 
Trung ương Hoa Kỳ, chính sách lãi suất tiêu cực 
của BOJ hiện nay có thể sẽ kéo dài đến bao giờ 
cũng cần làm rõ cho thị trường có thể dự đoán 
các xu hướng? 
Trong khi hai mũi tên tài khóa và tài chính 
được triển khai thì có một chương trình đã bị trì 
hoãn nhiều lần trong các đời Thủ tướng Nhật Bản 
là tạo đột phá vào tái cấu trúc nền kinh tế Nhật 
Bản. Cải cách cấu trúc hay cơ cấu kinh tế của Thủ 
tướng Shinzo Abe tập trung cắt giảm quy định kinh 
doanh, tự do hóa thị trường lao động và lĩnh vực 
nông nghiệp, cắt giảm thuế doanh nghiệp và tăng 
lực lượng lao động theo hướng đa dạng hóa nguồn 
cung nhằm mục đích làm sống lại khả năng cạnh 
tranh của Nhật Bản. 
Nhiều nhà phân tích cho rằng, sự thành công 
trong kế hoạch của Thủ tướng Shinzo Abe cuối 
cùng phải dựa vào mũi tên thứ ba này, đó là cải 
cách cơ cấu toàn diện. Vì thế, ngay trong tháng 
6/2014, ông Shinzo Abe đã công bố một gói cải cách 
rộng lớn, bao gồm cắt giảm thuế doanh nghiệp, tự 
do hóa nông nghiệp và các sáng kiến cải tổ quy 
định của các lĩnh vực năng lượng, môi trường và 
chăm sóc sức khỏe. Đề xuất của ông bao gồm một 
sự thay đổi trong chiến lược đầu tư của các quỹ 
hưu trí của chính phủ và các ưu đãi thuế để tăng 
cơ hội nghề nghiệp cho phụ nữ. 
Hơn nữa, thực tiễn xã hội Nhật Bản đã báo 
trước một tương lai đáng lo ngại về sự thiếu hụt 
nghiêm trọng nguồn lực cho phát triển. Dân số 
Nhật Bản trong độ tuổi lao động đã tiếp tục giảm 
thêm 6% trong 10 năm qua và dự báo Nhật Bản 
có thể sẽ mất hơn 1/3 dân số của mình trong 50 
năm tiếp theo. Vì thế, tháng 9/2015, Thủ tướng 
Shinzo Abe đã tuyên bố một chính sách với phiên 
bản “Abenomics 2.0” nhằm tạo nền tảng làm thế 
nào nâng cao tỷ lệ sinh và mở rộng quỹ an sinh 
xã hội. Cùng với đó, ông Shinzo Abe đã chỉ định 
ông Katsunobu Kato, một chuyên gia xã hội học 
vào một vị trí quan trọng trong nội các mới, với 
hy vọng chính phủ Nhật Bản sẽ dành toàn bộ sức 
lực và trí tuệ để tìm ra giải pháp đảo ngược sự suy 
giảm dân số của Nhật Bản. 
Bên cạnh vấn đề nhân khẩu học, Chính phủ 
liên minh của Thủ tướng Abe từ năm 2012 cũng 
đã nhiều lần tổ chức thảo luận vấn đề tái cấu 
trúc kinh tế khu vực nông nghiệp Nhật Bản ở 
ngay trong các diễn đàn của quốc hội suốt hơn 3 
năm qua, tuy nhiên tiến độ được ghi nhận là khá 
chậm. Các hợp tác xã Nhật Bản vốn dĩ từ rất lâu 
đã sử dụng sức mạnh chính trị của mình để phản 
đối sự hiện đại hóa ngành Nông nghiệp đang bị 
thu hẹp của Nhật Bản. Ngành Nông nghiệp của 
Nhật Bản luôn vận động, chống lại thỏa thuận 
mở rộng cửa cho các Hiệp định thương mại tự 
do, để phản đối việc loại bỏ thuế quan cao và các 
biện pháp bảo vệ khác. Rõ ràng, các dự định tiến 
độ này tiếp tục được bàn thảo ở trong các phiên 
họp của Nội các Nhật Bản trong thời gian tới và 
những vấn đề cần làm sáng tỏ cho thị trường, khi 
mà Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương 
(TPP 12) đã thất bại và thay vào đó là Hiệp định 
Đối tác Toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình 
Dương (CPTPP 11, không có Mỹ).
sự hoài nghi về cải cách Abenomics?
