Cấu trúc sở hữu và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam

TÓM TẮT

Nghiên cứu xem xét tác động của cấu trúc sở hữu, gồm bốn loại sở hữu (sở hữu tập trung, sở hữu

tổ chức, sở hữu nước ngoài, và sở hữu nhà nước), đến rủi ro của ngân hàng được đo bằng chỉ số

Z-score (chỉ số rủi ro ngược). Khung nghiên cứu thực nghiệm dựa trên phương pháp ước lượng

bình phương nhỏ nhất tổng quát (kiểm soát cho hiện tượng tự tương quan và phương sai sai số

thay đổi), để phân tích tập dữ liệu bảng không cân bằng của 21 ngân hàng thương mại cổ phần tại

Việt Nam từ 2010 đến 2018. Nghiên cứu sau đó tìm hiểu sâu hơn về vai trò điều tiết của nguyên tắc

thị trường (đại diện bởi biến niêm yết) lên mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro ngân hàng.

Kết quả cho thấy mối quan hệ nghịch giữa ba loại hình sở hữu (sở hữu tập trung, sở hữu tổ chức,

và sở hữu nhà nước) với rủi ro ngân hàng, riêng sở hữu nước ngoài chưa cho thấy mối quan hệ có

ý nghĩa thống kê trong mô hình tác động trực tiếp. Tuy nhiên, kết quả từ mô hình có biến tương

tác lại cho thấy cổ đông nước ngoài giúp tăng tính ổn định và giảm rủi ro trong các ngân hàng

niêm yết. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa sở hữu tổ chức và rủi ro được thúc đẩy mạnh hơn ở các

ngân hàng niêm yết, trong khi mối quan hệ giữa hai loại hình sở hữu còn lại (sở hữu tập trung, sở

hữu nhà nước) với rủi ro là không bị ảnh hưởng bởi việc niêm yết.

