Cấu trúc thuế và tự do hóa thương mại: nghiên cứu thực nghiệm tại các nước ASEAN

Tóm tắt

Mục đích của nghiên cứu là xem xét tác động của tự do hóa thương mại đến cấu trúc thuế tại sáu

nước đang phát triển trong khối ASEAN - 6 (Campuchia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái

Lan và Việt Nam) giai đoạn 2000-2017. Bằng việc sử dụng các phương pháp ước lượng FEM,

REM, GLS đối với dữ liệu bảng, kết quả thực nghiệm cho thấy tự do hóa thương mại tác động tích

cực đến thuế đối với hàng hóa và dịch vụ, tiêu cực đến thuế đối với thu nhập và lợi nhuận nhưng lại

không làm ảnh hưởng đến thuế đối với thương mại quốc tế. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đưa ra một

số gợi ý chính sách cho cấu trúc thuế tại Việt Nam.

Từ khóa: ASEAN, cấu trúc thuế, tự do hóa thương mại.

pdf 14 trang phuongnguyen 240
Bạn đang xem tài liệu "Cấu trúc thuế và tự do hóa thương mại: nghiên cứu thực nghiệm tại các nước ASEAN", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cấu trúc thuế và tự do hóa thương mại: nghiên cứu thực nghiệm tại các nước ASEAN

Cấu trúc thuế và tự do hóa thương mại: nghiên cứu thực nghiệm tại các nước ASEAN
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020
1
được cắt giảm; và (3) các biện pháp phi thuế 
quan đã được giảm bớt (Baunsgaard & Keen, 
2010) nhằm tạo môi trường kinh doanh thông 
thoáng cho các doanh nghiệp. Đồng thời tăng 
sức ép cạnh tranh giữa các nền kinh tế khi đứng 
trước áp lực cắt giảm thuế quan và nới lỏng 
các rào cản thương mại. Tổng số thu thuế sẽ 
thay đổi khi số thu thuế từ hoạt động xuất nhập 
khẩu giảm (Ebrill, Stosky & Gropp, 1999), tạo 
1. Giới thiệu
Tự do hóa thương mại đã trở thành xu thế 
khách quan, lôi cuốn các nước, vừa thúc đẩy 
hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh giữa các 
nền kinh tế. Tự do hóa thương mại chủ yếu thúc 
đẩy của các nước đi theo ba hướng: (1) những 
hạn chế về quyền thương mại (tức là quyền xuất 
nhập khẩu) đã được nới lỏng; (2) thuế quan đã 
____________________________________________________
1 Trường Đại học Tài chính – Marketing
CẤU TRÚC THUẾ VÀ TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI:
NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI CÁC NƯỚC ASEAN
TRADE LIBERALIZATION AND TAX STRUCTURE: 
NEW EVIDENCE FROM ASEAN COUNTRIES
Hồ Thủy Tiên, Trần Xuân Hằng1
Ngày nhận bài: 16/9/2019 Ngày chấp nhận đăng: 11/11/2019 Ngày đăng: 05/06/2020
Tóm tắt
Mục đích của nghiên cứu là xem xét tác động của tự do hóa thương mại đến cấu trúc thuế tại sáu 
nước đang phát triển trong khối ASEAN - 6 (Campuchia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái 
Lan và Việt Nam) giai đoạn 2000-2017. Bằng việc sử dụng các phương pháp ước lượng FEM, 
REM, GLS đối với dữ liệu bảng, kết quả thực nghiệm cho thấy tự do hóa thương mại tác động tích 
cực đến thuế đối với hàng hóa và dịch vụ, tiêu cực đến thuế đối với thu nhập và lợi nhuận nhưng lại 
không làm ảnh hưởng đến thuế đối với thương mại quốc tế. Trên cơ sở đó, nghiên cứu đưa ra một 
số gợi ý chính sách cho cấu trúc thuế tại Việt Nam.
Từ khóa: ASEAN, cấu trúc thuế, tự do hóa thương mại.
Abstract
The purpose of the study examines the impact of trade liberalization on tax structures from 
ASEAN-6 countries (Cambodia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thailand and Vietnam) for the 
period 2000-2017. Applying estimation FEM, REM, GLS methods for panel, the empirical results 
show that trade liberalization positively affects taxes on goods and services. In addition, the trade 
liberalization has a negative impact on taxes on income, profits and capital gain while the effect of 
the trade liberalization on taxes on international trade is not clear in the surveyed countries. On 
that basis, the study provides some policy suggestions for tax structure in Vietnam
Keywords: ASEAN, tax structure, trade liberalization. 
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020
2
chiến lược cụ thể vì không thể có “một khuôn 
mẫu phù hợp cho mọi quốc gia”.
Cấu trúc thuế của một quốc gia bao gồm 
nhiều loại thuế khác nhau, có thể được chia 
thành ba loại chung: thuế đối với thu nhập và 
lợi nhuận, thuế đối với hàng hóa và dịch vụ và 
thuế đối với thương mại quốc tế. Thuế thu nhập 
cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp là các 
thành phần chính của thuế đối với thu nhập và 
lợi nhuận, đôi khi có thể tính đến thuế lãi vốn. 