Bản thân người Nhật Bản cũng phải thừa nhận 
rằng, không còn có nhiều sự lựa chọn nào khác 
hay khả năng nghĩ ra các công cụ quản trị (quản 
lý) hữu hiệu về mặt kỹ thuật để áp dụng trong 
Abenomics. Trong suốt gần 3 thập kỷ, Nhật Bản 
đã phải chịu đựng tình trạng giảm phát kinh niên, 
kể từ khi bùng nổ của “bong bóng” bất động sản 
vào cuối những năm 1980. Nhiều năm tiếp theo, 
Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện mức lãi suất gần 
như bằng 0% và phải đến năm 2016, BOJ mới chính 
thức áp dụng chính sách lãi suất dưới 0% để tuyên 
chiến với giảm phát (lãi suất âm, 2016). Chính phủ 
Nhật Bản cũng đã chi hàng nghìn tỷ USD để thúc 
32
Tư Tưởng Tập Cận Bình về kinh Tế và Chính sáCh kinh Tế ABe: những góC nhìn với kinh Tế việT nAm
đẩy nền kinh tế, trong chiều ngược lại, quá trình 
tích lũy các khoản nợ công đã biến Nhật Bản trở 
thành nước có món nợ công lớn nhất trong số các 
nước phát triển.
Chính quyền Thủ tướng Shinzo Abe vào thời 
điểm 2013 vẫn đặt hy vọng phép màu chính sách 
tiền tệ phi thường của Abenomics có thể thay đổi 
và tạo ra sự năng động mới, bắt đầu với việc làm 
giảm tỷ giá hối đoái và đẩy mạnh xuất khẩu. Theo 
đó, đồng Yên đã giảm 50% so với đồng USD kể từ 
cuối năm 2012. Tuy nhiên, tăng trưởng xuất khẩu đã 
ấm trở lại và chỉ số chứng khoán Nikkei đã được ổn 
định, song các kết quả này cũng chỉ dừng lại trong 
ngắn hạn và thiếu bền vững.
Cũng cần lưu ý rằng, đồng Yên yếu là con 
dao hai lưỡi, nó có thể làm tăng giá hàng nhập 
khẩu, có thể làm giảm nhu cầu tiêu dùng và dẫn 
đến giảm chi tiêu. Đồng thời, do nguyên nhân 
khách quan, giá dầu toàn cầu giảm mạnh, trong 
đó đã giảm từ hơn 100 USD/một thùng vào năm 
2014 xuống còn khoảng 30 USD - 50 USSD/một 
thùng trong suốt nửa đầu năm 2016. Điều này 
đã làm tăng giảm phát của Nhật Bản (cho dù đầu 
tháng 1/2018 giá dầu đã tăng lên trong khoảng 
trên dưới 60USD). Tiếp tục giữ quan điểm lạc 
quan trong trung hạn nhưng Nhật Bản vẫn có 
nguy cơ rơi vào một cuộc suy thoái sau hai quý 
tăng trưởng GDP âm vào năm 2014 và tiếp theo 2 
quý tăng trưởng dương của năm 2015. Đến năm 
2016 GDP của Nhật Bản mới tăng trưởng dương 
trở lại và kết thúc năm 2017, GDP đã đạt 1,8%. 
Trích dẫn từ phân tích trên chuyên mục Financial 
Times, số năm 2015, tác giả Martin Wolf đã chỉ ra 
rằng, lực lượng lao động của Nhật Bản hoạt động 
tốt, có năng suất ngày càng tăng và chỉ khoảng 
3,1% tỷ lệ thất nghiệp, nhưng đất nước sẽ rất áp 
lực trong việc duy trì tăng trưởng khi mà dân 
số ngày càng bị thu hẹp nhanh chóng. Vì vậy, 
các nhà quan sát cho rằng, những thay đổi về 
cơ cấu sâu hơn là cần thiết. Những lý do hợp lý 
được viện dẫn rằng, kể từ năm 1997 đến nay do 
thực tế mức tiền lương đã giảm 9%, nếu muốn có 
nhu cầu tiêu dùng cao hơn dựa trên tiền lương 
tăng thêm thì cần phải có một sự nhận thức mới, 
hướng tới cuộc cách mạng căn bản về tiền lương, 
hoặc một sự thay đổi căn bản về nhân khẩu học, 
nếu không nền kinh tế Nhật Bản sẽ tiếp tục rơi 
vào vòng luẩn quẩn đó. 