Từ khoá: Cấu trúc sở hữu, Rủi ro ngân hàng, Ngân hàng thương mại, Z-score

pdf 13 trang phuongnguyen 120
Bạn đang xem tài liệu "Cấu trúc sở hữu và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cấu trúc sở hữu và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Cấu trúc sở hữu và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(SI):SI1-SI13
Open Access Full Text Article Bài Nghiên cứu
Trường Đại học Bách Khoa - ĐHQG
TP.Hồ Chí Minh
Liên hệ
Phạm TiếnMinh, Trường Đại học Bách Khoa
- ĐHQG TP.Hồ Chí Minh
Email: ptminh@hcmut.edu.vn
Lịch sử
 Ngày nhận: 30/06/2019
 Ngày chấp nhận: 15/09/2019
 Ngày đăng: 31/12/2019
DOI : 10.32508/stdjelm.v3iSI.606
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Cấu trúc sở hữu và rủi ro của các ngân hàng thươngmại Việt Nam
Phạm TiếnMinh*, Bùi Huy Hải Bích
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Nghiên cứu xem xét tác động của cấu trúc sở hữu, gồm bốn loại sở hữu (sở hữu tập trung, sở hữu
tổ chức, sở hữu nước ngoài, và sở hữu nhà nước), đến rủi ro của ngân hàng được đo bằng chỉ số
Z-score (chỉ số rủi ro ngược). Khung nghiên cứu thực nghiệm dựa trên phương pháp ước lượng
bình phương nhỏ nhất tổng quát (kiểm soát cho hiện tượng tự tương quan và phương sai sai số
thay đổi), để phân tích tập dữ liệu bảng không cân bằng của 21 ngân hàng thươngmại cổ phần tại
Việt Nam từ 2010 đến 2018. Nghiên cứu sau đó tìm hiểu sâu hơn về vai trò điều tiết của nguyên tắc
thị trường (đại diện bởi biến niêm yết) lên mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro ngân hàng.
Kết quả cho thấy mối quan hệ nghịch giữa ba loại hình sở hữu (sở hữu tập trung, sở hữu tổ chức,
và sở hữu nhà nước) với rủi ro ngân hàng, riêng sở hữu nước ngoài chưa cho thấy mối quan hệ có
ý nghĩa thống kê trong mô hình tác động trực tiếp. Tuy nhiên, kết quả từ mô hình có biến tương
tác lại cho thấy cổ đông nước ngoài giúp tăng tính ổn định và giảm rủi ro trong các ngân hàng
niêm yết. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa sở hữu tổ chức và rủi ro được thúc đẩy mạnh hơn ở các
ngân hàng niêm yết, trong khi mối quan hệ giữa hai loại hình sở hữu còn lại (sở hữu tập trung, sở
hữu nhà nước) với rủi ro là không bị ảnh hưởng bởi việc niêm yết.
Từ khoá: Cấu trúc sở hữu, Rủi ro ngân hàng, Ngân hàng thương mại, Z-score
GIỚI THIỆU
Hệ thống ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong
sự phát triển kinh tế của đất nước. Một hệ thống
ngân hàng khoẻ mạnh với hệ thống quản trị công ty
tốt sẽ là nền tảng cho sự phát triển bền vững của nền
kinh tế1. Theo đó, cấu trúc sở hữu được xem là một
trong những cơ chế quản lý nội bộ (internal gover-
nance mechanisms) quan trọng trong hệ thống quản
trị công ty 2, có ảnh hưởng đến quản trị rủi ro của
ngân hàng. Thực tế cho thấy rủi ro vỡ nợ tăng cao xuất
phát từ quản trị công ty yếu kém của ngân hàng được
cho là một trong những nguyên nhân gây ra khủng
hoảng tài chính toàn cầu 2008 3. Cuộc khủng hoảng
có ảnh hưởng đến hầu hết các nền kinh tế vàViệtNam
(VN) cũng không phải ngoại lệ. Sau khủng hoảng,
tình hình kinh tế vĩ mô VN suy yếu kết hợp với năng
lực quản trị rủi ro yếu kém của hệ thống ngân hàng
thươngmại (NHTM), nợ quá hạn và nợ xấu của ngân
hàng bắt đầu tăng mạnh từ năm 2011, tỉ lệ nợ xấu ước
tính thận trọng có thể lên tới 17,21%, cao hơn nhiều
so với tỉ lệ được các ngân hàng công bố4. Trước tình
hình này, chính phủ đã có nhiều chính sách can thiệp
kịp thời, đặc biệt là quyết định 254/QĐ-TTg của thủ
tướng chính phủ phê duyệt đề án ”Cơ cấu lại hệ thống
tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”. Việc tái cấu
trúc hệ thống ngân hàng đã tạo ra những thay đổi về
cơ cấu sở hữu của các NHTM, kéo theo sự thay đổi về
rủi ro của ngân hàng5.
Tuy nhiên đa số các nghiên cứu đều tập trung vàomối
quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động,
khá ít nghiên cứu về mối quan hệ giữa cơ cấu sở hữu
và rủi ro của ngân hàng6. Tương tự tại VN, qua tìm
hiểu của tác giả, cũng có rất ít các nghiên cứu thực
nghiệm về chủ đề này cho ngành ngân hàng, đặc biệt
trong bối cảnh ngành ngân hàng đang có nhiều thay
đổi mạnh mẽ theo định hướng hội nhập quốc tế của
chính phủ. Tiêu biểu gần đây là nghiên cứu của Võ &
Mai7, nhưng mới chỉ tập trung vào một loại hình sở
hữu là sở hữu nước ngoài. Theo đó, nghiên cứu này sẽ
mở rộng thêmmột số loại hình sở hữu khác là sở hữu