Thuế bán hàng chung và thuế tiêu thụ đặc biệt 
là thành phần chính của thuế đối với hàng hóa 
dịch vụ. Thuế bán hàng chung có hình thức ở 
hầu hết các quốc gia có thuế giá trị gia tăng 
nhưng cũng có thể ở dạng doanh thu hoặc thuế 
bán lẻ. Thuế đối với thương mại quốc tế là thuế 
đánh vào các hàng hóa tham gia vào quá trình 
xuất hoặc nhập khẩu.
Thuế đối với thu nhập và lợi nhuận: mặc dù 
thu nhập bình quân đầu người khu vực ASEAN 
còn thấp (Hình 1) nhưng nguồn thu từ thuế thu 
nhập cũng đóng góp khoảng một phần ba tổng 
doanh thu thuế. Theo thời gian hầu hết các quốc 
gia đã thực hiện các sửa đổi về chính sách thuế 
nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho 
doanh nghiệp cũng như phù hợp với xu thế 
quốc tế. Xu hướng chung của các quốc gia hiện 
nay là giảm thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm 
khuyến khích đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng. Tự 
do hóa thương mại chủ yếu sẽ có ảnh hưởng đến 
thu nhập thông qua những thay đổi về tính linh 
hoạt của hàng hóa nhập khẩu và các nhà sản 
xuất nội địa thay thế hàng hóa nhập khẩu trong 
ngắn hạn và dài hạn. Dựa trên tính cạnh tranh 
thuế và hài hòa thuế, tự do hóa thương mại sẽ 
làm giảm thuế thu nhập của các quốc gia.
Thuế đối với hàng hóa và dịch vụ: hầu hết 
ở các nước đang phát triển, bao gồm cả những 
nước khu vực ASEAN, thuế đánh vào hàng 
hóa và dịch vụ (còn gọi là thuế gián thu) là 
một nguồn thu đáng kể (Ebrill, Keen, Bodin 
& Summers, 2001). Trong đó chiếm một tỷ lệ 
lớn đến từ hoạt động xuất, nhập khẩu. Tự do 
áp lực lên cán cân ngân sách. Ngoài ra, một 
số quốc gia trên thế giới xếp hạng môi trường 
đầu tư kinh doanh sẽ dựa trên tiêu chí sử dụng 
thành phần thuế. Bằng chứng là nghiên cứu của 
Bellak và Leibrecht (2009) kết luận mức thuế 
suất tác động tiêu cực đến khả năng sinh lợi của 
vốn đầu tư.
Trong điều kiện như vậy, một quốc gia có 
chính sách thuế thích hợp sẽ nâng cao được 
hiệu quả sản xuất kinh doanh, đảm bảo nguồn 
thu cho Ngân sách Nhà nước và đảm bảo độ 
an toàn trong quá trình hội nhập kinh tế. Một 
cấu trúc thuế tốt để thu hút các doanh nghiệp 
và tăng cường phát triển nền kinh tế là điều cần 
thiết. Tuy nhiên, việc hoạch định chính sách 
thuế không đơn giản là vấn đề chủ quyền hoàn 
toàn độc lập của một quốc gia, mà những nhân 
tố toàn cầu hóa đã nhanh chóng trở thành những 
lực lượng khách quan chi phối xu hướng cải 
cách thuế, của bất cứ nước nào có tham gia vào 
mối quan hệ kinh tế quốc tế và tùy theo mức 
độ của mỗi quốc gia. Xu hướng các nguồn thu 
thuế của các nước đặc biệt là các nước khu vực 
ASEAN sẽ như thế nào và sự thay đổi cấu trúc 
thuế do tác động của tự do hóa thương mại sẽ ra 
sao là những vấn đề đáng quan tâm.
2. Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu 
thực nghiệm
2.1. Cấu trúc thuế
Hinrichs (1966) cho rằng không có một hệ 
thống thuế nào tốt nhất cho tất cả các quốc gia 
hoặc cho bất kỳ một quốc gia nào trong suốt 
thời gian. Qua quá trình phát triển, hệ thống 
thuế ở các quốc gia cũng được thay đổi đáng 
kể. Một trong những lý do quan trọng nhất là 
muốn tiến tới một hệ thống thuế đáp ứng yêu 
cầu của nền kinh tế thị trường và đảm bảo tính 
cạnh tranh quốc tế (Rao, 2000). Lee & cộng sự 
(2005) nhấn mạnh các nước đang phát triển gặp 
khó khăn trong việc mở rộng quy mô thu thuế 
một cách hiệu quả và công bằng, điều này lại 
tùy thuộc vào khả năng thu thuế. Do đó, các 
nước này phải có một tầm nhìn dài hạn và các 
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020
3
2.2. Tự do hóa thương mại tác động đến 
cấu trúc thuế
Tự do hóa thương mại là một thuật ngữ toàn 
diện và nó không chỉ bao gồm dòng chảy của 
hàng hóa và dịch vụ mà còn cả những ý tưởng 
và giá trị khoa học và văn hóa trên khắp các 
nước trên thế giới. Nó cũng tạo điều kiện cho 
dòng chảy của vật chất, tài chính và thậm chí 
cả vốn con người trên biên giới. Tự do hóa 
thương mại có thể cải thiện hiệu quả kinh tế và 
có thể hữu ích trong việc thúc đẩy tăng trưởng 
kinh tế thông qua các tác động trong công 
nghệ. Những lý thuyết trước đây về thương 
mại tự do như Lợi thế tuyệt đối của Smith 
(1776) và Lợi thế so sánh của Ricardo (1817) 
dựa trên khái niệm rằng thương mại tự do sẽ 
dẫn đến phân bổ hiệu quả các nguồn lực giữa 
các quốc gia thương mại.