Trái ngược với đa số người lạc quan và ủng hộ 
chính sách cải cách của Thủ tướng Shinzo Abe, một 
số nhà phê bình khác lại cho rằng Abenomics mang 
lại rủi ro khá lớn cho Nhật Bản.
Một số người theo trường phái bảo thủ cũng 
cho rằng, chính sách nới lỏng tiền tệ có thể thúc 
đẩy lạm phát phi mã, trong khi những người 
mang tâm trạng hoài nghi khác lại cho rằng, kế 
hoạch của ông Abe khó có thể đảo ngược tình 
trạng giảm phát đậm và sâu như hiện nay. Ngoài 
ra, còn có những mối lo lắng về nợ quốc gia của 
Nhật Bản, trong đó, hiện tại Chính phủ Nhật 
Bản nợ hơn 11 nghìn tỷ USD đã vượt qua 245% 
GDP. IMF đã nhiều lần cảnh báo rằng, các mức 
nợ không bền vững, bất chấp cấu trúc nợ công 
của Nhật Bản có tính đặc thù cao. Đó là lý do tại 
sao Thủ tướng Abe đã cố gắng để giảm thâm hụt 
bằng cách tăng thuế. Sự gia tăng trong năm 2014 
về thuế tiêu thụ quốc gia từ 5% lên 8% làm tăng 
thêm tác nhân chán nản chi cho tiêu dùng và có 
khả năng gây ra một cuộc suy thoái mới. Kết quả 
là các kế hoạch đã đẩy nền kinh tế bị chững lại và 
việc quyết định tăng thuế lên đến 10% đã được 
hoãn lại cho đến sau năm 2018, quyết định này 
được cho là làm suy yếu các mục tiêu phát triển 
bền vững tài khóa. 
Đồng thời, lãi suất tiêu cực (lãi suất âm) - công cụ 
tiền tệ chưa được kiểm định, đã làm cho nhiều nhà 
kinh tế tạm dừng việc đưa ra các đánh giá lạc quan. 
Bản thân BOJ cũng bị phân ly thành các nhóm ý 
kiến trái chiều, nhiều ý kiến lo ngại rằng chính sách 
này có thể làm hỏng hệ thống ngân hàng. Lãi suất 
tiêu cực có thể không thực sự khuyến khích chi tiêu 
nhưng và có thể làm tăng thêm áp lực giảm phát. 
Cũng có quan điểm khác cho rằng, những nỗ lực 
tài chính và tiền tệ có thể cung cấp cho Chính phủ 
như một cái cớ để trì hoãn cải cách cơ cấu. IMF đã 
từng cảnh báo: Nếu không có thêm những cải cách, 
Nhật Bản có nguy cơ rơi vào tăng trưởng thấp hơn 
và giảm phát, suy giảm tài chính và phụ thuộc quá 
nhiều vào kích thích tiền tệ với những hậu quả tiêu 
cực đối với khu vực (Báo cáo IMF,2014).
hình 1: Biến động TROng Chính sáCh Tiền Tệ CủA nhậT Bản
Lưu ý: Tiền cơ sở tính bằng nghìn tỷ Yên Nhật và Lợi tức trái phiếu 10 năm tính bằng %
Nguồn: Bank of Japan (BoJ) and Thomson Reuters
TÀI CHÍNH - Tháng 3/2018
33
Rõ ràng, dưới góc độ hội nhập kinh tế quốc tế và 
viễn cảnh kinh tế thế giới hiện nay thì Abenomics 
được nước Nhật đặt kỳ vọng khá lớn. Tuy nhiên, 
các nước xuất khẩu như Đức và Trung Quốc lại lên 
tiếng cảnh báo về một cuộc chiến tranh tiền tệ toàn 
cầu, hoặc mất giá cạnh tranh. Như vậy, để đánh 
giá tính khả thi cũng như triển vọng của cải cách 
Abenomics của Nhật Bản cần có sự tổng quát và 
đánh giá lại chính sách này. Việc làm này không chỉ 
riêng cho Nhật bản, mà còn có ý nghĩa đối với các 
nền kinh tế khác, bao gồm cả khu vực châu Âu, hiện 
nay cũng đang phải vật lộn với tình trạng giảm phát 
và tăng trưởng thấp.
