Cơ hội và thách thức đối với việc ứng dụng fintech của các tổ chức tài chính vi mô hướng tới phát triển tài chính toàn diện hiệu quả và bền vững tại Việt Nam

Ở Việt Nam, 2/3 dân số cư trú tại khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Khu vực này là một

phân khúc thị trường rất tiềm năng đối với hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô (TCTCVM ) khi nhu

cầu sử dụng đối với các dịch vụ tài chính ngày càng tăng. Tuy nhiên, đến nay việc tiếp cận dịch vụ tài

chính của người dân ở khu vực này còn hạn chế khi mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch của các ngân

hàng, TCTCVM vẫn còn rất ít và xa nơi sinh sống của họ. Ngược lại, các ngân hàng và các TCTCVM nói

riêng cũng gặp thách thức lớn trong việc mở rộng phạm vi và địa bàn hoạt động khi phải cân bằng giữa

hiệu quả với chi phí đầu tư vào khu vực này.

Trong vài năm trở lại đây, cùng với sự phát triển của làn sóng Fintech và tỷ lệ tiếp cận điện thoại di

động, Internet của người dân khu vực nông thôn, miền núi Việt Nam ngày càng tăng cao, vấn đề trở ngại

do khoảng cách địa lý trong tiếp cận dịch vụ tài chính của nhóm dân cư này không còn quá khó khăn.

Bài viết tập trung phân tích những cơ hội lớn và cả những thách thức cho việc ứng dụng Fintech ở các

TCTCVM nhằm phát triển tài chính toàn diện ở Việt Nam.

pdf 5 trang phuongnguyen 420
Bạn đang xem tài liệu "Cơ hội và thách thức đối với việc ứng dụng fintech của các tổ chức tài chính vi mô hướng tới phát triển tài chính toàn diện hiệu quả và bền vững tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ hội và thách thức đối với việc ứng dụng fintech của các tổ chức tài chính vi mô hướng tới phát triển tài chính toàn diện hiệu quả và bền vững tại Việt Nam