tập trung, sở hữu tổ chức, và sở hữu nhà nước, cùng
với việc áp dụng chỉ số Z-score làm đại diện cho rủi ro
của ngân hàng. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn đi sâu
hơn vào phân tích vai trò điều tiết của các chuẩn mực
và nguyên tắc thị trường (market discipline), thông
qua việc niêm yết trên sàn chứng khoán, ảnh hưởng
đến mối quan hệ giữa các loại hình sở hữu và rủi ro
ngân hàng. Đây là điểm mới mà hiện chưa có nghiên
cứu nào đi sâu phân tích tại VN. Phần 2 của nghiên
cứu sẽ trình bày về cơ sở lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu, phần 3 thảo luận kết quả, và cuối cùng
phần 4 là kết luận và kiến nghị.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
Trích dẫn bài báo này: Minh P T, Bích B H H. Cấu trúc sở hữu và rủi ro của các ngân hàng thươngmại
Việt Nam. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 3(SI):SI1-SI13.
SI1
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(SI):SI1-SI13
Cơ sở lý thuyết
Nền tảng cho mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và
rủi ro được xây dựng dựa trên lý thuyết đại diện
(agency theory) của Jensen vàMeckling8 theo đó, vấn
đề người đại diện (agency problem) và mức độ rủi ro
của doanh nghiệp (DN) sẽ biến thiên theo đặc thù
từng loại cấu trúc sở hữu. Cấu trúc sở hữu khác nhau
dẫn đến các mối quan hệ khác nhau giữa người chủ
và người đại diện, cơ chế giám sát cũng sẽ khác nhau.
Lý thuyết này cho rằng hành vi gia tăng rủi ro bị ảnh
hưởng bởimâu thuẫn phát sinh do bất cân xứng thông
tin giữa người chủ và người đại diện. Vấn đề người đại
diện sẽ càng trầm trọng hơn trong các DN có cơ cấu
sở hữu phân tán, nhưng sẽ giảm trong các DN có cấu
trúc sở hữu tập trung vì các cổ đông lớn có nhiều động
lực để giám sát nhà quản lý, và thậm chí sẵn sàng thay
thế nhà quản lý trong trường hợp quản lý kém hiệu
quả9.
Bên cạnh đó, lý thuyết về quản trị công ty (QTCT)
cũng cho thấy ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu đến rủi
ro doanh nghiệp. Theo Tổ chức Hợp tác Phát triển
Kinh tế (OECD), quản trị công ty là một hệ thống
trong đó công ty được chỉ đạo và kiểm soát, bao hàm
mối quan hệ giữa ban giám đốc, hội đồng quản trị,
các cổ đông và các bên có quyền lợi liên quan khác.
Theo Shleifer & Vishny10, QTCT là cách thức mà các
nhà đầu tư bảo vệ quyền lợi của bản thân để chống
lại các phát sinh từ xung đột lợi ích giữa nhà quản lý
và cổ đông. Đối với ngành ngân hàng, Uỷ ban Basel
về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking
supervision) cũng đưa ra các nguyên tắc để nâng cao
quản trị công ty trong ngân hàng. Trong đó, cấu trúc
sở hữu làmột yếu tố quan trọng thuộcQTCT trong dự
báo chỉ số mất khả năng thanh toán của ngân hàng11.
QTCT yếu kém được cho là nguyên nhân dẫn đến rủi
ro tăng cao trong ngành ngân hàng và góp phần gây
nên khủng hoảng tài chính toàn cầu3. Các thách thức
trong QTCT liên quan đến cấu trúc sở hữu (như cổ
đông nội bộ hay cổ đông kiểm soát thực hiện các ảnh
hưởng cá nhân không phù hợp lên các hoạt động ngân
hàng) sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro ngân hàng, và
các ngân hàng có khả năng gia tăng rủi ro rất nhanh
theo cách mà khó có thể nhận diện dễ dàng bởi các
nhà đầu tư 12.
Nghiên cứu của Saunders và cộng sự 13 được xem là
một trong những nghiên cứu thực nghiệm đầu tiên
về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro trong
lĩnh vực ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy
ngân hàng được kiểm soát bởi các cổ đông lớn sẽ có
xu hướng chấp nhận nhiều rủi ro hơn các ngân hàng
được kiểm soát bởi nhà quản lý. Nhiều nghiên cứu
thực nghiệm sau đó cũng cho thấy mối quan hệ giữa
cấu trúc sở hữu và rủi ro ngân hàng, tuy nhiên kết quả
là không nhất quán5,14. Barry và cộng sự15 cũng có
cùng kết luận các ngân hàng có cấu trúc sở hữu khác
nhau sẽ có mức độ rủi ro khác nhau. Các loại hình sở
hữu được nghiên cứu chủ yếu tập trung vào sở hữu
tập trung, sở hữu tổ chức, sở hữu gia đình, sở hữu
nước ngoài và sở hữu nhà nước. Tuy nhiên, do hạn
chế về dữ liệu, nghiên cứu này tác giả chỉ tập trung
vào 4 loại hình sở hữu gồm: sở hữu tập trung, sở hữu
tổ chức, sở hữu nước ngoài và sở hữu nhà nước.
Tác động của sở hữu tập trung lên rủi ro
Các nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết cho thấy
quan hệ giữa sở hữu tập trung và rủi ro là mối quan
hệ phức tạp và không rõ ràng theo một chiều hướng.