những hàm ý cho việt nam
Cần khẳng định rằng, cải cách Abenomics ở 
Nhật Bản vẫn đang tiếp tục được triển khai thực 
hiện. Các đánh giá kết quả và phân tích triển vọng 
của cải cách này mới chỉ mang tính tạm thời trong 
ngắn hạn, chưa phải là các đánh giá tổng kết, đúc 
rút các kinh nghiệm của một chương trình cải cách 
to lớn. Vì thế, ngoài việc làm rõ hơn bối cảnh ra 
đời, thực tế triển khai, bài viết bước đầu đánh giá 
một số tác động của cải cách Abenomics hướng 
tới mục tiêu phục hưng kinh tế Nhật Bản, kể từ 
khi Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe loan báo kế 
hoạch vào tháng 12/2012. Việc tổng kết thực tiễn 
kinh nghiệm cũng như đóng góp quan điểm học 
thuật của chúng tôi mới tạm thời dừng ở những 
tư vấn, nhận xét ban đầu, hy vọng sẽ hữu ích đối 
với quá trình xây dựng thêm các luận cứ khoa 
học trong gợi ý các chính sách phát triển cho Việt 
Nam, đặc biệt trên khía cạnh khai thác tốt nguồn 
vốn ODA từ chính phủ Nhật Bản. Với mục đích, 
ý nghĩa và tính chất giới hạn, bài viết đề xuất 2 
nhóm ý kiến sau: 
Nhóm 1: Đối với Việt Nam, khi xây dựng chính 
sách cần lưu ý các đánh giá tác động lan tỏa từ sự 
tương tác giữa cải cách Abenomics ở Nhật Bản đối 
với môi trường phát triển kinh tế ở châu Á.
Ai cũng có thể hiểu và nhận thức rằng, nền kinh 
tế Nhật Bản đã phát triển, vừa gần gũi, vừa có mối 
liên quan tất yếu với châu Á. Không chỉ vì Nhật 
Bản ở trong khu vực châu Á, mà còn vì châu Á là 
trung tâm phát triển của thế giới trong thế kỷ XXI, 
do vậy quan hệ giữa Nhật Bản và châu Á được kỳ 
vọng sẽ mạnh mẽ hơn, nếu Abenomics thành công. 
Vì thế, việc thảo luận về triển vọng mối quan hệ tác 
động qua lại giữa châu Á và Nhật Bản trong bối 
cảnh tương tác của Abenomics sẽ là hữu ích để đề 
xuất những kinh nghiệm quý báu hoặc cảnh báo cho 
tất cả các nền kinh tế châu Á liên quan, trong đó bao 
gồm cả Việt Nam. Với ý nghĩa đó, một số khía cạnh 
quan trọng cần được đề cập tới như sau:
Thứ nhất, ở khía cạnh tương tác quan hệ thương 
mại với châu Á: Trong trao đổi hàng hóa và dịch 
vụ thương mại với châu Á, tâm lý thường kỳ vọng 
Nhật Bản sẽ trở thành thị trường lớn, tiêu thụ các 
sản phẩm của châu Á. Tuy nhiên, việc nới lỏng tiền 
tệ trong một đất nước có chế độ tỷ giá hối đoái linh 
hoạt sẽ dẫn đến mất giá của tỷ giá hối đoái. Điều 
này có nghĩa là các nước châu Á, trong ngắn hạn, sẽ 
phải chịu đựng những tác động tiêu cực đến từ các 
chính sách tiền tệ (nới lỏng tiền tệ theo định tính và 
nới lỏng định lượng) trong đó bao gồm một trong 
ba mũi tên của Abenomics. 