Cơ hội và thách thức đối với việc ứng dụng fintech của các tổ chức tài chính vi mô hướng tới phát triển tài chính toàn diện hiệu quả và bền vững tại Việt Nam
62 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
1. Những cơ hội ứng dụng Fintech ở các tổ 
chức tài chính vi mô nhằm phát triển tài chính 
toàn diện ở Việt Nam
Một là, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, công 
nghệ viễn thông của Việt Nam được đầu tư hoàn 
thiện, tỷ lệ tiếp cận điện thoại di động và Internet 
của người dân khu vực nông thôn, miền núi, vùng 
sâu, vùng xa ngày càng cao. 
Với những bước tiến khá nhanh về phát triển 
trong thời gian qua, đến thời điểm hiện tại lĩnh vực 
công nghệ thông tin (CNTT) của Việt Nam có sự 
phát triển vượt trội và thiết lập được một cơ sở hạ 
tầng cơ bản cho sự phát triển của các lĩnh vực khác 
trong nền kinh tế. Theo Báo cáo Công nghệ Thông 
tin Toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), 
thứ hạng Chỉ số sẵn sàng kết nối (NRI) của Việt 
Nam năm 2016 đạt 79/139 nước, tăng 6 bậc so với 
năm 2015; chỉ số về đánh giá khả năng tiếp cận các 
dịch vụ CNTT đứng thứ 3/139 nước; giá cước dịch 
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆC ỨNG DỤNG FINTECH 
CỦA CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VI MÔ HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN 
TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN HIỆU QUẢ VÀ BỀN VỮNG TẠI VIỆT NAM 
Ở Việt Nam, 2/3 dân số cư trú tại khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Khu vực này là một 
phân khúc thị trường rất tiềm năng đối với hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô (TCTCVM ) khi nhu 
cầu sử dụng đối với các dịch vụ tài chính ngày càng tăng. Tuy nhiên, đến nay việc tiếp cận dịch vụ tài 
chính của người dân ở khu vực này còn hạn chế khi mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch của các ngân 
hàng, TCTCVM vẫn còn rất ít và xa nơi sinh sống của họ. Ngược lại, các ngân hàng và các TCTCVM nói 
riêng cũng gặp thách thức lớn trong việc mở rộng phạm vi và địa bàn hoạt động khi phải cân bằng giữa 
hiệu quả với chi phí đầu tư vào khu vực này. 
Trong vài năm trở lại đây, cùng với sự phát triển của làn sóng Fintech và tỷ lệ tiếp cận điện thoại di 
động, Internet của người dân khu vực nông thôn, miền núi Việt Nam ngày càng tăng cao, vấn đề trở ngại 
do khoảng cách địa lý trong tiếp cận dịch vụ tài chính của nhóm dân cư này không còn quá khó khăn. 
Bài viết tập trung phân tích những cơ hội lớn và cả những thách thức cho việc ứng dụng Fintech ở các 
TCTCVM nhằm phát triển tài chính toàn diện ở Việt Nam.
• Từ khóa: tổ chức tài chính vi mô; công nghệ Fintech; tài chính toàn diện.
Ngày nhận bài: 4/10/2019
Ngày chuyển phản biện: 6/10/2019
Ngày nhận phản biện: 19/10/2019
Ngày chấp nhận đăng: 23/10/2019
In Vietnam, two-thirds of the population resides 
in rural, mountainous, remote and isolated areas. 
This area is a very potential market segment for 
the operation of microfinance institutions (MFIs) 
when demand for financial services is increasing. 
However, the access to financial services of 
people in this area is limited when the network 
of branches and transaction offices of banks are 
still limited. On the contrary, banks and MFIs in 
particular also face great challenges in expanding 
their scope and area of operation when balancing 