Mặc dù đem lại nhiều lợi ích, tự do hóa 
thương mại vẫn bị chỉ trích trên cơ sở rằng nó 
có thể có một tác động tiêu cực đến cuộc sống 
của người dân của các quốc gia đang phát triển. 
Nó có thể gây ra các bệnh xã hội như đói nghèo, 
bất bình đẳng và suy thoái môi trường. Bên 
cạnh đó, tự do hóa thương mại cũng có thể dẫn 
đến mất nguồn thu thuế, điều này hạn chế khả 
năng chi tiêu của Chính phủ ở các nước đang 
phát triển.
Tự do hóa thương mại có thể tạo ra bất ổn 
tài chính cho các nước đang phát triển vì thuế 
thương mại quốc tế chiếm tỷ trọng lớn trong 
tổng thu thuế. Tổng số thu thuế trong nước như 
là một phần của GDP thường thấp ở các nền 
kinh tế đang phát triển do quản lý thuế không 
phức tạp, khu vực phi chính thức lớn, thuế thu 
nhập nông nghiệp không đáng kể, miễn giảm và 
trốn thuế phổ biến. Để tìm kiếm các nguồn tài 
nguyên thay thế của doanh thu thuế đối với tổn 
thất doanh thu thương mại là không dễ dàng bởi 
vì họ không có khả năng mang lại sự thay đổi 
hơn nữa trong cơ cấu thuế trong nước.
Dễ dàng nhận thấy tự do hóa thương mại 
có tác động đến tỷ trọng của thuế thương mại 
hóa thương mại làm cho giá trị nhập khẩu tăng 
lên, bù đắp cho mức giảm này do thay đổi thuế 
quan. Ngoài ra, doanh thu thuế có thể giảm do 
sản lượng hàng hóa thay thế nhập khẩu giảm. 
Thông thường hiệu quả thu thuế đối với hàng 
hóa, dịch vụ nội địa thấp hơn so với hàng nhập 
khẩu. Tuy nhiên, về lâu dài nếu tăng trưởng 
kinh tế tăng do tự do hóa thương mại, cơ sở 
thuế có khả năng mở rộng. Sự mất giá thực sự 
của tiền tệ sẽ dẫn đến sự gia tăng thuế tiêu thụ 
đặc biệt và thuế GTGT từ hàng nhập khẩu, gánh 
nặng thuế đối với hàng hóa và dịch vụ chủ yếu 
được chuyển sang người tiêu dùng thông qua 
điều chỉnh giá. 
Thuế đối với thương mại quốc tế: thuế đánh 
vào các hàng hóa tham gia vào quá trình xuất 
hoặc nhập khẩu. Trong tiến trình tự do hóa 
thương mại, các quốc gia tham gia vào các tổ 
chức quốc tế, ký kết các hiệp định thương mại 
tự do vì thế các dòng thuế sẽ lần lượt được cắt 
giảm gây ảnh hưởng đến số thu thuế từ hoạt 
động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, trong dài hạn 
số thu đó có thể được bù đắp bằng sự gia tăng 
sản lượng hàng hóa.
0
20
40
60
80
100
OT
TIT
TIPC
TGS
Nguồn: Tính toán của tác giả theo WDI
Hình 1. Cấu trúc thuế của các quốc gia 
ASEAN giai đoạn 2000-2017
Trong đó: 
- Thuế đối với hàng hóa và dịch vụ - TGS
- Thuế đối với thu nhập và lợi nhuận - TIPC
- Thuế đối với thương mại quốc tế - TIT
- Thuế khác – OT
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020
4
phân tích chính trị (Persson & Tabellini, 2002). 
Theo quan điểm tài chính công chuẩn tắc, hoạt 
động thu, chi của Chính phủ cần hướng đến tối 
đa hóa hiệu quả kinh tế. Vì vậy, các nghiên cứu 
này thường dựa trên giả định rằng Chính phủ là 
“các chính trị gia nhân từ”, luôn quyết định các 
chính sách dựa trên cơ sở tối đa hóa lợi ích xã 
hội. Tuy nhiên, các nghiên cứu ủng hộ thường 
phải lý thuyết lựa chọn công (public choice) và 
lý thuyết kinh tế chính trị (political economic) 
thường chỉ trích giả định phổ biến này. Như 
Deither (1999) nhận định, “Chính phủ không 
phải là những người cầm quyền nhân từ, những 
người cố gắng để tối đa hóa lợi ích xã hội, cấu 
trúc quản trị công trở nên phức tạp bởi mối quan 
hệ giữa các cơ quan công quyền”. 
