Cấu trúc thuế và tự do hóa thương mại: nghiên cứu thực nghiệm tại các nước ASEAN
Tóm tắt
Mục đích của nghiên cứu là xem xét tác động của tự do hóa thương mại đến cấu trúc thuế tại sáu
nước đang phát triển trong khối ASEAN - 6 (Campuchia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái
Lan và Việt Nam) giai đoạn 2000-2017. Bằng việc sử dụng các phương pháp ước lượng FEM,
REM, GLS đối với dữ liệu bảng, kết quả thực nghiệm cho thấy tự do hóa thương mại tác động tích
cực đến thuế đối với hàng hóa và dịch vụ, tiêu cực đến thuế đối với thu nhập và lợi nhuận nhưng lại
không làm ảnh hưởng đến thuế đối với thương mại quốc tế. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đưa ra một
số gợi ý chính sách cho cấu trúc thuế tại Việt Nam.
Từ khóa: ASEAN, cấu trúc thuế, tự do hóa thương mại.
Bạn đang xem tài liệu "Cấu trúc thuế và tự do hóa thương mại: nghiên cứu thực nghiệm tại các nước ASEAN", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cấu trúc thuế và tự do hóa thương mại: nghiên cứu thực nghiệm tại các nước ASEAN

Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 1 được cắt giảm; và (3) các biện pháp phi thuế quan đã được giảm bớt (Baunsgaard & Keen, 2010) nhằm tạo môi trường kinh doanh thông thoáng cho các doanh nghiệp. Đồng thời tăng sức ép cạnh tranh giữa các nền kinh tế khi đứng trước áp lực cắt giảm thuế quan và nới lỏng các rào cản thương mại. Tổng số thu thuế sẽ thay đổi khi số thu thuế từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm (Ebrill, Stosky & Gropp, 1999), tạo 1. Giới thiệu Tự do hóa thương mại đã trở thành xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh giữa các nền kinh tế. Tự do hóa thương mại chủ yếu thúc đẩy của các nước đi theo ba hướng: (1) những hạn chế về quyền thương mại (tức là quyền xuất nhập khẩu) đã được nới lỏng; (2) thuế quan đã ____________________________________________________ 1 Trường Đại học Tài chính – Marketing CẤU TRÚC THUẾ VÀ TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI: NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI CÁC NƯỚC ASEAN TRADE LIBERALIZATION AND TAX STRUCTURE: NEW EVIDENCE FROM ASEAN COUNTRIES Hồ Thủy Tiên, Trần Xuân Hằng1 Ngày nhận bài: 16/9/2019 Ngày chấp nhận đăng: 11/11/2019 Ngày đăng: 05/06/2020 Tóm tắt Mục đích của nghiên cứu là xem xét tác động của tự do hóa thương mại đến cấu trúc thuế tại sáu nước đang phát triển trong khối ASEAN - 6 (Campuchia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam) giai đoạn 2000-2017. Bằng việc sử dụng các phương pháp ước lượng FEM, REM, GLS đối với dữ liệu bảng, kết quả thực nghiệm cho thấy tự do hóa thương mại tác động tích cực đến thuế đối với hàng hóa và dịch vụ, tiêu cực đến thuế đối với thu nhập và lợi nhuận nhưng lại không làm ảnh hưởng đến thuế đối với thương mại quốc tế. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đưa ra một số gợi ý chính sách cho cấu trúc thuế tại Việt Nam. Từ khóa: ASEAN, cấu trúc thuế, tự do hóa thương mại. Abstract The purpose of the study examines the impact of trade liberalization on tax structures from ASEAN-6 countries (Cambodia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thailand and Vietnam) for the period 2000-2017. Applying estimation FEM, REM, GLS methods for panel, the empirical results show that trade liberalization positively affects taxes on goods and services. In addition, the trade liberalization has a negative impact on taxes on income, profits and capital gain while the effect of the trade liberalization on taxes on international trade is not clear in the surveyed countries. On that basis, the study provides some policy suggestions for tax structure in Vietnam Keywords: ASEAN, tax structure, trade liberalization. Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 2 chiến lược cụ thể vì không thể có “một khuôn mẫu phù hợp cho mọi quốc gia”. Cấu trúc thuế của một quốc gia bao gồm nhiều loại thuế khác nhau, có thể được chia thành ba loại chung: thuế đối với thu nhập và lợi nhuận, thuế đối với hàng hóa và dịch vụ và thuế đối với thương mại quốc tế. Thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp là các thành phần chính của thuế đối với thu nhập và lợi nhuận, đôi khi có thể tính đến thuế lãi vốn. Thuế bán hàng chung và thuế tiêu thụ đặc biệt là thành phần chính của thuế đối với hàng hóa dịch vụ. Thuế bán hàng chung có hình thức ở hầu hết các quốc gia có thuế giá trị gia tăng nhưng cũng có thể ở dạng doanh thu hoặc thuế bán lẻ. Thuế đối với thương mại quốc tế là thuế đánh vào các hàng hóa tham gia vào quá trình xuất hoặc nhập khẩu. Thuế đối với thu nhập và lợi nhuận: mặc dù thu nhập bình quân đầu người khu vực ASEAN còn thấp (Hình 1) nhưng nguồn thu từ thuế thu nhập cũng đóng góp khoảng một phần ba tổng doanh thu thuế. Theo thời gian hầu hết các quốc gia đã thực hiện các sửa đổi về chính sách thuế nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp cũng như phù hợp với xu thế quốc tế. Xu hướng chung của các quốc gia hiện nay là giảm thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm khuyến khích đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng. Tự do hóa thương mại chủ yếu sẽ có ảnh hưởng đến thu nhập thông qua những thay đổi về tính linh hoạt của hàng hóa nhập khẩu và các nhà sản xuất nội địa thay thế hàng hóa nhập khẩu trong ngắn hạn và dài hạn. Dựa trên tính cạnh tranh thuế và hài hòa thuế, tự do hóa thương mại sẽ làm giảm thuế thu nhập của các quốc gia. Thuế đối với hàng hóa và dịch vụ: hầu hết ở các nước đang phát triển, bao gồm cả những nước khu vực ASEAN, thuế đánh vào hàng hóa và dịch vụ (còn gọi là thuế gián thu) là một nguồn thu đáng kể (Ebrill, Keen, Bodin & Summers, 2001). Trong đó chiếm một tỷ lệ lớn đến từ hoạt động xuất, nhập khẩu. Tự do áp lực lên cán cân ngân sách. Ngoài ra, một số quốc gia trên thế giới xếp hạng môi trường đầu tư kinh doanh sẽ dựa trên tiêu chí sử dụng thành phần thuế. Bằng chứng là nghiên cứu của Bellak và Leibrecht (2009) kết luận mức thuế suất tác động tiêu cực đến khả năng sinh lợi của vốn đầu tư. Trong điều kiện như vậy, một quốc gia có chính sách thuế thích hợp sẽ nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh, đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và đảm bảo độ an toàn trong quá trình hội nhập kinh tế. Một cấu trúc thuế tốt để thu hút các doanh nghiệp và tăng cường phát triển nền kinh tế là điều cần thiết. Tuy nhiên, việc hoạch định chính sách thuế không đơn giản là vấn đề chủ quyền hoàn toàn độc lập của một quốc gia, mà những nhân tố toàn cầu hóa đã nhanh chóng trở thành những lực lượng khách quan chi phối xu hướng cải cách thuế, của bất cứ nước nào có tham gia vào mối quan hệ kinh tế quốc tế và tùy theo mức độ của mỗi quốc gia. Xu hướng các nguồn thu thuế của các nước đặc biệt là các nước khu vực ASEAN sẽ như thế nào và sự thay đổi cấu trúc thuế do tác động của tự do hóa thương mại sẽ ra sao là những vấn đề đáng quan tâm. 2. Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm 2.1. Cấu trúc thuế Hinrichs (1966) cho rằng không có một hệ thống thuế nào tốt nhất cho tất cả các quốc gia hoặc cho bất kỳ một quốc gia nào trong suốt thời gian. Qua quá trình phát triển, hệ thống thuế ở các quốc gia cũng được thay đổi đáng kể. Một trong những lý do quan trọng nhất là muốn tiến tới một hệ thống thuế đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và đảm bảo tính cạnh tranh quốc tế (Rao, 2000). Lee & cộng sự (2005) nhấn mạnh các nước đang phát triển gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô thu thuế một cách hiệu quả và công bằng, điều này lại tùy thuộc vào khả năng thu thuế. Do đó, các nước này