Thực tế, sự giảm giá đồng Yên đã diễn ra kể từ 
khi bắt đầu Abenomics ra đời (tháng 12/2012). Trong 
trao đổi hiệu quả, đồng Yên đã mất giá hơn 20% vào 
đầu năm 2015, tình hình này đã giúp doanh nghiệp 
Nhật Bản tăng lợi nhuận ở mức kỷ lục và lấy thị 
phần từ đối thủ cạnh tranh. 
Thứ hai, về xu hướng luồng vốn đầu tư trực 
tiếp nước ngoài (FDI) tại châu Á: Thời gian qua, 
xu hướng tăng FDI từ Nhật Bản sang châu Á vẫn 
tiếp tục gia tăng, thậm chí trong cả điều kiện đồng 
Yên sụt giá. Điều này gợi ý rằng, các doanh nghiệp 
đang xem xét nguồn FDI chuyển sang châu Á 
trong điều kiện dài hạn. Có thể do điều kiện dân số 
đang suy giảm tại Nhật Bản, sự đầu tư không chỉ vì 
giá sản xuất thấp mà còn vì mục tiêu mở rộng thị 
trường nội địa tại châu Á. Theo “báo cáo khảo sát 
hoạt động kinh doanh nước ngoài của các công ty 
sản xuất Nhật Bản, năm tài chính 2014”, được thực 
hiện bởi Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản, Ấn 
Độ, Indonesia và Trung Quốc tiếp tục là 3 đối tác 
đầu tư FDI lớn của Nhật Bản, mặc dù Abenomics 
đang được thúc đẩy ở trong nước với các luồng 
vốn tín dụng dồi dào. 
Thứ ba, về dòng vốn đầu tư gián tiếp đến châu Á: 
Danh mục đầu tư từ Nhật Bản đến thị trường vốn 
hình 2: mỨC ThAy đỔi niềm Tin Thị TRường (điểm)
Nguồn: Cabinet Office (CO)
34
Tư Tưởng Tập Cận Bình về kinh Tế và Chính sáCh kinh Tế ABe: những góC nhìn với kinh Tế việT nAm
ở châu Á tiếp tục có dấu hiệu tăng trưởng mạnh. 
Trong việc theo đuổi năng suất và hiệu quả đầu tư 
cao hơn, các nhà đầu tư Nhật Bản như Quỹ Đầu 
tư Chính phủ và các nhà đầu tư tư nhân như các 
công ty bảo hiểm nhân thọ dự định sẽ chuyển phần 
lớn danh mục đầu tư của họ đến châu Á. Các khu 
vực có triển vọng để đầu tư tập trung vào các lĩnh 
vực phi sản xuất và tài chính khác cũng như các 
dự án cơ sở hạ tầng. Dòng vốn vào thị trường này 
được đánh giá là rất có tiềm năng bởi các chính sách 
tài khóa và tài chính nới lỏng đang được thực thi 
ở Nhật Bản. Tuy nhiên, mọi dự báo cũng cần có sự 
tính toán độ rủi ro của thời hạn chính sách thay đổi. 
Việc cẩn trọng và quan sát kỹ động thái phản ứng 
của thị trường vốn là điều cần thiết cho các nước 
thu hút đầu tư.
Thứ tư, về dòng vốn đầu tư từ châu Á vào Nhật 
Bản sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư châu Á, nếu nền kinh 
tế Nhật Bản hồi sinh thành công. Để hỗ trợ như một 
loại đầu tư, Chính phủ Abe đang thực hiện các biện 
pháp chiến lược phát triển để tạo điều kiện cho 
doanh nghiệp FDI phát triển, thu hút các chuyên gia 
có trình độ và giảm tỷ lệ thuế doanh nghiệp. 