Công chức và bộ máy Chính phủ có tính chất 
như là nhà độc quyền và đơn giản cố gắng tối đa 
hóa quy mô khu vực công, tăng số thu thuế. Số 
thu thuế tăng ổn định, cơ sở thuế tối ưu là một 
trong những nguyên nhân gây ra việc mất đi 
lợi nhuận của người nộp thuế. Chính phủ tăng 
thu thuế đồng nghĩa việc người nộp thuế sẽ tìm 
cách né tránh khoản thu này. Họ yêu cầu Chính 
phủ phải bị hạn chế quyền ấn định mức thuế 
suất và chỉ được áp một mức thuế suất ổn định. 
Mô hình gây ra thất bại của Chính phủ là sự 
không có khả năng hoặc không sẵn lòng hành 
động theo hướng quan tâm tới sở thích của công 
chúng. Quan điểm trên cũng giúp cho giải thích 
quy luật về mối quan hệ giữa bàn tay Chính phủ 
với thuế và chi tiêu công.
2.3.2. Lý thuyết cạnh tranh thuế
Lý thuyết về cạnh tranh thuế chỉ ra, chính 
sách thuế giữa các quốc gia không độc lập mà 
có sự tương tác. Theo Edwards & Mitchell 
(2008), do khác biệt về chính sách thuế giữa các 
quốc gia, một bộ phận người nộp thuế sẽ thực 
hiện “Voted by their feet” – “bỏ phiếu bằng 
chân”. Nghĩa là, các nhà đầu tư sẽ dịch chuyển 
từ cộng đồng (quốc gia) có thuế suất cao sang 
cộng đồng có thuế suất thấp hơn để nhận được 
phần lợi nhuận sau thuế là lớn nhất. Quá trình 
này dẫn đến chính sách thuế của quốc gia này 
quốc tế trong tổng số thu thuế vì một đặc điểm 
luôn tồn tại trong tiến trình tự do hóa thương 
mại chính là loại bỏ các hàng rào thuế quan 
với hàng nhập khẩu. Mối quan hệ chính xác thì 
còn phụ thuộc vào nhiều biến số, bao gồm bản 
chất của tự do hóa thương mại và phản ứng của 
nhập khẩu và xuất khẩu đối với tự do hóa. Tùy 
thuộc vào mức thuế quan được thiết lập và sự 
thay đổi trong giá trị hàng nhập khẩu sau khi áp 
dụng tự do hóa thương mại, tỷ trọng của thuế 
thương mại quốc tế có thể tăng hoặc giảm. Nếu 
các quốc gia cắt giảm thuế quan nhưng không 
có các biện pháp để thúc đẩy hoạt động thương 
mại quốc tế thì sẽ dẫn đến giảm số thu thuế 
thương mại quốc tế. Một khi tỷ trọng của thuế 
thương mại quốc tế thay đổi chắc chắn; và phụ 
thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cấu trúc của 
hệ thống thuế và khả năng quản lý hành chính. 
Thường tự do hóa thương mại đi kèm với việc 
thay đổi chính sách thuế giá trị gia tăng hoặc 
các sắc thuế quan trọng khác trong nước.
Tự do hóa thương mại mang lại những thách 
thức tài chính mới, đặc biệt là đối với các nước 
đang phát triển vì họ có mức thu nhập thuế thấp 
so với tỷ lệ GDP. Khi tự do hóa thương mại, các 
nước phát triển có thể bù đắp sự sụt giảm thuế 
thương mại quốc tế bằng các hình thức thuế nội 
địa khác bởi vì họ có chất lượng thể chế cao và 
hệ thống quản trị hiệu quả. Nhưng trong trường 
hợp các nước đang phát triển, họ phải đối mặt 
với cả hai vấn đề chất lượng thể chế thấp và hệ 
thống quản trị còn nhiều bất cập. Vì vậy, các 
nền kinh tế này không thể chuyển gánh nặng 
thuế thương mại quốc tế sang cho các sắc thuế 
nội địa.