phải có một tầm nhìn dài hạn và các Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 3 2.2. Tự do hóa thương mại tác động đến cấu trúc thuế Tự do hóa thương mại là một thuật ngữ toàn diện và nó không chỉ bao gồm dòng chảy của hàng hóa và dịch vụ mà còn cả những ý tưởng và giá trị khoa học và văn hóa trên khắp các nước trên thế giới. Nó cũng tạo điều kiện cho dòng chảy của vật chất, tài chính và thậm chí cả vốn con người trên biên giới. Tự do hóa thương mại có thể cải thiện hiệu quả kinh tế và có thể hữu ích trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các tác động trong công nghệ. Những lý thuyết trước đây về thương mại tự do như Lợi thế tuyệt đối của Smith (1776) và Lợi thế so sánh của Ricardo (1817) dựa trên khái niệm rằng thương mại tự do sẽ dẫn đến phân bổ hiệu quả các nguồn lực giữa các quốc gia thương mại. Mặc dù đem lại nhiều lợi ích, tự do hóa thương mại vẫn bị chỉ trích trên cơ sở rằng nó có thể có một tác động tiêu cực đến cuộc sống của người dân của các quốc gia đang phát triển. Nó có thể gây ra các bệnh xã hội như đói nghèo, bất bình đẳng và suy thoái môi trường. Bên cạnh đó, tự do hóa thương mại cũng có thể dẫn đến mất nguồn thu thuế, điều này hạn chế khả năng chi tiêu của Chính phủ ở các nước đang phát triển. Tự do hóa thương mại có thể tạo ra bất ổn tài chính cho các nước đang phát triển vì thuế thương mại quốc tế chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu thuế. Tổng số thu thuế trong nước như là một phần của GDP thường thấp ở các nền kinh tế đang phát triển do quản lý thuế không phức tạp, khu vực phi chính thức lớn, thuế thu nhập nông nghiệp không đáng kể, miễn giảm và trốn thuế phổ biến. Để tìm kiếm các nguồn tài nguyên thay thế của doanh thu thuế đối với tổn thất doanh thu thương mại là không dễ dàng bởi vì họ không có khả năng mang lại sự thay đổi hơn nữa trong cơ cấu thuế trong nước. Dễ dàng nhận thấy tự do hóa thương mại có tác động đến tỷ trọng của thuế thương mại hóa thương mại làm cho giá trị nhập khẩu tăng lên, bù đắp cho mức giảm này do thay đổi thuế quan. Ngoài ra, doanh thu thuế có thể giảm do sản lượng hàng hóa thay thế nhập khẩu giảm. Thông thường hiệu quả thu thuế đối với hàng hóa, dịch vụ nội địa thấp hơn so với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, về lâu dài nếu tăng trưởng kinh tế tăng do tự do hóa thương mại, cơ sở thuế có khả năng mở rộng. Sự mất giá thực sự của tiền tệ sẽ dẫn đến sự gia tăng thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế GTGT từ hàng nhập khẩu, gánh nặng thuế đối với hàng hóa và dịch vụ chủ yếu được chuyển sang người tiêu dùng thông qua điều chỉnh giá. Thuế đối với thương mại quốc tế: thuế đánh vào các hàng hóa tham gia vào quá trình xuất hoặc nhập khẩu. Trong tiến trình tự do hóa thương mại, các quốc gia tham gia vào các tổ chức quốc tế, ký kết các hiệp định thương mại tự do vì thế các dòng thuế sẽ lần lượt được cắt giảm gây ảnh hưởng đến số thu thuế từ hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, trong dài hạn số thu đó có thể được bù đắp bằng sự gia tăng sản lượng hàng hóa. 0 20 40 60 80 100 OT TIT TIPC TGS Nguồn: Tính toán của tác giả theo WDI Hình 1. Cấu trúc thuế của các quốc gia ASEAN giai đoạn 2000-2017 Trong đó: - Thuế đối với hàng hóa và dịch vụ - TGS - Thuế đối với thu nhập và lợi nhuận - TIPC - Thuế đối với thương mại quốc tế - TIT - Thuế khác – OT Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 4 phân tích chính trị (Persson & Tabellini, 2002). Theo quan điểm tài chính công chuẩn tắc, hoạt động thu, chi của Chính phủ cần hướng đến tối đa hóa hiệu quả kinh tế. Vì vậy, các nghiên cứu này thường dựa trên giả định rằng Chính phủ là “các chính trị gia nhân từ”, luôn quyết định các chính sách dựa trên cơ sở tối đa hóa lợi ích xã hội. Tuy nhiên, các nghiên cứu ủng hộ thường phải