Cụ thể, dưới cấu trúc sở hữu phân tán, các chủ sở hữu
thường không đủ quyền và động lực để giám sát các
hoạt động và hành vi của nhà quản lý, nên việc ra các
quyết định sẽ không thực sự hiệu quả theo đúng lợi
ích của cổ đông16, đồng thời phát sinh thêm vấn đề
người ăn theo (free-rider problem) khi một cổ đông
thực hiện việc giám sát sẽ phải chịu toàn bộ chi phí
liên quan nhưng thành quả thu về tất cả cổ đông đều
hưởng17. Nghiên cứu của Shleifer & Vishny18 chỉ ra
rằng cấu trúc sở hữu tập trung sẽ khắc phục vấn đề
người ăn theo và cải thiện hiệu quả hoạt động của DN
thông qua cơ chế giám sát chặt chẽ hơn. Lúc này các
cổ đông lớn có nhiều quyền hạn, nguồn lực cũng như
động lực để giám sát nhà quản lý, đảm bảo các nhà
quản lý không bỏ qua các dự án rủi ro nhưng sinh
lời tốt để nâng cao hiệu quả hoạt động, tối đa hóa
giá trị lợi ích cổ đông19. Nghiên cứu thực nghiệm
của Laeven & Levine3 cho thấy ngân hàng có cấu trúc
sở hữu tập trung cao thường có xu hướng chấp nhận
nhiều rủi ro. Kết quả này cũng tương đồng với kết quả
nghiên cứu của Haw & cộng sự20 đối với các NHTM
tại Châu Âu và Châu Á. Tuy nhiên, lúc này có thể xuất
hiện thêmmâu thuẫn giữa các cổ đông lớn và cổ đông
nhỏ, cổ đông lớn có thể tranh thủ quyền kiểm soátDN
để tạo ra những lợi ích cá nhân trên chi phí của nhiều
cổ đông nhỏ lẻ 10. Một tác hại khác có thể làm giảm
hiệu quả hoạt động của DN khi các cổ đông lớn gia
tăng sự kiểm soát sẽ làmmất đi tính tự chủ và sự sáng
tạo của các nhà quản lý khi điều hành DN21. Với các
lập luận trên, giả thuyết H1 được đề xuất như sau:
H1: Sở hữu tập trung có tác động làm tăng rủi ro của
các ngân hàng
Tác động của sở hữu tổ chức lên rủi ro
Xét về các đặc điểm như quymô sở hữu, kinh nghiệm
trong việc xử lý thông tin và giám sát nhà quản lý, nhà
đầu tư tổ chức có lợi thế hơn rất nhiều so với các nhà
SI2
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(SI):SI1-SI13
đầu tư cá nhân15. Pound22 nhấn mạnh rằng nhà đầu
tổ chức có thể thực hiện việc kiểm soát nhà quản lý tại
một mức chi phí thấp hơn do có nhiều kinh nghiệm
hơn. Đồng thời họ cũng có nhiều công cụ và phương
tiện để thu thập và xử lý thông tin tốt hơn để thực
hiện các biện pháp giám sát hiệu quả hơn nhà đầu tư
cá nhân15. Tuy nhiên, các nhà đầu tư tổ chức thường
có các mục tiêu và chiến lược đầu tư ngắn hạn – dài
hạn khác nhau5, dẫn đến các tác động đến rủi ro cũng
khác nhau. Nghiên cứu của Barry & cộng sự 15 cho
thấy các nhà đầu tư tổ chức trong các ngân hàng tại
Châu Âu thường là các nhà đầu tư lớn với tập danh
mục được đa dạng hóa, nên có nhiều động lực để theo
đuổi các chiến lược đầu tư rủi ro nhằm cực đại lợi
nhuận. Các nhà đầu tư tổ chức này thực hiện quyền
biểu quyết lớn của mình để ảnh hưởng đến các quyết
định đầu tư của ngân hàng. Iannotta & cộng sự23
cũng xác nhậnmối quanhệ dương giữa sở hữu tổ chức
và rủi ro khi nghiên cứu các ngân hàng ở Châu Âu.
Tuy nhiên, nhà đầu tư tổ chức cũng có thể đóng vai
trò quan trọng trong việc giám sát để giảm các hành
vi trục lợi cơ hội của nhà quản lý, giảm các mâu thuẫn
giữa nhà quản lý và các bên liên quan khác (như chủ
nợ), qua đó giảmđược rủi ro ngân hàng2. Nghiên cứu
của Hussain & cộng sự1 tại các ngân hàng ở Pakistan
cho thấy tác động của nhà đầu tư tổ chức giúp làm
giảm rủi ro của ngân hàng. Tương tự, ghiên cứu của
Deng & cộng sự24 tại các ngân hàng tại Mỹ cho thấy
tác động của nhà đầu tư tổ chức có định hướng đầu
tư ổn định lâu dài sẽ làm giảm rủi ro ngân hàng, đặc
biệt trong thời kỳ khủng hoảng tài chính 2007-2008,
giúp bảo vệ ngân hàng trước nguy cơ phá sản. Trong
nghiên cứu này, tác giả đánh giá cao vai trò của nhà
đầu tư tổ chức trong việc giảm bất cân xứng thông tin,
vấn đề người đại diện và hành vi cơ hội của nhà quản
lý, từ đó xây dựng giả thuyết H2 như sau:
H2: Sở hữu tổ chức có tác động làm giảm rủi ro của các
ngân hàng
Tác động của sở hữu nước ngoài lên rủi ro
Nhà đầu tư nước ngoài thường được đặc trưng bởi
sự hiệu quả về mặt quản lý, trình độ công nghệ tiên
tiến, nguồn vốn dồi dào, cơ chế giám sát tốt, có nhiều
chuyên gia với đầy đủ kỹ năng chuyên môn và danh
tiếng quốc tế19. Những đặc trưng này không chỉ giúp
các ngân hàng có sở hữu nước ngoài ổn định về mặt
tài chính, nguồn vốn mà còn giúp quản lý rủi ro tốt
hơn, giảm rủi ro và đạt hiệu quả hoạt động tốt hơn các
ngân hàng nội địa thuần túy25. Nhiều kết quả nghiên
cứu cho thấy sở hữu nước ngoài tác động tích cực đến