2.3. Lý thuyết cấu trúc thuế
2.3.1. Lý thuyết lựa chọn công (mô hình 
Leviathan)
Mô hình Leviathan hay Lý thuyết lựa chọn 
công được phát triển bởi Brennan và Buchanan 
(1980). Lý thuyết lựa chọn công chủ yếu tiếp cận 
ở khía cạnh thể chế chính trị. Các phân tích về 
tài chính công cần kết hợp phân tích kinh tế và 
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020
5
Khả năng thu các loại thuế khác nhau trong 
một nền kinh tế có thể được xác định bằng thu 
nhập bình quân đầu người, tỷ trọng ngành nông 
nghiệp trong GDP. Thu nhập bình quân đầu 
người được đại diện cho sự phát triển chung của 
nền kinh tế và được dự kiến tương quan cùng 
chiều với số thu thuế bởi vì nó được dự kiến sẽ 
là một chỉ số tốt về tổng thể mức độ phát triển 
kinh tế. Hơn nữa, theo quy luật Wagner, nhu 
cầu về các dịch vụ của Chính phủ thì co giãn 
theo thu nhập, vì vậy phần hàng hóa và dịch vụ 
được Chính phủ cung cấp dự kiến sẽ tăng lên 
theo thu nhập. Về mặt lý thuyết cho rằng tổng 
số thuế tăng lên khi mức độ phát triển kinh tế 
tăng. Thu nhập bình quân đầu người được sử 
dụng như một thước đo phát triển. Thu nhập 
bình quân đầu người cao hơn dẫn đến mức độ 
phát triển cao hơn, cuối cùng tạo ra khả năng 
trả thuế cao hơn cũng như khả năng thu tiền và 
thu thuế cao hơn (Chelliah, 1971). Hầu hết các 
nghiên cứu cho thấy hai đại lượng này có mối 
tương quan cùng chiều. Tỷ  ... 0
.0
09
2
L
IB
0.
03
42
**
*
0.
01
53
0.
03
42
**
*
-0
.0
31
9*
*
0.
03
07
*
-0
.0
31
9*
*
0.
02
61
**
-0
.0
45
8*
**
0.
02
61
**
-0
.0
05
8*
*
0.
01
26
**
*
-0
.0
05
8*
*
P
O
P
-1
3.
18
88
**
*
-3
.6
69
6
-1
3.
18
88
**
*
2.
40
20
**
-6
.6
99
8*
**
2.
40
20
**
5.
37
50
**
*
0.
30
19
5.
37
50
**
*
2.
03
56
**
*
0.
53
19
2.
03
56
**
*
E
D
U
0.
03
32
-0
.1
77
5*
**
0.
03
32
-0
.3
28
8*
**
-0
.2
85
8*
**
-0
.3
28
8*
**
0.
18
41
**
0.
14
00
**
*
0.
18
41
**
0.
02
18
0.
03
20
*
0.
02
18
G
O
V
-0
.0
09
6
0.
03
31
-0
.0
09
6
-1
.2
73
2*
**
0.
35
03
-1
.2
73
2*
**
0.
91
91
**
*
-0
.8
95
6*
**
0.
91
91
**
*
-0
.0
40
7
-0
.0
03
6
-0
.0
40
7
G
D
P
-0
.0
00
9*
**
0.
00
06
-0
.0
00
9*
**
0.
00
01
0.
00
07
0.
00
01
-0
.0
02
8*
**
-0
.0
01
7*
**
-0
.0
02
8*
**
-0
.0
00
2*
**
0.
00
00
-0
.0
00
2*
**
co
ns
43
.1
12
3*
**
64
.2
49
0*
**
43
.1
12
3*
**
89
.4
31
5*
**
62
.5
98
6*
**
89
.4
31
5*
**
-2
5.
50
05
**
*
9.
02
48
-2
5.
50
05
**
*
2.
28
59
-3
.9
74
5*
2.
28
59
N
10
8
10
8
10
8
10
8
10
8
10
8
10
8
10
8
10
8
10
8
10
8
10
8
V
IF
4.
39
4.
39
4.
39
4.
39
F
 t
es
t
P
ro
b 
>
 F
 =
 0
.0
00
0
P
ro
b 
>
 F
 =
 0
.0
00
0
P
ro
b 
>
 F
 =
 0
.0
00
0
P
ro
b 
>
 F
 =
 0
.0
00
0
H
au
sm
an
0.
00
00
0.
00
00
0.
00
00
0.
00
00
W
oo
ld
ri
dg
e 
Te
st
P
ro
b>
F
 =
 0
.0
34
4
P
ro
b 
>
 F
 =
0.
00
09
P
ro
b 
>
 F
 =
0.
01
91
P
ro
b 
>
 F
 =
0.
04
25
W
al
d 
te
st
P
ro
b>
ch
i2
 =
0.
00
00
P
ro
b>
ch
i2
 =
0.
00
00
P
ro
b>
ch
i2
 =
0.
00
00
P
ro
b>
ch
i2
 =
0.
00
00
G
hi
 c
hú
: 
**
*,
 *
*,
 *
 c
ó 
m
ức
 ý
 n
gh
ĩa
 th
ốn
g 
kê
 lầ
n 
lư
ợt
 là
 1
%
, 5
%
 v
à 
10
%
N
gu
ồn
: 
T
ín
h 
to
án
 c
ủa
 tá
c 
gi
ả
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020
11
nguồn thu quan trọng của ngân sách đặc biệt là 
các nước có tỉ lệ thâm hụt ngân sách cao như 
Việt Nam, Malaysia, Philippines. Ưu đãi thuế 
nhằm thu hút đầu tư là chính sách hàng đầu 
của các nước đang phát triển hiện nay, nên việc 
giảm số thu từ các loại thuế này là điều khó 
tránh khỏi. 
Ngoài ra, tỷ trọng nông nghiệp (AGR) tác 
động tích cực đến thuế đối với hàng hóa dịch 
vụ, thuế đối với thương mại quốc tế, thuế khác 
nhưng tiêu cực đến thuế thu nhập và lợi nhuận. 