lý thuyết lựa chọn công (public choice) và lý thuyết kinh tế chính trị (political economic) thường chỉ trích giả định phổ biến này. Như Deither (1999) nhận định, “Chính phủ không phải là những người cầm quyền nhân từ, những người cố gắng để tối đa hóa lợi ích xã hội, cấu trúc quản trị công trở nên phức tạp bởi mối quan hệ giữa các cơ quan công quyền”. Công chức và bộ máy Chính phủ có tính chất như là nhà độc quyền và đơn giản cố gắng tối đa hóa quy mô khu vực công, tăng số thu thuế. Số thu thuế tăng ổn định, cơ sở thuế tối ưu là một trong những nguyên nhân gây ra việc mất đi lợi nhuận của người nộp thuế. Chính phủ tăng thu thuế đồng nghĩa việc người nộp thuế sẽ tìm cách né tránh khoản thu này. Họ yêu cầu Chính phủ phải bị hạn chế quyền ấn định mức thuế suất và chỉ được áp một mức thuế suất ổn định. Mô hình gây ra thất bại của Chính phủ là sự không có khả năng hoặc không sẵn lòng hành động theo hướng quan tâm tới sở thích của công chúng. Quan điểm trên cũng giúp cho giải thích quy luật về mối quan hệ giữa bàn tay Chính phủ với thuế và chi tiêu công. 2.3.2. Lý thuyết cạnh tranh thuế Lý thuyết về cạnh tranh thuế chỉ ra, chính sách thuế giữa các quốc gia không độc lập mà có sự tương tác. Theo Edwards & Mitchell (2008), do khác biệt về chính sách thuế giữa các quốc gia, một bộ phận người nộp thuế sẽ thực hiện “Voted by their feet” – “bỏ phiếu bằng chân”. Nghĩa là, các nhà đầu tư sẽ dịch chuyển từ cộng đồng (quốc gia) có thuế suất cao sang cộng đồng có thuế suất thấp hơn để nhận được phần lợi nhuận sau thuế là lớn nhất. Quá trình này dẫn đến chính sách thuế của quốc gia này quốc tế trong tổng số thu thuế vì một đặc điểm luôn tồn tại trong tiến trình tự do hóa thương mại chính là loại bỏ các hàng rào thuế quan với hàng nhập khẩu. Mối quan hệ chính xác thì còn phụ thuộc vào nhiều biến số, bao gồm bản chất của tự do hóa thương mại và phản ứng của nhập khẩu và xuất khẩu đối với tự do hóa. Tùy thuộc vào mức thuế quan được thiết lập và sự thay đổi trong giá trị hàng nhập khẩu sau khi áp dụng tự do hóa thương mại, tỷ trọng của thuế thương mại quốc tế có thể tăng hoặc giảm. Nếu các quốc gia cắt giảm thuế quan nhưng không có các biện pháp để thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế thì sẽ dẫn đến giảm số thu thuế thương mại quốc tế. Một khi tỷ trọng của thuế thương mại quốc tế thay đổi chắc chắn; và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cấu trúc của hệ thống thuế và khả năng quản lý hành chính. Thường tự do hóa thương mại đi kèm với việc thay đổi chính sách thuế giá trị gia tăng hoặc các sắc thuế quan trọng khác trong nước. Tự do hóa thương mại mang lại những thách thức tài chính mới, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển vì họ có mức thu nhập thuế thấp so với tỷ lệ GDP. Khi tự do hóa thương mại, các nước phát triển có thể bù đắp sự sụt giảm thuế thương mại quốc tế bằng các hình thức thuế nội địa khác bởi vì họ có chất lượng thể chế cao và hệ thống quản trị hiệu quả. Nhưng trong trường hợp các nước đang phát triển, họ phải đối mặt với cả hai vấn đề chất lượng thể chế thấp và hệ thống quản trị còn nhiều bất cập. Vì vậy, các nền kinh tế này không thể chuyển gánh nặng thuế thương mại quốc tế sang cho các sắc thuế nội địa. 2.3. Lý thuyết cấu trúc thuế 2.3.1. Lý thuyết lựa chọn công (mô hình Leviathan) Mô hình Leviathan hay Lý thuyết lựa chọn công được phát triển bởi Brennan và Buchanan (1980). Lý thuyết lựa chọn công chủ yếu tiếp cận ở khía cạnh thể chế chính trị. Các phân tích về tài chính công cần kết hợp phân tích kinh tế và Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 5 Khả năng thu các loại thuế khác nhau trong một nền kinh tế có thể được xác định bằng thu nhập bình quân đầu người, tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP. Thu nhập bình quân đầu người