lợi nhuận nhưng tác động nghịch đến rủi ro. Agoraki
& cộng sự 26 nghiên cứu về rủi ro của các ngân hàng
trong các nền kinh tế mới nổi cho thấy sở hữu nước
ngoài làm giảm rủi ro ở các ngân hàng này. Zhu &
cộng sự25 nghiên cứu tại các ngân hàng ởTrungQuốc
cũng cho kết quả tương tự, sở hữu nước ngoài cao gắn
liền với rủi ro ngân hàng thấp.
Tuy nhiên, Kobeissi & Sun27 phân tích rằng ngân
hàng sở hữu nước ngoài sẽ trải qua các khó khăn và
thách thức trong việc nắm bắt và thích nghi với các
chuẩn mực đặc thù của thị trường nội địa. Điều này
sẽ làm tăng thêm chi phí hoạt động và rủi ro cũng gia
tăng. Đồng thời, các ngân hàng sở hữu nước ngoài
thường đề cử thêm các nhà quản lý nước ngoài vào
bộ máy quản trị của ngân hàng, các nhà quản lý này
có thể không nắm bắt đầy đủ các thông tin, điều kiện
thực tế tại thị trường bản địa nên có thể thiết lập các
chuẩnmực và chính sách không phùhợp, qua đó cũng
gián tiếp làm tăng rủi ro cho ngân hàng2. Claessens
& cộng sự28 nghiên cứu các ngân hàng ở 80 quốc gia
phát triển và đang phát triển cho thấy rằng việc tăng
tỉ lệ sở hữu nước ngoài sẽ gắn liền với rủi ro tăng cao
và lợi nhuận giảm. Kết quả tương tự cũng được tìm
thấy trong nghiên cứu của Hammami & Boubaker5
tại các NHTM ở các quốc gia khu vực Trung Đông –
Bắc Phi. Nghiên cứu này tác giả cũng đề cao các tác
động tích cực của cổ đông nước ngoài với giả thuyết
H3 như sau:
H3: Sở hữu nước ngoài có tác động làm giảm rủi ro của
các ngân hàng
Tác động của sở hữu nhà nước lên rủi ro
Sở hữu nhà nước trong ngân hàng đóng vai trò quan
trọng về phát triển kinh tế và cải thiện phúc lợi xã
hộ10. Ngân hàng sở hữu nhà nước ngoài mục tiêu
kinh doanh còn có các mục tiêu liên quan đến chính
sách xã hội29 tuy nhiên, các mục tiêu này có thể mâu
thuẫn nhau dẫn đến sự không hiệu quả trong sử dụng
nguồn lực 10. Các ngân hàng này thường đóng vai trò
nền tảng, là nguồn tài trợ cho các dự án của chính
phủ bất chấp rủi ro và mức độ sinh lời của dự án19.
Iannotta & cộng sự29 khi nghiên cứu về tác động của
sở hữu nhà nước đến rủi ro ngân hàng cũng lập luận
rằng sở hữu nhà nước gắn với rủi ro cao liên quan đến
một thực tế là các ngân hàng này thường tài trợ cho
các dự ánmà các ngân hàng tư nhân khôngmuốn đầu
tư, đặc biệt là các dự á ... gân hàng.
Kiến nghị
Kết quả nghiên cứu dù chưa cho thấy rõ vai trò
của cổ đông nước ngoài, nhưng với sự minh bạch
thông tin từ việc niêm yết, cổ đông nước ngoài đang
cho thấy vai trò tích cực trong việc kiểm soát rủi ro
nói riêng và tính ổn định nói chung của NHTM cổ
phần (thông qua tác động tích cực của biến tương
tác LISTED*FOWN lên Z-score). Do đó cần tăng
cường sở hữu nước ngoài tại các NHTM cổ phần, kể
cả các ngân hàng chưa niêm yết, vì theo định hướng
chiến lược phát triển ngành ngân hàng (Quyết định
số 986/QĐ-TTg), thì đến năm 2020 mục tiêu 100%
cácNHTMcổ phần hoàn thành việc niêm yết trên sàn
chứng khoán. Kết quả cũng cho thấy sở hữu nhà nước
có vai trò quan trọng trong việc ổn định và giảm rủi
ro cho ngân hàng, do đó cần phát huy hơn nữa vai trò
tiên phong của các NHTM có sở hữu nhà nước, các
SI10
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(SI):SI1-SI13
ngân hàng này sẽ vẫn giữ vai trò là lực lượng chủ lực
về quy mô, thị phần, khả năng điều tiết thị trường,
nhưng tỉ lệ sở hữu nhà nước chỉ cần duy trì tỉ lệ đảm
bảo có quyền chi phối (51%) và các quyền khác theo
quy định của pháp luật, qua đó tạo điều kiện gia tăng
”room” cho nhà đầu tư ngoại (hiện đang bị khống chế
tối đa 30%, và nhiều ngân hàng đã đạt mức tối đa này)
theo các cam kết hội nhập quốc tế. Việc này không
những giúp VN đạt được những cam kết hội nhập
kinh tế quốc tế; mà còn thu hút được lượng vốn lớn
của nhà đầu tư nước ngoài, góp phần nâng cao năng
lực về vốn, về quản trị điều hành, quản trị rủi ro và
các tiêu chuẩn khác của ngành ngân hàng theo thông
lệ quốc tế.
Kết quả cũng cho thấy sở hữu tập trung và sở hữu
tổ chức giúp làm giảm rủi ro. Do đó chính phủ cần
có các chính sách khuyến khích các quỹ đầu tư, các
tổ chức tham gia đầu tư vào ngân hàng vì những lợi
thế và kinh nghiệm của họ trong quản trị điều hành,
đặc biệt là các ngân hàng chưa niêm yết để nâng cao
khả năng quản trị rủi ro, sớm hoàn tất việc niêm yết
theo định hướng chung. Đối với sở hữu tập trung cần
khuyến khích các cổ đông lớn tham gia hội đồng quản
trị nhằm giảm mâu thuẫn lợi ích trong ngân hàng,