Kết quả này có thể được giải thích vì các nước 
triển khai chính sách thuế nhằm thúc đẩy ngành 
nông nghiệp phát triển như: (i) Tiếp tục miễn 
nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp cho tới sau 
năm 2020; (ii) Tập trung ưu đãi thuế TNDN 
đối với sản xuất máy móc thiết bị, dây chuyền, 
các sản phẩm đầu vào cho ngành nông nghiệp; 
miễn giảm thuế đối với thu nhập từ ngành nông 
nghiệp... của các đơn vị sản xuất; (iii) Miễn, 
giảm thuế TNCN đối với thu nhập từ sản phẩm 
nông nghiệp, thu nhập từ cổ tức đầu tư vào 
ngành nông nghiệp... Như vậy, chính sách miễn 
giảm thuế để phát triển nông nghiệp sẽ tiếp tục 
làm giảm số thu thuế từ lĩnh vực này trong thời 
gian tới.
Chỉ số kiểm soát tham nhũng có tác động tích 
cực đến thuế thu nhập và thuế đối với thương 
mại quốc tế điều này tương đồng với các kết 
quả nghiên cứu trước mà tác giả tham khảo.
Bảng 4 thể hiện kết quả hồi quy các biến 
trong mô hình. Kết quả cho thấy tự do hóa 
thương mại tác động khác nhau đến từng loại 
thuế. Tự do hóa thương mại có tác động tích 
cực đến thuế đối với hàng hóa và dịch vụ. Kết 
quả này tiếp tục ủng hộ quan điểm của Tosun 
(2005) , Gastaldi và cộng sự (2011). Điều này 
cho thấy các quốc gia mở cửa thương mại, 
giúp lưu lượng hàng hóa xuất nhập khẩu càng 
nhiều, vì thế thuế đánh trên sản lượng hàng hóa 
gia tăng. Tự do hóa thương mại tác động tiêu 
cực đến thuế đối với thu nhập và lợi nhuận. Ý 
nghĩa này cũng dễ dàng được giải thích trong 
xu hướng cạnh tranh thuế, bởi quá trình cắt 
giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 
(TNDN) tại các nước ASEAN những năm gần 
đây. Khi các nước này đang giảm dần mức 
thuế suất sẽ xuất hiện nguy cơ về một “cuộc 
đua tới đáy” (race to the bottom). Chẳng hạn, 
Việt Nam dần cắt giảm thuế suất từ 22% và 
đến năm 2016 còn 20%. Malaysia cũng giảm 
xuống còn 24% năm 2016.
Theo kết quả nghiên cứu này thì tự do hóa 
thương mại không tác động đến thuế đối với 
thương mại quốc tế. Điều này tương đồng với 
luận giải của tác giả khi sự sụt giảm về số thu 
thuế được bù đắp bằng sản lượng hàng hóa gia 
tăng. Các thuế khác bao gồm như thuế tài sản, 
thuế tài nguyên mặc dù đóng góp một tỉ lệ nhỏ 
trong tổng số thu thuế nhưng cũng là một trong 
Bảng 5. Kết quả ước lượng mô hình GLS
Biến TGS TIPC TIT OT 
AGR 0.1987* -1.0106*** 0.1616* -0.2211***
COR -0.0001 0.3297*** 0.1391*** -0.0146
LIB 0.0343*** -0.0300** 0.018 -0.0056***
POP -13.3295*** 2.0906** 4.4054*** 2.2349***
EDU 0.1049 -0.3239*** 0.1765*** 0.0223
GOV 0.0791 -1.0493*** 0.6278*** 0.0108
GDP -0.0010*** -0.0003 -0.0026*** -0.0002***
cons 34.6301*** 88.3323*** -19.6332*** 1.6735
N 108 108 108 108
Ghi chú: ***, **, * có mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 1%, 5% và 10%, Nguồn: tính toán của tác giả
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020
12
nhiên, lẽ ra kim ngạch xuất nhập khẩu tăng sẽ 
kéo theo thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ 
đặc biệt hàng nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng 
hàng nhập khẩu phải tăng theo, mặc dù hàng 
năm kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn tăng, nhưng 
thu thuế Ngân sách từ thuế lại giảm đi. Vấn đề 
này, được lý giải do thuế xuất nhập khẩu bị cắt 
giảm hoặc xóa bỏ theo các cam kết hội nhập. 
Riêng đối với cam kết nội khối AEC, thời gian 
cắt giảm hàng loạt sản phẩm, hàng hóa có thuế 
suất bằng 0% có hiệu lực từ năm 2018 trở đi. 
Vì vậy, trong ngắn hạn, quy mô thu Ngân sách 
Nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu sẽ vẫn 
duy trì, nhưng từ năm 2018 có thể lực giảm thu 
ngân sách sẽ rất rõ. Có thể giải thích vấn đề này 
với những lý do sau:
+ Việt Nam cam kết xóa bỏ gần 100% số 
dòng thuế, trong những mặt hàng xóa bỏ thuế 
có rất nhiều mặt hàng thuộc về nguyên liệu sản 
xuất hoặc hàng tiêu dùng phổ biến đang chiếm 
tỷ trọng lớn trong kim ngạch nhập khẩu như: 
dệt may, giày dép, đồ gỗ, hóa chất, gạo
+ Các nước thành viên trong FTA đều là đối 
tác thương mại chủ chốt của nước ta như: Hoa 
Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,...