được đại diện cho sự phát triển chung của nền kinh tế và được dự kiến tương quan cùng chiều với số thu thuế bởi vì nó được dự kiến sẽ là một chỉ số tốt về tổng thể mức độ phát triển kinh tế. Hơn nữa, theo quy luật Wagner, nhu cầu về các dịch vụ của Chính phủ thì co giãn theo thu nhập, vì vậy phần hàng hóa và dịch vụ được Chính phủ cung cấp dự kiến sẽ tăng lên theo thu nhập. Về mặt lý thuyết cho rằng tổng số thuế tăng lên khi mức độ phát triển kinh tế tăng. Thu nhập bình quân đầu người được sử dụng như một thước đo phát triển. Thu nhập bình quân đầu người cao hơn dẫn đến mức độ phát triển cao hơn, cuối cùng tạo ra khả năng trả thuế cao hơn cũng như khả năng thu tiền và thu thuế cao hơn (Chelliah, 1971). Hầu hết các nghiên cứu cho thấy hai đại lượng này có mối tương quan cùng chiều. Tỷ ... 0 .0 09 2 L IB 0. 03 42 ** * 0. 01 53 0. 03 42 ** * -0 .0 31 9* * 0. 03 07 * -0 .0 31 9* * 0. 02 61 ** -0 .0 45 8* ** 0. 02 61 ** -0 .0 05 8* * 0. 01 26 ** * -0 .0 05 8* * P O P -1 3. 18 88 ** * -3 .6 69 6 -1 3. 18 88 ** * 2. 40 20 ** -6 .6 99 8* ** 2. 40 20 ** 5. 37 50 ** * 0. 30 19 5. 37 50 ** * 2. 03 56 ** * 0. 53 19 2. 03 56 ** * E D U 0. 03 32 -0 .1 77 5* ** 0. 03 32 -0 .3 28 8* ** -0 .2 85 8* ** -0 .3 28 8* ** 0. 18 41 ** 0. 14 00 ** * 0. 18 41 ** 0. 02 18 0. 03 20 * 0. 02 18 G O V -0 .0 09 6 0. 03 31 -0 .0 09 6 -1 .2 73 2* ** 0. 35 03 -1 .2 73 2* ** 0. 91 91 ** * -0 .8 95 6* ** 0. 91 91 ** * -0 .0 40 7 -0 .0 03 6 -0 .0 40 7 G D P -0 .0 00 9* ** 0. 00 06 -0 .0 00 9* ** 0. 00 01 0. 00 07 0. 00 01 -0 .0 02 8* ** -0 .0 01 7* ** -0 .0 02 8* ** -0 .0 00 2* ** 0. 00 00 -0 .0 00 2* ** co ns 43 .1 12 3* ** 64 .2 49 0* ** 43 .1 12 3* ** 89 .4 31 5* ** 62 .5 98 6* ** 89 .4 31 5* ** -2 5. 50 05 ** * 9. 02 48 -2 5. 50 05 ** * 2. 28 59 -3 .9 74 5* 2. 28 59 N 10 8 10 8 10 8 10 8 10 8 10 8 10 8 10 8 10 8 10 8 10 8 10 8 V IF 4. 39 4. 39 4. 39 4. 39 F t es t P ro b > F = 0 .0 00 0 P ro b > F = 0 .0 00 0 P ro b > F = 0 .0 00 0 P ro b > F = 0 .0 00 0 H au sm an 0. 00 00 0. 00 00 0. 00 00 0. 00 00 W oo ld ri dg e Te st P ro b> F = 0 .0 34 4 P ro b > F = 0. 00 09 P ro b > F = 0. 01 91 P ro b > F = 0. 04 25 W al d te st P ro b> ch i2 = 0. 00 00 P ro b> ch i2 = 0. 00 00 P ro b> ch i2 = 0. 00 00 P ro b> ch i2 = 0. 00 00 G hi c hú : ** *, * *, * c ó m ức ý n gh ĩa th ốn g kê lầ n lư ợt là 1 % , 5 % v à 10 % N gu ồn : T ín h to án c ủa tá c gi ả Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 11 nguồn thu quan trọng của ngân sách đặc biệt là các nước có tỉ lệ thâm hụt ngân sách cao như Việt Nam, Malaysia, Philippines. Ưu đãi thuế nhằm thu hút đầu tư là chính sách hàng đầu của các nước đang phát triển hiện nay, nên việc giảm số thu từ các loại thuế này là điều khó tránh khỏi. Ngoài ra, tỷ trọng nông nghiệp (AGR) tác động tích cực đến thuế đối với hàng hóa dịch vụ, thuế đối với thương mại quốc tế, thuế khác nhưng tiêu cực đến thuế thu nhập và lợi nhuận. Kết quả này có thể được giải thích vì các nước triển khai chính sách thuế nhằm thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển như: (i) Tiếp tục miễn nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp cho tới sau năm 2020; (ii) Tập trung ưu đãi thuế TNDN đối với sản xuất máy móc thiết bị, dây chuyền, các sản phẩm đầu vào cho ngành nông nghiệp; miễn giảm thuế đối với thu nhập từ ngành nông nghiệp... của các đơn vị sản xuất; (iii) Miễn, giảm thuế TNCN đối với thu nhập từ sản phẩm nông nghiệp, thu nhập từ cổ tức đầu tư vào ngành nông nghiệp... Như vậy, chính sách miễn giảm thuế để phát triển nông nghiệp sẽ tiếp tục làm giảm số thu thuế từ lĩnh vực này trong thời gian tới. Chỉ số kiểm soát tham nhũng có tác động tích cực đến thuế thu nhập và thuế đối với thương mại quốc tế điều này tương đồng với các kết quả nghiên cứu trước mà tác giả tham khảo. Bảng 4 thể hiện kết quả hồi quy