efficiency with investment costs in this area. 
In the past few years, with the development 
of the Fintech wave and the rate of access to 
mobile phones, the Internet of people in rural 
and mountainous areas of Vietnam has been 
increasing, problems caused by The geographic 
way of accessing this group’s financial services 
is no longer too difficult. The paper focuses on 
analyzing the great opportunities and challenges 
for applying Fintech in MFIs for comprehensive 
financial development in Vietnam.
• Keywords: microfinance institutions; Fintech 
technology; Comprehensive finance.
* Học viện Tài chính
PGS. TS. Vũ Duy Vĩnh - TS. Đỗ Đình Thu* 
TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Soá 11 (196) - 2019
63Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
vụ Internet băng rộng cố định tại Việt Nam đang 
ở mức thấp nhất thế giới với vị trí xếp hạng 1/139 
nước. Thị trường dịch vụ viễn thông, Internet cạnh 
tranh với chất lượng ngày càng tăng.
Tỷ lệ tiếp cận Internet của người dân Việt Nam 
nói chung cũng ở mức cao so với mức trung bình 
thế giới. Hiện nay, Việt Nam có trên 64 triệu người 
sử dụng Internet, đạt tỷ lệ trên 67% dân số, cao hơn 
mức trung bình thế giới là 46,64%.
Theo báo cáo khảo sát thị trường năm 2015 - 
2016 của Hãng nghiên cứu thị trường Neilsen, hiện 
nông thôn, miền núi Việt Nam có tới gần 24 triệu 
người đang sử dụng internet (tương đương hơn 39% 
dân số khu vực nông thôn, miền núi) và 22,5 triệu 
người sử dụng Facebook (chiếm khoảng gần 37% 
dân số khu vực nông thôn, miền núi). Bên cạnh đó, 
báo cáo của Neilsen cũng cho thấy 90% người tiêu 
dùng nông thôn, miền núi sở hữu một chiếc điện 
thoại di động và 50% trong số đó sở hữu điện thoại 
thông minh. 
Đối với các tổ chức tài chính nói chung và các 
TCTCVM nói riêng, sự phát triển của lĩnh vực 
CNTT và di động tại Việt Nam trong thời gian qua 
và trong thời gian tới sẽ mang lại những cơ hội rất 
lớn khi vấn đề về khoảng cách địa lý là trở ngại lớn 
nhất trong quá trình cung ứng dịch vụ của các tổ 
chức tài chính tới khách hàng sẽ có cơ hội bị xóa 
nhòa nhờ CNTT và Internet với chi phí thấp.
Công nghệ điện thoại di động và Internet sẽ tiếp 
tục hỗ trợ các ngân hàng, tổ chức tài chính mở rộng 
mạng lưới tiếp cận tới khách hàng, cho phép cung 
ứng dịch vụ đến những nơi mà mạng lưới ngân hàng 
chưa bao phủ, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, miền 
núi
Hai là, việc tiếp cận dịch vụ tài chính, ngân hàng 
truyền thống của người dân khu vực nông thôn, 
miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế càng 
kích thích ứng dụng Fintech ở các tổ chức tài chính 
vi mô.
Cơ sở hạ tầng cho việc cung ứng dịch vụ thanh 
toán ở khu vực nông thôn, miền núi hiện nay vẫn 
còn nhiều khó khăn, thách thức đối với các ngân 
hàng do phải cân nhắc về hiệu quả đầu tư tại các khu 
vực này. Mật độ chi nhánh trên một đơn vị diện tích 
thì Việt Nam còn thấp, đứng sau hầu hết các nước 
khác trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, 
số lượng tài khoản tiền gửi của người dân Việt Nam 
cũng còn ở mức thấp, đặc biệt là người dân khu vực 
nông thôn, miền núi. Theo ước tính, chỉ có khoảng 
20% - 30% số người Việt Nam trưởng thành có tài 
khoản tiền gửi tại một tổ chức tài chính chính thức, 
tỷ lệ này ở khu vực nông thôn, miền núi còn thấp 
hơn rất nhiều. 