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, ngành 
nông nghiệp Việt Nam đã có những bước phát 
triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng 
của nông - lâm - ngư nghiệp có xu hướng chậm 
lại trong thời gian gần đây, nông nghiệp chủ yếu 
phát triển theo chiều rộng, chưa bền vững; chất 
lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh của nhiều 
loại sản phẩm còn thấp Điều đó cho thấy 
cần phải tiếp tục thực hiện những chính sách 
hỗ trợ, trong đó có chính sách thuế, nhằm thúc 
đẩy ngành nông nghiệp. Qua nghiên cứu kinh 
nghiệm quốc tế và đối chiếu với chính sách thuế 
của Việt Nam cho thấy, vẫn còn nhiều dư địa để 
triển khai chính sách thuế nhằm thúc đẩy ngành 
nông nghiệp phát triển như: (i) Tiếp tục miễn 
nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp cho tới sau 
năm 2020; (ii) Tập trung ưu đãi thuế TNDN 
đối với sản xuất máy móc thiết bị, dây chuyền, 
các sản phẩm đầu vào cho ngành nông nghiệp; 
5. Kết luận và hàm ý chính sách
Nghiên cứu phân tích tác động của tự do 
hóa thương mại đến cấu trúc thuế tại các nước 
ASEAN giai đoạn 2000-2017 bằng phương 
pháp REM, FEM và GLS có kết quả như sau:
Thứ nhất, tự do hóa thương mại tác động 
tích cực đến thuế đối với hàng hóa và dịch vụ, 
tiêu cực đến thuế đối với thu nhập và lợi nhuận 
nhưng lại không làm ảnh hưởng đến thuế đối 
với thương mại quốc tế.
Thứ hai, chỉ số kiểm soát tham nhũng góp 
phần tích cực trong việc tăng thu thuế thu nhập 
và thương mại quốc tế.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, bài viết gợi 
ý một số hàm ý chính sách về cấu trúc thuế cho 
Việt Nam: 
- Chú trọng quản lý và khai thác nguồn thu 
hiện tại hiệu quả hơn, nâng cao chất lượng quản 
lý thuế, cải cách thủ tục, quy trình kê khai, nộp 
thuế, hoàn thiện và kiểm tra thuế. 
- Bên cạnh đó, việc hình thành Cộng đồng 
Kinh tế (AEC) sẽ mang lại cả lợi ích và thách 
thức cho Việt Nam do phải thực hiện cắt giảm 
hoàn toàn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa 
nhập khẩu từ cộng đồng AEC về 0% vào năm 
2018; như vậy, mức độ thâm hụt ngân sách có 
thể gia tăng trong thời gian tới. Theo kết quả 
nghiên cứu về tác động của Việt Nam tham gia 
AEC cho thấy nguồn thu ngân sách có thể bị 
giảm do xóa bỏ thuế nhập khẩu lên đến 320 
triệu USD, tương đương với 75% tổng số thu 
thuế quan từ nhập khẩu ASEAN. Hơn nữa trong 
cơ cấu nguồn thu Ngân sách Nhà nước, tỷ trọng 
thu từ thuế xuất nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt 
hiện chiếm tỷ trọng trên dưới 20%, chứng tỏ 
nguồn thu Ngân sách Nhà nước đang phụ thuộc 
lớn vào các loại thuế này.
- Theo thống kê về số thu Ngân sách Nhà 
nước từ xuất nhập khẩu so với quy mô GDP 
hàng năm, Việt Nam là một quốc gia có độ mở 
cửa rất lớn và tăng trưởng kinh tế phần lớn dựa 
vào xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài. Tuy 
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Adam, C. S., Bevan, D. L., & Chambas, G. (2001). Exchange rate regimes and revenue performance in Sub-
Saharan Africa. Journal of Development Economics, 64(1), 173-213.
Abed, M. G. T. (1998). Trade Liberalization and Tax Reform in the Southern Mediterranean Region. 
International Monetary Fund.
Aitken, A. C., 1934. On Least-squares and Linear Combinations of Observations. Proceedings of the Royal 
Society of Edinburgh 55: 42–48. 
Agbeyegbe, T. D., Stotsky, J., & WoldeMariam, A. (2006). Trade liberalization, exchange rate changes, and 
tax revenue in Sub-Saharan Africa. Journal of Asian Economics, 17(2), 261-284.
Arellano, M., & Bond, S. (1991). Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence and an 
application to employment equations. The review of economic studies, 58(2), 277-297.
Baunsgaard, T., & Keen, M. (2010). Tax revenue and (or?) trade liberalization. Journal of Public 
Economics, 94(9-10), 563-577.
Bellak, C., & Leibrecht, M. (2009). Do low corporate income tax rates attract FDI?–Evidence from Central-
and East European countries. Applied Economics, 41(21), 2691-2703.