các biến trong mô hình. Kết quả cho thấy tự do hóa thương mại tác động khác nhau đến từng loại thuế. Tự do hóa thương mại có tác động tích cực đến thuế đối với hàng hóa và dịch vụ. Kết quả này tiếp tục ủng hộ quan điểm của Tosun (2005) , Gastaldi và cộng sự (2011). Điều này cho thấy các quốc gia mở cửa thương mại, giúp lưu lượng hàng hóa xuất nhập khẩu càng nhiều, vì thế thuế đánh trên sản lượng hàng hóa gia tăng. Tự do hóa thương mại tác động tiêu cực đến thuế đối với thu nhập và lợi nhuận. Ý nghĩa này cũng dễ dàng được giải thích trong xu hướng cạnh tranh thuế, bởi quá trình cắt giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) tại các nước ASEAN những năm gần đây. Khi các nước này đang giảm dần mức thuế suất sẽ xuất hiện nguy cơ về một “cuộc đua tới đáy” (race to the bottom). Chẳng hạn, Việt Nam dần cắt giảm thuế suất từ 22% và đến năm 2016 còn 20%. Malaysia cũng giảm xuống còn 24% năm 2016. Theo kết quả nghiên cứu này thì tự do hóa thương mại không tác động đến thuế đối với thương mại quốc tế. Điều này tương đồng với luận giải của tác giả khi sự sụt giảm về số thu thuế được bù đắp bằng sản lượng hàng hóa gia tăng. Các thuế khác bao gồm như thuế tài sản, thuế tài nguyên mặc dù đóng góp một tỉ lệ nhỏ trong tổng số thu thuế nhưng cũng là một trong Bảng 5. Kết quả ước lượng mô hình GLS Biến TGS TIPC TIT OT AGR 0.1987* -1.0106*** 0.1616* -0.2211*** COR -0.0001 0.3297*** 0.1391*** -0.0146 LIB 0.0343*** -0.0300** 0.018 -0.0056*** POP -13.3295*** 2.0906** 4.4054*** 2.2349*** EDU 0.1049 -0.3239*** 0.1765*** 0.0223 GOV 0.0791 -1.0493*** 0.6278*** 0.0108 GDP -0.0010*** -0.0003 -0.0026*** -0.0002*** cons 34.6301*** 88.3323*** -19.6332*** 1.6735 N 108 108 108 108 Ghi chú: ***, **, * có mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 1%, 5% và 10%, Nguồn: tính toán của tác giả Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 12 nhiên, lẽ ra kim ngạch xuất nhập khẩu tăng sẽ kéo theo thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu phải tăng theo, mặc dù hàng năm kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn tăng, nhưng thu thuế Ngân sách từ thuế lại giảm đi. Vấn đề này, được lý giải do thuế xuất nhập khẩu bị cắt giảm hoặc xóa bỏ theo các cam kết hội nhập. Riêng đối với cam kết nội khối AEC, thời gian cắt giảm hàng loạt sản phẩm, hàng hóa có thuế suất bằng 0% có hiệu lực từ năm 2018 trở đi. Vì vậy, trong ngắn hạn, quy mô thu Ngân sách Nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu sẽ vẫn duy trì, nhưng từ năm 2018 có thể lực giảm thu ngân sách sẽ rất rõ. Có thể giải thích vấn đề này với những lý do sau: + Việt Nam cam kết xóa bỏ gần 100% số dòng thuế, trong những mặt hàng xóa bỏ thuế có rất nhiều mặt hàng thuộc về nguyên liệu sản xuất hoặc hàng tiêu dùng phổ biến đang chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch nhập khẩu như: dệt may, giày dép, đồ gỗ, hóa chất, gạo + Các nước thành viên trong FTA đều là đối tác thương mại chủ chốt của nước ta như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,... Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, ngành nông nghiệp Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của nông - lâm - ngư nghiệp có xu hướng chậm lại trong thời gian gần đây, nông nghiệp chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh của nhiều loại sản phẩm còn thấp Điều đó cho thấy cần phải tiếp tục thực hiện những chính sách hỗ trợ, trong đó có chính sách thuế, nhằm thúc đẩy ngành nông nghiệp. Qua nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và đối chiếu với chính sách thuế của Việt Nam cho thấy, vẫn còn nhiều dư địa để triển khai chính sách thuế nhằm thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển như: (i) Tiếp tục miễn nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp cho tới sau năm 2020; (ii) Tập