Chính sự hạn chế từ mạng lưới cung ứng dịch vụ 
của các ngân hàng truyền thống cộng với sự bỏ ngỏ 
của các ngân hàng đối với phân khúc thị trường nông 
thôn, miền núi là cơ hội để thúc đẩy các TCTCVM 
áp dụng Fintech mà không cần nhiều sự hiện diện 
của mạng lưới chi nhánh, điểm giao dịch của các 
TCTCVM. 
Ba là, nhu cầu đối với các dịch vụ tài chính nói 
chung của người dân khu vực nông thôn, miền núi, 
vùng sâu, vùng xa ngày càng lớn.
Nền kinh tế nước ta đang có bước phát triển 
nhanh, có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng 
hiệu quả hơn. Khu vực nông thôn, miền núi tuy 
phát triển không nhanh như thành thị nhưng cũng 
có bước phát triển khá. Thu nhập và đời sống người 
dân nông thôn, miền núi ngày càng cải thiện hơn, 
tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm; bộ mặt nông thôn 
thay đổi theo hướng văn minh; trình độ văn hóa, 
khoa học, kỹ thuật của người dân ở nông thôn, miền 
núi được nâng lên cao hơn trước. Theo số liệu của 
Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2011-2016, số 
hộ phi nông nghiệp tăng gần 1,2 triệu hộ (+23,2%), 
trong đó số hộ công nghiệp - xây dựng tăng 39,6%; 
hộ dịch vụ tăng 9,9%. 
Bên cạnh sự phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ 
cấu kinh tế của khu vực nông thôn, miền núi thì sự 
dịch chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị cũng 
làm gia tăng các nhu cầu sử dụng dịch vụ chuyển 
tiền, thanh toán tại khu vực nông thôn, miền núi. 
Việc chuyển tiền được người dân thực hiện chủ yếu 
thông qua mạng lưới hạn hẹp của các tổ chức tín 
dụng (TCTD) hoặc qua các kênh dịch vụ của bưu 
điện hay qua mạng lưới chuyển tiền không chính 
thức (qua ô tô khách, cửa hàng vàng bạc). Việc 
chuyển tiền thông qua các kênh nêu trên có nhiều 
hạn chế về thời gian, chi phí và nhiều rủi ro phát 
sinh.
Nhu cầu về các dịch vụ tài chính của người dân 
ở khu vực nông thôn, miền núi là rất lớn nhưng việc 
đáp ứng nhu cầu này từ hệ thống các NHTM theo 
cách truyền thống còn rất hạn chế. Điều này càng 
mở ra cơ hội cho các TCTCVM là những tổ chức 
nắm rõ nhất nhu cầu của khu vực này, có thể áp 
dụng nhiều hơn Fintech trong các dịch vụ TCVM 
của mình cung cấp cho một khu vực rộng lớn. 
TAØI CHÍNH VÓ MOÂSoá 11 (196) - 2019
64 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
2. Những thách thức khi ứng dụng Fintech ở 
các tổ chức tài chính vi mô nhằm phát triển tài 
chính toàn diện ở Việt Nam
Mặc dù có rất nhiều cơ hội cho các TCTCVM 
trong phát triển các dịch vụ, sản phẩm TCVM ứng 
dụng công nghệ tại Việt Nam nhưng cũng sẽ có 
không ít thách thức cũng như rào cản trong việc 
triển khai của các tổ chức này, cụ thể: 
* Thiếu khuôn khổ pháp lý đối với lĩnh vực 
Fintech nói chung và các sản phẩm dịch vụ tài chính 
kỹ thuật số nói riêng.
Mặc dù, trong những năm qua, các cơ quan quản 
lý nhà nước trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng cụ 
thể là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chủ động 
trong việc tiếp cận vấn đề và đối thoại với các doanh 
nghiệp trong lĩnh vực Fintech để kịp thời tháo gỡ 
những vướng mắc nhằm tạo điều kiện cho việc gia 
nhập thị trường của các công ty này.
Các giải pháp Fintech thường được nghiên cứu 
và triển khai rất nhanh chóng, song, các quy định 
của pháp luật thường chưa kịp hình thành để điều 
chỉnh. Ngay cả đối với các NHTM hiện nay cũng 