đồng thời thúc đẩy cải thiện quản trị công ty trong
ngân hàng theo thông lệ quốc tế để giảm thiểu các
mâu thuẫn giữa các nhóm cổ đông với nhau và với
các bên liên quan khác.
Nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc xem xét 4 đặc
trưng tiêu biểu cho cấu trúc sở hữu, còn nhiều đặc
thù sở hữu khác cũng có ảnh hưởng đến rủi ro ngân
hàng đã được kiểm chứng như sở hữu nhà quản lý,
sở hữu gia đình 5. Đồng thời, trong một loại hình
sở hữu cũng có sự phân nhóm, ví dụ như sở hữu tổ
chức có thể chia thành các tổ chức tài chính (financial
firms), tổ chức phi tài chính (non-financial firms), tổ
chức cũng có thể chính là các ngân hàng khác (sở hữu
chéo) 15. Khi phân nhóm càng rõ ràng thì việc đánh
giá vai trò của từng loại hình sở hữu càng chi tiết và
đầy đủhơn. Tuynhiên vì điều kiện dữ liệu khách quan
không đầy đủ, nên nghiên cứu chưa thể đưa vào phân
tích được. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn hạn chế khi
chưa xem xét đến vấn đề nội sinh trong các mô hình
nghiên cứu. Do đó, các vấn đề này có thể xem như
một định hướng cho các nghiên cứu tiếp theo.
DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT
VN: Việt Nam
DN: Doanh nghiệp
QTCT: Quản trị công ty
NHTM: Ngân hàng thương mại
TUYÊN BỐ XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Nhóm tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung
đột lợi ích nào trong công bố bài báo.
TUYÊN BỐĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC
GIẢ
Phạm Tiến Minh hình thành ý tưởng và thiết kế
nghiên cứu, kiểm định mô hình, phân tích kết quả
và hoàn chỉnh bản thảo.
BùiHuyHảiBíchđóng góp trong tổng quan lý thuyết,
thu thập và xử lý dữ liệu, đồng thời rà soát lại bài viết.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Hussain A, SiddiqueA, RehmanH. Impact of Ownership Struc-
ture on Bank Risk Taking: A Comparative Analysis of Conven-
tional Banks and Islamic Banks of Pakistan. Journal of Business
and Tourism. 2018;4:175–81.
2. Amor A. Ownership structure and bank risk-taking: empirical
evidence from Tunisian banks. Afro-Asian Journal of Finance
and Accounting. 2017;7(3):227–241. Available from: https://
doi.org/10.1504/AAJFA.2017.085542.
3. Laeven L, Levine R. Bank governance, regulation and risk
taking. Journal of financial economics. 2009;93(2):259–275.
Available from: https://doi.org/10.1016/j.jfineco.2008.09.003.
4. Tô N. Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam hướng tới phát triển bền vững. Tạp chí ngân hàng.
2017;1&2:30–37.
5. Hammami Y, Boubaker A. Ownership structure and bank risk-
taking: Empirical evidence from the Middle East and North
Africa. International Business Research. 2015;8(5):271. Avail-
able from: https://doi.org/10.5539/ibr.v8n5p271.
6. ZhongH. Commercial bank ownership structure and risk pref-
erence. Journal of Mathematical Finance. 2017;7(2):437–450.
Available from: https://doi.org/10.4236/jmf.2017.72023.
7. Võ X, Mai X. Sở hữu nước ngoài và rủi ro thanh khoản của các
ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Khoa học Đại học
Quốc gia Hà Nội: Kinh tế và Kinh doanh. 2017;33(3):1–11.
8. Jensen M, Meckling W. Theory of the firm: Managerial be-
havior, agency costs and ownership structure. Journal of fi-
nancial economics. 1976;3(4):305–360. Available from: https:
//doi.org/10.1016/0304-405X(76)90026-X.
9. Franks J, Mayer C, Renneboog L. Who disciplines manage-
ment in poorly performing companies? Journal of Financial
Intermediation. 2001;10(3-4):209–248. Available from: https:
//doi.org/10.1006/jfin.2001.0317.
10. Shleifer A, Vishny R. A survey of corporate governance. The
journal of finance. 1997;52(2):737–783. Available from: https:
//doi.org/10.1111/j.1540-6261.1997.tb04820.x.
11. Berger A, Imbierowicz B, Rauch C. The roles of corporate gov-
ernance inbank failuresduring the recent financial crisis. Jour-
nal of Money, Credit and Banking. 2016;48(4):729–770. Avail-
able from: https://doi.org/10.1111/jmcb.12316.
12. Dong Y, Meng C, Firth M, Hou W. Ownership structure and
risk-taking: Comparative evidence from private and state-
controlled banks in China . International Review of Financial
Analysis. 2014;36:120–130. Available from: https://doi.org/10.
1016/j.irfa.2014.03.009.
13. Saunders A, Strock E, Travlos N. Ownership structure, dereg-
ulation, and bank risk taking. The Journal of Finance.