Trong dài hạn, sự gia tăng nguồn vốn đầu tư 
nước ngoài từ châu Á đến Nhật Bản là khuynh 
hướng gần như không thể tránh khỏi. Bởi vì mức 
độ tích lũy và tỷ lệ tiết kiệm hộ gia đình của Nhật 
Bản đang có dấu hiệu suy giảm nhanh chóng, một 
phần do sụt giảm thu nhập thực tế, tiếp đến là 
sự gia tăng lão hóa của dân số Nhật Bản. Hiện 
tượng này đã trở nên tiêu cực trong năm 2013, tỷ 
lệ tiết kiệm hộ gia đình suy giảm, khiến cho Chính 
phủ Nhật Bản khó khăn trong việc huy động vốn 
nhàn rỗi trong dân. Các tài khoản tài chính đã 
chảy ra ngoài hệ thống tài chính Nhật Bản, khi mà 
BOJ loan báo áp dụng chính sách lãi suất âm (lãi 
suất tiêu cực). Nhiều dự báo cho thấy, cán cân tài 
khoản vãng lai của Nhật Bản ở khu vực tư nhân 
sẽ thâm hụt vào năm 2020, có nghĩa là nền kinh tế 
Nhật Bản sẽ phải phụ thuộc nhiều vào tiết kiệm 
nước ngoài. Đây sẽ là cơ hội lớn cho các nhà đầu 
tư châu Á. 
Nhóm 2: Việt Nam cũng cần lưu ý đặc điểm thực 
tế trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn ở Nhật 
Bản hiện nay trong xử lý vấn đề vốn vay ODA của 
Nhật Bản.
Chính phủ Nhật Bản luôn phải đối mặt với nguy 
cơ rủi ro nợ công. Tuy nhiên, với Abenomics, ông 
Abe đã theo đuổi công cụ chính sách tài khóa và 
chính sách tiền tệ theo trường phái Keyens – dùng 
lạm phát có chủ đích để kích thích tăng trưởng 
thông qua tăng tổng cầu. 
Thực tế cho thấy, Nhật Bản đang thực hiện chính 
sách nới lỏng tài khóa và tài chính hướng tới mục tiêu 
lạm phát 2% về giá cả và lãi suất đồng yên ở mức tiêu 
cực từ năm 2016 (lãi suất âm). Câu hỏi đặt ra là với 
hiện trạng Chính phủ Nhật Bản dư thừa nguồn cung 
tiền và thực hiện áp dụng chính sách lãi suất tiêu cực 
sẽ có tác động Việt Nam như thế nào khi tiếp nhận 
vốn ODA của Chính phủ Nhật Bản? Cụ thể là Việt 
Nam có thể khai thác được những gì trong việc chấp 
nhận các điều kiện vay (tín dụng) theo hướng có lợi 
cho Việt Nam? 
Đây là mấu chốt cần lưu ý trong quyết định các 
điều kiện tín dụng đối với khoản vay tương đương 
1 tỷ USD từ nguồn vốn ODA của Nhật Bản giải 
ngân trong năm tài chính 2017 (Nhật Bản đã đồng 
ý về mặt nguyên tắc là cam kết hỗ trợ ODA cho 
Việt Nam 1 tỷ USD). Vốn vay ODA của Nhật Bản 
cho Việt Nam được tính toán trên cơ sở đồng Yên, 
vì vậy, Việt Nam cần lưu ý tới yếu tố thời gian 
trong giải ngân nguồn vốn này, bởi các biến động 
bất lợi của thị trường ngoại tệ quốc tế liên quan tới 
tỷ giá giữa đồng Yên với USD theo hướng hạ thấp 
đồng Yên có chủ định. Nếu Abenomics thành công 
và các cuộc chiến tiền tệ như được cảnh báo chưa 
sớm nổ ra trên thị trường tiền tệ thế giới, chúng ta 
có thể tiên liệu rằng, tỷ giá Yên và USD sẽ có sự 
biến động rõ rệt theo hướng có lợi cho Nhật Bản. 
Thứ đến là liên quan tới điều kiện lãi suất tiền vay. 