gặp khó khăn trong việc triển khai các giải pháp 
Fintech trong hoạt động cung ứng dịch vụ khi khuôn 
khổ pháp lý còn thiếu, ví dụ như các vấn đề liên 
quan tới ứng dụng công nghệ Blockchain hay xác 
thực khách hàng từ xa...
Tháng 3/2017, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã 
thành lập Ban chỉ đạo Fintech của NHNN trong đó 
được giao nhiệm vụ tham mưu đề xuất với Thống 
đốc NHNN các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ sinh 
thái, kể cả hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm tạo 
thuận lợi cho các doanh nghiệp Fintech ở Việt Nam 
phát triển, phù hợp với chủ trương, định hướng của 
Chính phủ. Tuy nhiên, để có thể xây dựng và hoàn 
thiện được khuôn khổ pháp lý đối với lĩnh vực này, 
cũng không thể ngày một ngày hai do phạm vi hoạt 
động rộng của lĩnh vực này và sự liên quan tới nhiều 
Bộ, ngành khác nhau. 
* Chưa có hệ thống dữ liệu cá nhân tập trung, 
phục vụ nhận biết khách hàng cho các tổ chức tài 
chính.
Hiện nay, tại Việt Nam, thông tin dữ liệu của 
công dân được quản lý thông qua hệ thống chứng 
minh nhân dân và căn cước công dân, tuy nhiên các 
dữ liệu này chưa được quản lý tập trung, thống nhất 
qua một kho dữ liệu quốc gia. Hơn nữa, các quy 
định pháp lý hiện hành cũng chưa cho phép các tổ 
chức hay cá nhân có quyền được tiếp cận và khai 
thác thông tin từ các kho dữ liệu công dân này. 
Thêm nữa, theo quy định tại Điều 8 Nghị định 
số 116/2013/NĐ-CP ngày 04/10/2013 của Chính 
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật 
Phòng chống rửa tiền, các tổ chức tài chính phải gặp 
mặt trực tiếp khách hàng khi lần đầu thiết lập mối 
quan hệ và yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin 
phục vụ nhận biết khách hàng trong các giao dịch 
liên quan tới công nghệ mới (được định nghĩa là 
giao dịch cho phép khách hàng thực hiện giao dịch 
mà không cần gặp mặt trực tiếp nhân viên của đối 
tượng báo cáo).
Như vậy, với các quy định nêu trên đang là những 
vấn đề gây khó khăn và thách thức cho các tổ chức 
Fintech cũng như các tổ chức tài chính trong việc 
định danh khách hàng khi tham gia cung ứng các 
sản phẩm, dịch vụ ứng dụng công nghệ vốn đang 
chiếm ưu thế so với các dịch vụ tài chính truyền 
thống ở quy trình, thủ tục đơn giản.
* Đời sống vật chất, tinh thần và trình độ tiếp 
cận thông tin của người dân khu vực nông thôn, 
miền núi còn thấp.
Đời sống của người nông dân ở khu vực nông 
thôn, miền núi Việt Nam nhìn chung vẫn còn thấp 
so với mức sống chung của cả nước; mức sống của 
người dân ở nông thôn, miền núi so với ở thành thị 
còn quá chênh lệch. 
Ở khu vực nông thôn, miền núi, tỷ lệ lực lượng 
lao động không biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học 
còn khá cao, vẫn chiếm 18,26% tổng lực lượng lao 
động năm 2010; trong khi đó tỷ lệ lực lượng lao 
động có trình độ này ở khu vực thành thị chỉ có 
7,65%. Bên cạnh đó trình độ chuyên môn của lực 
lượng lao động cả nước còn thấp thể hiện ở tỷ lệ lao 
động chưa qua đào tạo còn cao (năm 2018 khoảng 
77,1%), tức là chỉ có khoảng 22,9% lực lượng lao 
động trên 15 tuổi đã qua đào tạo. 
Với mức độ thu nhập thấp, trình độ nhận thức 
và tiếp cận thông tin còn hạn chế sẽ là một rào cản 
trong việc tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ tài chính 
áp dụng công nghệ cao. 
* Thói quen tiêu dùng, thanh toán và sử dụng 