1990;45(2):643–654. Available from: https://doi.org/10.1111/
j.1540-6261.1990.tb03709.x.
14. Jamil N, Said R, Nor F. Ownership Structure and Risk Taking of
Malaysian Commercial Banks: TheModerating Effects of Capi-
tal Adequacy Ratio. Mediterranean Journal of Social Sciences.
2015;6(6 S4):139. Available from: https://doi.org/10.5901/mjss.
2015.v6n6s4p139.
SI11
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(SI):SI1-SI13
15. Barry T, Lepetit L, Tarazi A. Ownership structure and risk in
publicly held and privately owned banks. Journal of Banking
& Finance. 2011;35(5):1327–1340. Available from: https://doi.
org/10.1016/j.jbankfin.2010.10.004.
16. Shehzad C, de Haan J, Scholtens B. The impact of bank own-
ership concentration on impaired loans and capital adequacy.
Journal of Banking & Finance. 2010;34(2):399–408. Available
from: https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2009.08.007.
17. Gorton G, Schmid F. Corporate governance, ownership
dispersion and efficiency: Empirical evidence from Aus-
trian cooperative banking. Journal of Corporate Finance.
1999;5(2):119–140. Available from: https://doi.org/10.1016/
S0929-1199(98)00019-4.
18. Shleifer A, Vishny R. Large shareholders and corporate con-
trol. Journal of political economy. 1986;94(3, Part 1):461–488.
Available from: https://doi.org/10.1086/261385.
19. Ehsan S, Javid A. Bank ownership structure, regulations and
risk-taking: evidence from commercial banks in Pakistan. Por-
tuguese Economic Journal. 2018;17(3):185–209. Available
from: https://doi.org/10.1007/s10258-018-0147-3.
20. Haw IM, Ho S, Hu B, Wu D. Concentrated control, institu-
tions, and banking sector: An international study. Journal
of Banking & Finance. 2010;34(3):485–497. Available from:
https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2009.08.013.
21. Burkart M, Gromb D, Panunzi F. Large shareholders, monitor-
ing, and the value of the firm. The quarterly journal of eco-
nomics. 1997;112(3):693–728. Available from: https://doi.org/
10.1162/003355397555325.
22. Pound J. Proxy contests and the efficiency of shareholder
oversight. Journal of financial economics. 1988;20:237–65.
Available from: https://doi.org/10.1016/0304-405X(88)90046-
3.
23. Iannotta G, Nocera G, Sironi A. Ownership structure, risk and
performance in the European banking industry. Journal of
Banking & Finance. 2007;31(7):2127–2149. Available from:
https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2006.07.013.
24. Deng S, Elyasiani E, Jia J. Institutional ownership, diversifica-
tion, and riskiness of bank holding companies. Financial Re-
view. 2013;48(3):385–415. Available from: https://doi.org/10.
1111/fire.12008.
25. ZhuY, Ping L, ZengY, He J. ForeignOwnership and the Risk Be-
havior of Chinese Banks: Do Foreign Strategic Investors Mat-
ter? Available at SSRN 1460541. 2009;Available from: https:
//doi.org/10.2139/ssrn.1460541.
26. Agoraki ME, Delis M, Pasiouras F. Regulations, competition
and bank risk-taking in transition countries. Journal of Finan-
cial Stability. 2011;7(1):38–48. Available from: https://doi.org/
10.1016/j.jfs.2009.08.002.
27. Kobeissi N, Sun X. Ownership structure and bank perfor-
mance: Evidence from the Middle East and North Africa Re-
gion. Comparative Economic Studies. 2010;52(3):287–323.
Available from: https://doi.org/10.1057/ces.2010.10.
28. Claessens S, Demirgüç-Kunt A, Huizinga H. How does foreign
entry affect domestic bankingmarkets? Journal of Banking &
Finance. 2001;25(5):891–911. Available from: https://doi.org/
10.1016/S0378-4266(00)00102-3.
29. Iannotta G, Nocera G, Sironi A. The impact of government
ownership on bank risk. Journal of Financial Intermediation.
2013;22(2):152–176. Available from: https://doi.org/10.1016/j.
jfi.2012.11.002.
30. Tran D, Hassan M, Houston R. Ownership structure and bank
risk: The effects of crisis, market discipline and regulatory
pressure. Networks Financial Institute Working Paper Series.
2018;Available from: https://doi.org/10.2139/ssrn.3150353.
31. Cornett M, Guo L, Khaksari S, Tehranian H. The impact
of state ownership on performance differences in privately-
owned versus state-owned banks: An international compar-
ison. Journal of Financial Intermediation. 2010;19(1):74–94.
Available from: https://doi.org/10.1016/j.jfi.2008.09.005.
32. Yu F. Analyst coverage and earnings management. Journal