trung ưu đãi thuế TNDN đối với sản xuất máy móc thiết bị, dây chuyền, các sản phẩm đầu vào cho ngành nông nghiệp; 5. Kết luận và hàm ý chính sách Nghiên cứu phân tích tác động của tự do hóa thương mại đến cấu trúc thuế tại các nước ASEAN giai đoạn 2000-2017 bằng phương pháp REM, FEM và GLS có kết quả như sau: Thứ nhất, tự do hóa thương mại tác động tích cực đến thuế đối với hàng hóa và dịch vụ, tiêu cực đến thuế đối với thu nhập và lợi nhuận nhưng lại không làm ảnh hưởng đến thuế đối với thương mại quốc tế. Thứ hai, chỉ số kiểm soát tham nhũng góp phần tích cực trong việc tăng thu thuế thu nhập và thương mại quốc tế. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bài viết gợi ý một số hàm ý chính sách về cấu trúc thuế cho Việt Nam: - Chú trọng quản lý và khai thác nguồn thu hiện tại hiệu quả hơn, nâng cao chất lượng quản lý thuế, cải cách thủ tục, quy trình kê khai, nộp thuế, hoàn thiện và kiểm tra thuế. - Bên cạnh đó, việc hình thành Cộng đồng Kinh tế (AEC) sẽ mang lại cả lợi ích và thách thức cho Việt Nam do phải thực hiện cắt giảm hoàn toàn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu từ cộng đồng AEC về 0% vào năm 2018; như vậy, mức độ thâm hụt ngân sách có thể gia tăng trong thời gian tới. Theo kết quả nghiên cứu về tác động của Việt Nam tham gia AEC cho thấy nguồn thu ngân sách có thể bị giảm do xóa bỏ thuế nhập khẩu lên đến 320 triệu USD, tương đương với 75% tổng số thu thuế quan từ nhập khẩu ASEAN. Hơn nữa trong cơ cấu nguồn thu Ngân sách Nhà nước, tỷ trọng thu từ thuế xuất nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt hiện chiếm tỷ trọng trên dưới 20%, chứng tỏ nguồn thu Ngân sách Nhà nước đang phụ thuộc lớn vào các loại thuế này. - Theo thống kê về số thu Ngân sách Nhà nước từ xuất nhập khẩu so với quy mô GDP hàng năm, Việt Nam là một quốc gia có độ mở cửa rất lớn và tăng trưởng kinh tế phần lớn dựa vào xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài. Tuy Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO Adam, C. S., Bevan, D. L., & Chambas, G. (2001). Exchange rate regimes and revenue performance in Sub- Saharan Africa. Journal of Development Economics, 64(1), 173-213. Abed, M. G. T. (1998). Trade Liberalization and Tax Reform in the Southern Mediterranean Region. International Monetary Fund. Aitken, A. C., 1934. On Least-squares and Linear Combinations of Observations. Proceedings of the Royal Society of Edinburgh 55: 42–48. Agbeyegbe, T. D., Stotsky, J., & WoldeMariam, A. (2006). Trade liberalization, exchange rate changes, and tax revenue in Sub-Saharan Africa. Journal of Asian Economics, 17(2), 261-284. Arellano, M., & Bond, S. (1991). Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence and an application to employment equations. The review of economic studies, 58(2), 277-297. Baunsgaard, T., & Keen, M. (2010). Tax revenue and (or?) trade liberalization. Journal of Public Economics, 94(9-10), 563-577. Bellak, C., & Leibrecht, M. (2009). Do low corporate income tax rates attract FDI?–Evidence from Central- and East European countries. Applied Economics, 41(21), 2691-2703. Brennan, G., & Buchanan, J. M. (1980). The power to tax: Analytic foundations of a fiscal constitution. Cambridge University Press. Cagé, J., & Gadenne, L. (2014). The fiscal cost of trade liberalization. Castro, G. Á., & Camarillo, D. B. R. (2014). Determinants of tax revenue in OECD countries over the period 2001–2011. Contaduría y Administración, 59(3), 35-59. Christian Bellak* and Markus Leibrecht (2009). Do low corporate income tax rates attract FDI? – Evidence from Central- and East European countries. Applied Economics, 2009, 41, 2691–2703. Dadgar, Y., 1999. Public finance and the economy government, 1st print. Tehran: Noor Elm Publications. Ebrill, L., Stotsky