dịch vụ tài chính ở khu vực nông thôn, miền núi
Tại thị trường nông thôn, miền núi hiện nay, 
phần lớn người dân chủ yếu gắn bó với các loại hình 
chợ truyền thống. Ở khu vực nông thôn, miền núi, 
người dân thường không cần thiết phải dùng tới các 
dịch vụ ngân hàng vì những khoản chi tiêu, thanh 
toán của họ không có giá trị lớn, nhiều nhu cầu sinh 
hoạt hàng ngày phần lớn là tự cung tự cấp. Do đó, 
TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Soá 11 (196) - 2019
65Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
mọi nhu cầu thanh toán hàng ngày vẫn diễn ra thông 
qua sử dụng tiền mặt là chính. Đối với lĩnh vực tín 
dụng, tâm lý chung của người dân nông thôn, miền 
núi Việt Nam là không muốn vay do tâm lý ngại 
vay mượn và ngại hoàn thiện các quy trình thủ tục 
vốn chặt chẽ và khó hiểu so với trình độ và nhận 
thức của người dân theo yêu cầu của các tổ chức 
tài chính. Theo số liệu điều tra Tiếp cận nguồn lực 
hộ nông thôn Việt Nam (VARHS) năm 2015 trong 
số hơn 38% số hộ nông dân có vay vốn tín dụng 
chỉ có gần 37% đã vay được tín dụng từ các ngân 
hàng; có tới hơn 63% vẫn phải vay từ các nguồn phi 
chính thức như họ hàng, bạn bè thậm chí là tín dụng 
đen. Hay như đối với lĩnh vực bảo hiểm, do điều 
kiện kinh tế còn khó khăn nên nói chung bản thân 
người dân ở nông thôn vẫn chưa hiểu, chưa mặn 
mà và không quan tâm tới các dịch vụ bảo hiểm 
nông nghiệp (BHNN); tâm lí chung của người dân 
là không sẵn sàng bỏ tiền ra để trả phí bảo hiểm cho 
một sự thiệt hại không chắc chắn. Theo thống kê của 
Cục Quản lý và Giám sát bảo hiểm (Bộ Tài chính), 
tính đến giữa năm 2016, cả nước chỉ có 304.017 hộ 
nông dân, tổ chức sản xuất nông nghiệp tham gia 
BHNN, quá khiêm tốn so với tổng số 11 triệu hộ 
nông dân trên cả nước.
Như vậy, bản thân thói quen, tâm lý của người 
nông dân cũng chính là những cản trở lớn trong việc 
phát triển sản phẩm, dịch vụ tài chính của các tổ 
chức tài chính tại Việt Nam. Văn minh nông nghiệp 
Việt Nam đã tồn tại hàng nghìn năm, gắn kết người 
dân với nhau trong một tổng thể vững chắc, vì vậy, 
việc thay đổi thói quen của người dân nông thôn, 
miền núi trong việc sử dụng các dịch vụ thanh toán, 
tín dụng hay bảo hiểm hiện đại là cả một quá trình 
khó khăn và lâu dài.
3. Một số giải pháp để tận dụng cơ hội, vượt 
qua thách thức trong việc ứng dụng Fintech ở 
các tổ chức tài chính vi mô nhằm phát triển tài 
chính toàn diện ở Việt Nam
Thứ nhất, các cơ quan quản lý tiếp tục hoàn 
thiện khung pháp lý. 
NHNN tiếp tục nhiệm vụ quan trọng nhất trước 
mắt là xây dựng khung pháp lý cho lĩnh vực Fintech, 
trong đó trước mắt tập trung nghiên cứu một số lĩnh 
vực, công nghệ mới có tiềm năng ứng dụng cao như: 
công nghệ blockchain/sổ cái phân tán; kết nối, chia 
sẻ dữ liệu qua giao diện chương trình ứng dụng mở; 
định danh và nhận biết khách hàng điện tử
Thứ hai, đối với các tổ chức tài chính vi mô:
- Giảm chi phí, tăng các nguồn thu: Các 
TCTCVM có thể giảm chi phí hoạt động thông qua: 
Áp dụng hệ thống quản lý vận hành tốt; sử dụng 
công nghệ để giảm chi phí; giảm các chi phí hoạt 
động không cần thiết ở mức tối đa, tiết kiệm chi phí 
hoạt động; quản lý nợ tốt hơn nữa để giảm chi phí 
dự phòng rủi ro, tăng cường chia sẻ thông tin tín 
dụng với các TCTD trong địa bàn để tránh tình trạng 
chồng nợ; giảm chi phí huy động vốn của TCTCVM 