Brennan, G., & Buchanan, J. M. (1980). The power to tax: Analytic foundations of a fiscal constitution. 
Cambridge University Press.
Cagé, J., & Gadenne, L. (2014). The fiscal cost of trade liberalization.
Castro, G. Á., & Camarillo, D. B. R. (2014). Determinants of tax revenue in OECD countries over the period 
2001–2011. Contaduría y Administración, 59(3), 35-59.
Christian Bellak* and Markus Leibrecht (2009). Do low corporate income tax rates attract FDI? – Evidence 
from Central- and East European countries. Applied Economics, 2009, 41, 2691–2703.
Dadgar, Y., 1999. Public finance and the economy government, 1st print. Tehran: Noor Elm Publications.
Ebrill, L., Stotsky J., & Gropp, R. (1999). Revenue Implications of Trade Liberalization, IMF Occasional 
Paper 99/80. Washington: International Monetary Fund.
Ebrill, L. P., Keen, M., Bodin, J. P., & Summers, V. P. (2001). The modern VAT. International Monetary 
Fund.
Edwards, C., & Mitchell, D. J. (2008). Global tax revolution: the rise of tax competition and the battle to 
defend it. Cato Institute.
Karimi, M., Kaliappan, S. R., Ismail, N. W., & Hamzah, H. Z. (2016). The Impact of Trade Liberalization on 
Tax Structure in Developing Countries. Procedia Economics and Finance, 36, 274-282.
Keen, M., & Ligthart, J. E. (2002). Coordinating tariff reduction and domestic tax reform. Journal of 
international economics, 56(2), 489-507.
Kenny, L. W., & Winer, S. L. (2006). Tax systems in the world: An empirical investigation into the 
importance of tax bases, administration costs, scale and political regime. International Tax and Public 
Finance, 13(2-3), 181-215.
Keen, M., & Simone, A. (2004). Tax policy in developing countries: some lessons from the 1990s and some 
challenges ahead. Helping countries develop: The role of fiscal policy, 302.
Glenday, G. (2002). Trade Liberalization and Customs Revenue: Does Trade Liberalization Lead to Lower 
Customs Revenue? The Case of Kenya. Journal of African Finance and Economic Development, 5(2), 
89-125.
miễn giảm thuế đối với thu nhập từ ngành nông 
nghiệp... của các đơn vị sản xuất; (iii) Miễn, 
giảm thuế TNCN đối với thu nhập từ sản phẩm 
nông nghiệp, thu nhập từ cổ tức đầu tư vào 
ngành nông nghiệp... Như vậy, chính sách miễn 
giảm thuế để phát triển nông nghiệp sẽ tiếp tục 
làm giảm số thu thuế từ lĩnh vực này trong thời 
gian tới của Việt Nam.
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 57, 06/2020
14
Greenaway, D., Morgan, W., & Wright, P. (2002). Trade liberalisation and growth in developing 
countries. Journal of development economics, 67(1), 229-244.
Gastaldi, F., Liberati, P., & Scialà, A. (2011). Economic integration, tax erosion, and decentralisation: an 
empirical analysis.
Hinrichs, H. H. (1966). A general theory of tax structure change during economic development. A general 
theory of tax structure change during economic development.
Heckelman, J. C. & Powell, B. (2010). Corruption and the institutional environment for growth. Comparative 
Economic Studies, 52(3), 351-378.
Lee, Y., & Gordon, R. H. (2005). Tax structure and economic growth. Journal of public economics, 89(5-6), 
1027-1043.
Lotz, J. R., & Morss, E. R. (1967). Measuring “tax effort” in developing countries. Staff Papers, 14(3), 
478-499.
James, S. R., & Nobes, C. (2016). Economics of Taxation: Principles, Policy and Practice. Fiscal Publications.
Rao, M. G. (2000). Tax reform in India: achievements and challenges. Asia Pacific Development Journal, 7(2), 
59-74.
Paul R.Krugman- Maurice Obstfeld: Kinh tế học quốc tế- lý thuyết và chính sách; tập I (Những vấn đề về 
thương mại quốc tế); NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 1996.
Pazhoyan and Jamshid, 2012. Public sector economics taxes, 9st print. Tehran: Jangal Publications.
Persson, T., & Tabellini, G. E. (2002). Political economics: explaining economic policy. MIT press.
Tanzi, V. (1989). The impact of macroeconomic policies on the level of taxation and the fiscal balance in 
developing countries. Staff Papers, 36(3), 633-656.
Thomas Baunsgaard and Michael Keen (2010). Tax Revenue and (or?) Trade Liberalization.
Tosun, M. S. (2006). The tax structure and trade liberalization of the Middle East and North Africa region. 
Review of Middle East Economics and Finance, 3(1), 21-38.
Tosun, M. S., & Abizadeh, S. (2005). Economic growth and tax components: an analysis of tax changes in 
OECD. Applied Economics, 37(19), 2251.

File đính kèm:

  • pdfcau_truc_thue_va_tu_do_hoa_thuong_mai_nghien_cuu_thuc_nghiem.pdf