Trong thời điểm hiện tại, Việt Nam cần xem lại vị 
thế trong quá trình thương thảo với đại diện Chính 
phủ Nhật Bản theo hướng hạ thấp lãi suất ở mức 
phù hợp, tùy thuộc theo tính toán trên cơ sở ảnh 
hưởng của chính sách lãi suất âm từ BOJ, hoặc theo 
hướng thời hạn ân hạn kéo dài 
Tài liệu tham khảo:
1. Phạm Quý Long (2017) (chủ biên), Cải cách Abenomics ở Nhật Bản, NXB 
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2017;
2. Phạm Quý Long (2017), Quản lý rủi ro nợ công ở Nhật Bản, NXB Khoa học 
xã hội, Hà Nội, 2015;
3. A. Frangos, “Japan’s Problem: Demographics or Money?”, The Wall Street 
Journal, 6 Dec 2015;
4. E. Warnock and P. Landers, “How Japan’s ‘Abenomics’ Reached an Impasse”, 
The Wall Street Journal, 10 Feb 2016;
5. J. Frankel, “Slow-growth economics: some lessons from Japan”, The 
Guardian, 13 Sep 2013;
6. J. Soble, “Severe Contraction and Falling Prices in Japan Signal Tough Test 
for Abenomics”, The New York Times, 14 Feb 2016;
7. Hanns Günther Hilpert, “Japan After Two Years of Abenomics”, SWP 
Comments, April 2015.
38
Tư Tưởng Tập Cận Bình về kinh Tế và Chính sáCh kinh Tế ABe: những góC nhìn với kinh Tế việT nAm
kiệm trên thế giới). Theo nghiên cứu của Ngân 
hàng Deutsche Bank năm 2011, đất nước này có tỷ 
lệ nợ nước ngoài/nợ công thấp nhất. Do đó, Nhật 
Bản vẫn chưa rơi vào tình trạng khủng hoảng. Tuy 
nhiên, Chính phủ Nhật Bản vẫn phải rất nỗ lực 
trong việc giảm bớt số nợ công. 
Đối với Việt Nam, do chưa có sức mạnh kinh tế 
như Nhật Bản nên để có thể giảm bớt nợ công Việt 
Nam cần quyết liệt thực thi quá trình hoàn thiện 
khuôn khổ pháp luật về quản lý nợ công, đồng 
thời cần có các biện pháp hạn chế sự gia tăng nợ 
công thông qua việc tăng cường kỷ luật tài khóa, 
giảm dần mức bội chi NSNN theo một lộ trình 
phù hợp và cam kết đủ mạnh; hình thành các cơ 
chế để đảm bảo việc quản lý và sử dụng nguồn 
vốn vay được thực hiện theo một chiến lược thận 
trọng. Ngoài ra, từ bài học kinh nghiệm của Nhật 
Bản, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính 
sách của Việt Nam cần tính toán, nghiên cứu thực 
thi một chính sách lãi suất thấp, kiểm soát lạm 
phát và quản lý nợ nước ngoài/nợ công bằng cách 
thắt chặt trái phiếu chính phủ.
Thứ ba, cần sự dũng cảm và quyết liệt trong 
triển khai các chính sách cải cách tăng trưởng sâu 
rộng nhằm tái cấu trúc nền kinh tế. Chính quyền 
Abe đã khởi động một loạt biện pháp cải cách, tuy 
nhiên tới nay vẫn chưa xuất hiện các bước đột phá 
ngoạn mục có thể đem lại sự thúc đẩy cho tăng 
trưởng kinh tế hay nâng cao một cách ổn định tiềm 
năng phát triểnThủ tướng Nhật Bản mới đây đã 
đưa ra cam kết sẽ tiếp tục tăng cường theo đuổi 
chiến lược tăng trưởng thông qua việc thúc đẩy 
chương trình cải cách, cam kết sẽ có thêm nhiều 
phụ nữ gia nhập lực lượng lao động, bãi bỏ quy 
định không hợp lý trong ngành công nghiệp, tự do 
hóa khu vực nông nghiệp và chuẩn bị để thích ứng 
với Hiệp định CPTPP
Những nghiên cứu cho thấy, chính sách tái cơ 
cấu toàn diện là yếu tố mang tính quyết định đối 
với sự hồi sinh nền kinh tế Nhật Bản. Trong khi 
chính sách tiền tệ và tài khóa trong trường hợp 
tốt nhất có thể bù đắp nhu cầu yếu của toàn bộ 
nền kinh tế, tăng trưởng ở mức cao hơn chỉ có thể 
đạt được thông qua các biện pháp về phía cung. 