thông qua thu hút các nhà đầu tư trong nước và quốc 
tế trên thị trường.
- Tăng cường minh bạch hóa thông tin để tăng uy 
tín và bảo vệ quyền lợi khách hàng.
- Đa dạng hóa dịch vụ, tăng cường chất lượng 
dịch vụ TCVM cung cấp cho khách hàng, cân bằng 
giữa các mục tiêu tài chính và xã hội. 
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của các 
TCTCVM.
- Tuyên truyền cho khách hàng nhận thức được 
lợi ích của việc sử dụng tài chính kỹ thuật số trong 
giao dịch với TCTCVM.
Thứ ba, đối với người dân là khách hàng của các 
TCTCVM:
- Người dân là khách hàng của các TCTCVM 
cần phải thấy được nghĩa vụ tuân thủ các quy định 
luật pháp liên quan đến lĩnh vực tín dụng, ngân hàng 
nhất là dịch vụ TCVM.
- Người dân trên cơ sở được trợ giúp của các 
TCTCVM cần phải có ý thức học hỏi, nâng cao 
nhận thức về CNTT, công nghệ Fintech để thấy 
được lợi ích mang lại cho mình. 
Thứ tư, đối với các công ty Fintech
- Chủ động tìm kiếm các đối tác như TCTCVM 
để hợp tác phát triển các dịch vụ, sản phẩm phù hợp 
cho người dân nông thôn, miền núi.
- Nghiên cứu, phát triển và cung cấp các giải 
pháp hiện đại, đổi mới giúp công tác quản lý tại 
TCTCVM thêm hiệu quả với chi phí hợp lý.
Thứ năm, đối với chính quyền địa phương:
- Hỗ trợ các TCTCVM về nhân sự, cán bộ: Hầu 
hết các chương trình, dự án TCVM được thực hiện 
thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức 
đoàn thể, vì vậy nhân lực quản lý thường không có 
nghiệp vụ về tài chính, ngân hàng. Do đó, cần tạo 
điều kiện bố trí, hỗ trợ các TCTCVM những cán bộ 
có khả năng quản lý tài chính, am hiểu về tính bền 
vững tài chính, nhận thức về hoạt động kinh doanh, 
hoạt động của TCVM.
TAØI CHÍNH VÓ MOÂSoá 11 (196) - 2019
66 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
- Hỗ trợ về cơ sở vật chất, điều kiện làm việc: 
Hầu hết các TCTCVM có quy mô nhỏ, thu nhập tài 
chính từ lãi cho vay chưa đủ bù đắp được chi phí 
vận hành nên chưa có khả năng đầu tư trang thiết 
bị, công nghệ thông tin, do đó thiếu sự ổn định và 
chuyên nghiệp. Do đó, các TCTCVM kiến nghị 
chính quyền địa phương - với tư cách là đơn vị chủ 
quản - có chính sách hỗ trợ các TCTCVM về cơ sở 
vật chất, trụ sở làm việc, phương tiện làm việc để 
qua đó từng bước nâng cao khả năng ứng dụng công 
nghệ, tiết kiệm thời gian cho nhân viên và phương 
thức quản lý cũng chuyên nghiệp, chính xác và chặt 
chẽ hơn.
- Hỗ trợ trong công tác tuyên truyền, vận động: 
Chính quyền địa phương các cấp, đặc biệt là các tổ 
chức chính trị - xã hội, tổ chức đoàn thể, tổ chức 
nghề nghiệp cần có những chương trình vận động, 
tuyên truyền định kỳ, thường xuyên và liên tục tại 
các cụm, tổ dân cư để phổ biến, giới thiệu cho dân 
cư trên địa bàn hiểu biết hơn về lợi ích, hiệu quả 
về TCVM; đồng thời phối hợp cùng các TCTCVM 
quản lý, giám sát quá trình hoạt động cho vay của 
các TCTCVM để bà con yên tâm đồng hành, sử 
dụng khoản vay hiệu quả.
Kết luận
Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông 
tin, công nghệ Fintech và đặc điểm kinh tế - xã hội 
Việt Nam, các TCTCVM đang đứng trước nhiều 
cơ hội ứng dụng công nghệ để cung cấp các dịch 
vụ TCVM cho người dân ở vùng nông thôn, miền 
núi. Bên cạnh đó, các TCTCVM cũng đứng trước 
nhiều thách thức không dễ vượt qua. Với những giải 
pháp hợp lý, đồng bộ và toàn diện, các TCTCVM 
sẽ vượt qua được thách thức, tận dụng tốt cơ hội để 