of financial economics. 2008;88(2):245–271. Available from:
https://doi.org/10.1016/j.jfineco.2007.05.008.
33. Bliss R, Flannery M. Market discipline in the governance of US
bank holding companies: Monitoring vs. influencing. Review
of Finance. 2002;6(3):361–396. Available from: https://doi.org/
10.1023/A:1022021430852.
34. Altman E. Financial ratios, discriminant analysis and the pre-
diction of corporate bankruptcy. The journal of finance.
1968;23(4):589–609. Available from: https://doi.org/10.1111/
j.1540-6261.1968.tb00843.x.
35. Boyd J, Graham SL. Risk, regulation, and bank holding
company expansion into nonbanking. Quarterly Review.
1986;(Spr):2–17. Available from: https://doi.org/10.21034/qr.
1021.
36. Hannan T, Hanweck G. Bank insolvency risk and the market
for large certificates of deposit. Journal of Money, Credit and
Banking. 1988;20(2):203–211. Available from: https://doi.org/
10.2307/1992111.
37. Drakos A, Kouretas G, Tsoumas C. Ownership, interest rates
and bank risk-taking in Central and Eastern European coun-
tries. International Review of Financial Analysis. 2016;45:308–
319. Available from: https://doi.org/10.1016/j.irfa.2014.08.004.
38. Srairi S. Ownership structure and risk-takingbehaviour in con-
ventional and Islamic banks: Evidence for MENA countries.
Borsa Istanbul Review. 2013;13(4):115–127. Available from:
https://doi.org/10.1016/j.bir.2013.10.010.
39. Kiruri R. The effects of ownership structure on bank profitabil-
ity in Kenya. European Journal of Management Sciences and
Economics. 2013;1(2):116–127.
40. Kline R. Principles and practice of structural equation model-
ing: Guilford publications. 2015;.
41. Rossetto S, StaglianòR, editors. OwnershipConcentration and
Firm Risk. Evidence from the US. AAIG Conference, Montpel-
lier, France. 2016;.
42. Lê T, Lê N. Cơ hội và thách thức đối với các ngân hàng thương
mại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập sâu vào AEC và TPP.
Tạp chí ngân hàng. 2016;11:17–23.
SI12
Science & Technology Development Journal – Economics - Law andManagement, 3(SI):SI1-SI13
Open Access Full Text Article Research Article
Ho Chi Minh City University of
Technology, VNUHCM, Viet Nam
Correspondence
Pham TienMinh, Ho Chi Minh City
University of Technology, VNUHCM, Viet
Nam
Email: ptminh@hcmut.edu.vn
History
 Received: 30/06/2019
 Accepted: 15/09/2019
 Published: 31/12/2019
DOI : 10.32508/stdjelm.v3iSI.606
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Ownership structure and risk of commercial banks in Vietnam
Pham TienMinh*, Bui Huy Hai Bich
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
This study examines the impact of ownership structure on bank risk. The former is classified into
four types, including concentrated, institutional, foreign, and government, while the latter is prox-
ied by the Z-score (an inverse measure of risk). The Generalized Least Squares (GLS), which controls
for heteroskedasticity and autocorrelation problems, is employed to analyze an unbalanced panel
data set including 21 joint-stock commercial banks in Vietnam from 2010 to 2018. We further in-
vestigate themoderating effects of market discipline (proxied by variable listed) on the relationship
between ownership structure and bank risk. The results suggest that there is a negative association
between three proxies of ownership structure (ownership concentration, institutional ownership,
and government ownership) and bank risk and that foreign ownership does not have any signifi-
cant relationship on the risk of the bank in the direct relationship models. However, the results for
the models where interaction variables are included show that foreign shareholders help improve
bank stability and reduce risk in listed banks. In addition, the relationship between institutional
ownership and bank risk is reinforced for listed banks, while the relationships between the other
two (concentration and government) and bank risk are not influenced by the listing status.
Key words: Ownership structure, Bank risks, Commercial banks, Z-score
Cite this article : Tien Minh P, Huy Hai Bich B. Ownership structure and risk of commercial banks in
Vietnam. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 3(SI):SI1-SI13.
SI13

File đính kèm:

  • pdfcau_truc_so_huu_va_rui_ro_cua_cac_ngan_hang_thuong_mai_viet.pdf