J., & Gropp, R. (1999). Revenue Implications of Trade Liberalization, IMF Occasional Paper 99/80. Washington: International Monetary Fund. Ebrill, L. P., Keen, M., Bodin, J. P., & Summers, V. P. (2001). The modern VAT. International Monetary Fund. Edwards, C., & Mitchell, D. J. (2008). Global tax revolution: the rise of tax competition and the battle to defend it. Cato Institute. Karimi, M., Kaliappan, S. R., Ismail, N. W., & Hamzah, H. Z. (2016). The Impact of Trade Liberalization on Tax Structure in Developing Countries. Procedia Economics and Finance, 36, 274-282. Keen, M., & Ligthart, J. E. (2002). Coordinating tariff reduction and domestic tax reform. Journal of international economics, 56(2), 489-507. Kenny, L. W., & Winer, S. L. (2006). Tax systems in the world: An empirical investigation into the importance of tax bases, administration costs, scale and political regime. International Tax and Public Finance, 13(2-3), 181-215. Keen, M., & Simone, A. (2004). Tax policy in developing countries: some lessons from the 1990s and some challenges ahead. Helping countries develop: The role of fiscal policy, 302. Glenday, G. (2002). Trade Liberalization and Customs Revenue: Does Trade Liberalization Lead to Lower Customs Revenue? The Case of Kenya. Journal of African Finance and Economic Development, 5(2), 89-125. miễn giảm thuế đối với thu nhập từ ngành nông nghiệp... của các đơn vị sản xuất; (iii) Miễn, giảm thuế TNCN đối với thu nhập từ sản phẩm nông nghiệp, thu nhập từ cổ tức đầu tư vào ngành nông nghiệp... Như vậy, chính sách miễn giảm thuế để phát triển nông nghiệp sẽ tiếp tục làm giảm số thu thuế từ lĩnh vực này trong thời gian tới của Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020 14 Greenaway, D., Morgan, W., & Wright, P. (2002). Trade liberalisation and growth in developing countries. Journal of development economics, 67(1), 229-244. Gastaldi, F., Liberati, P., & Scialà, A. (2011). Economic integration, tax erosion, and decentralisation: an empirical analysis. Hinrichs, H. H. (1966). A general theory of tax structure change during economic development. A general theory of tax structure change during economic development. Heckelman, J. C. & Powell, B. (2010). Corruption and the institutional environment for growth. Comparative Economic Studies, 52(3), 351-378. Lee, Y., & Gordon, R. H. (2005). Tax structure and economic growth. Journal of public economics, 89(5-6), 1027-1043. Lotz, J. R., & Morss, E. R. (1967). Measuring “tax effort” in developing countries. Staff Papers, 14(3), 478-499. James, S. R., & Nobes, C. (2016). Economics of Taxation: Principles, Policy and Practice. Fiscal Publications. Rao, M. G. (2000). Tax reform in India: achievements and challenges. Asia Pacific Development Journal, 7(2), 59-74. Paul R.Krugman- Maurice Obstfeld: Kinh tế học quốc tế- lý thuyết và chính sách; tập I (Những vấn đề về thương mại quốc tế); NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 1996. Pazhoyan and Jamshid, 2012. Public sector economics taxes, 9st print. Tehran: Jangal Publications. Persson, T., & Tabellini, G. E. (2002). Political economics: explaining economic policy. MIT press. Tanzi, V. (1989). The impact of macroeconomic policies on the level of taxation and the fiscal balance in developing countries. Staff Papers, 36(3), 633-656. Thomas Baunsgaard and Michael Keen (2010). Tax Revenue and (or?) Trade Liberalization. Tosun, M. S. (2006). The tax structure and trade liberalization of the Middle East and North Africa region. Review of Middle East Economics and Finance, 3(1), 21-38. Tosun, M. S., & Abizadeh, S. (2005). Economic growth and tax components: an analysis of tax changes in OECD. Applied Economics, 37(19), 2251.
File đính kèm:
cau_truc_thue_va_tu_do_hoa_thuong_mai_nghien_cuu_thuc_nghiem.pdf