áp dụng ngày càng mạnh mẽ công nghệ fintech để 
cung cấp các dịch vụ TCVM ngày càng tốt hơn cho 
người dân ở vùng nông thôn, miền núi, góp phần 
phát triển tài chính toàn diện, hiệu quả và bền vững 
ở Việt Nam. Bài viết là một phần công bố của đề 
tài: “Giải pháp thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt 
Nam” (KX.01.30/16-20).
Tài liệu tham khảo:
PGS.TS. Nguyễn Kim Anh (2014), “Tài chính vi mô Việt 
Nam: Thực trạng và khuyến nghị chính sách”, Nhóm công tác 
tài chính vi mô Việt Nam.
PGS.TS. Nguyễn Kim Anh (2018), “Ứng dụng công nghệ 
tài chính (fintech) trong hoạt động tài chính vi mô hướng tới 
phổ cập tài chính tại Việt Nam”, Nhóm công tác tài chính vi 
mô Việt Nam.
Bản tin tài chính toàn diện số 1,2,3 (2019), Nhóm công tác 
tài chính vi mô Việt Nam.
Báo cáo hoạt động 2018, Nhóm công tác tài chính vi mô 
Việt Nam.
Bộ Khoa học - Công nghệ và Học viện Tài chính (2019), 
“Thúc đẩy tài chính toàn diện tại Việt Nam: Những vấn đề lý 
luận, kinh nghiệm thực tiễn của các nước”, Hội thảo khoa học 
quốc gia.
Ngân hàng Thế giới (2007), “Việt Nam: Xây dựng chiến 
lược tổng thể để tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính 
vi mô (của người nghèo)”.
TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Soá 11 (196) - 2019
Trong khi đó, mô hình Na Uy được xây dựng để 
phục vụ mục tiêu của nhà nước phúc lợi: cung cấp 
dịch vụ công tới người dân một cách công bằng nhất 
có thể. Và theo đó, việc cung cấp các dịch vụ công 
được phân cấp tới chính quyền địa phương. Tuy thế, 
khía cạnh thu ngân sách lại có tính tập trung cao: một 
phần lớn nguồn ngân sách của địa phương là từ các 
khoản tài trợ và chuyển giao của chính quyền trung 
ương. Điều này để đảm bảo tính kiểm soát của nhà 
nước và việc điều tiết các nguồn thu để đảm bảo tính 
công bằng trong cung cấp dịch vụ công. Gần đây, Na 
Uy đang xem xét các tiếp cận mới đối với mô hình 
phân cấp tài khóa của mình theo hai hướng: tiếp tục 
củng cố tính chất phân cấp hành chính của mô hình 
(kiện toàn việc phân cấp cung cấp dịch vụ công đối 
với địa phương) và đổi mới để tăng cường tính đồng 
bộ của các hoạt động thu, chi trong phân cấp tài khóa.
Việt Nam là một nước có nền kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, Việt Nam 
đang cần xem xét một mô hình phân cấp tài khóa để 
nâng cao hiệu quả khu vực công, thúc đẩy phát triển 
kinh tế-xã hội, đặc biệt cho các địa phương. Trong dài 
hạn, Việt Nam cần thiết kế một hệ thống phân cấp tài 
khóa phục vụ tốt nhất các mục tiêu xã hội. Hai cách 
tiếp cận ở trên mở ra những gợi ý cho Việt Nam trong 
việc thiết kế một hệ thống phân cấp tài khóa phù hợp 
trong ngắn hạn cũng như dài hạn. 
Tài liệu tham khảo: 
OECD, 2019, Making Decentralization Work – A Handbook 
for Policy-Makers.
OECD, 2018, Subnational governments in OECD Countries: 
Key Data 2018 edition. 
Isabelle Chatry, 2017, Fiscal decentralization and 
subnational finance: strengthening local level capacity.
Jonathan Gruber, 2016, Tài chính công và chính sách công 
(5th), Macmillan.
Lars-Erik Borge, Jorn Rattso, 2013, Fiscal federalism: 
International experiences and the Nordic response.
Xem tiếp trang 61PHÂN CẤP TÀI KHÓA: MÔ HÌNH LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN...

File đính kèm:

  • pdfco_hoi_va_thach_thuc_doi_voi_viec_ung_dung_fintech_cua_cac_t.pdf