Một sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ bền vững 
với những tiến bộ lớn về năng suất vì vậy cần tới 
các cải cách cấu trúc tương ứng. Thủ tướng Abe 
đã hứa hẹn hiện thực hóa những đề xuất dành 
cho lĩnh vực lập pháp và quản lý trong nhiệm 
kỳ thứ ba của mình, những đề xuất đã được Hội 
đồng về khả năng cạnh tranh công nghiệp soạn 
thảo. Chính phủ Nhật Bản đã lên kế hoạch cải 
thiện từng bước cơ hội việc làm của phụ nữ, mở 
cửa việc nhập khẩu sản phẩm nông nghiệp trong 
khuôn khổ các thỏa thuận thương mại-chính trị 
với Mỹ và EU, tạo điều kiện dễ dàng cho lao động 
nước ngoài có tay nghề tại Nhật Bản tìm việc làm 
và tự do hóa thị trường điện. Ngoài ra, còn có các 
biện pháp được lựa chọn trong các khu vực nông 
nghiệp và y tế, cũng như các biện pháp nhằm 
khuyến khích đổi mới, du lịch cũng như các công 
ty vừa và nhỏ. Tuy các bước đi cải cách đã đi 
đúng hướng, nhưng những bước đi cần thiết cho 
tăng trưởng năng suất cao hơn lại tụt lại đằng 
sau. Để có được sự đổi mới về kinh tế, Nhật Bản 
cần một luật lao động đồng nhất mà giải quyết 
hai mặt cố định và không cố định của thị trường 
việc làm, một bộ luật DN thân thiện hơn với các 
cổ đông mà cho phép thành lập mới và tái cấu 
trúc nhiều hơn, cũng như sự phá vỡ các cấu trúc 
người trong nội bộ tại một số ngành kinh tế của 
đất nước. Khu vực nông nghiệp và y tế không chỉ 
cần tới các cải cách chọn lọc mà cả các cải cách cơ 
bản. Đồng thời để đối phó với những thách thức 
về nhân khẩu học của một xã hội đang già đi, 
việc hỗ trợ phụ nữ và gia đình theo hình mẫu của 
châu Âu cũng phải được mở rộng đáng kể. Bên 
cạnh đó là tự do hóa luật nhập cư và chủ động 
tuyển dụng lao động có tay nghề. Để thực thiện 
được tất cả các biện pháp trên, Chính phủ Abe 
phải phá vỡ những cấm kỵ của xã hội và vượt 
qua những kháng cự của bộ máy quan liêu và các 
nhóm lợi ích kinh tế và chính trị. 
Tài liệu tham khảo: 
1. Thành tựu và thách thức sau 5 năm cầm quyền của Thủ tướng Nhật Bản, 
Thông tấn xã Việt Nam, Tin tham khảo thế giới ngày 30/9/2017, tr.10;
2. Tác động tích cực của Abenomics đến kinh tế Việt Nam, TS. Nguyễn Ngọc 
Mạnh, kinhtetrunguong.vn;
3. Chiến lược kinh tế của Nhật Bản: Những mũi tên chưa tới đích, TS. Trần Thị 
Vân Anh, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội;
4. Shizimu Junko & S. Kiyotaka, 2015, Abenomics, Yen Depreciation, Trade 
Deficit and Export Competitiveness, Rieti Disscusion Paper Series 15-E-020;
5. “The third arrow”, Tom Orlik, Pekka Aalto & Jennifer Bernstein, Bloomberg 
Brief, Abenomics Vs. The Deflation Monster, tháng 7/2014; 
6. Theo Báo cáo “Abenomics Handbook,” Nomura economists, Tomo Kinoshita; 
7. “Abenomics Vs. The Deflation Monster”, Bloomberg Briefs, tháng 7/2014.
nhật Bản là nước viện trợ vốn ODA lớn 
nhất vào việt nam. về đầu tư trực tiếp 
nước ngoài, năm 2017, nhật Bản dẫn đầu 
các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư FDi 
vào việt nam

File đính kèm:

  • pdfcong_cu_tai_chinh_tien_te_trong_abenomics_tac_dong_va_ham_y.pdf