Cấu trúc sở hữu và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam
TÓM TẮT
Nghiên cứu xem xét tác động của cấu trúc sở hữu, gồm bốn loại sở hữu (sở hữu tập trung, sở hữu
tổ chức, sở hữu nước ngoài, và sở hữu nhà nước), đến rủi ro của ngân hàng được đo bằng chỉ số
Z-score (chỉ số rủi ro ngược). Khung nghiên cứu thực nghiệm dựa trên phương pháp ước lượng
bình phương nhỏ nhất tổng quát (kiểm soát cho hiện tượng tự tương quan và phương sai sai số
thay đổi), để phân tích tập dữ liệu bảng không cân bằng của 21 ngân hàng thương mại cổ phần tại
Việt Nam từ 2010 đến 2018. Nghiên cứu sau đó tìm hiểu sâu hơn về vai trò điều tiết của nguyên tắc
thị trường (đại diện bởi biến niêm yết) lên mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro ngân hàng.
Kết quả cho thấy mối quan hệ nghịch giữa ba loại hình sở hữu (sở hữu tập trung, sở hữu tổ chức,
và sở hữu nhà nước) với rủi ro ngân hàng, riêng sở hữu nước ngoài chưa cho thấy mối quan hệ có
ý nghĩa thống kê trong mô hình tác động trực tiếp. Tuy nhiên, kết quả từ mô hình có biến tương
tác lại cho thấy cổ đông nước ngoài giúp tăng tính ổn định và giảm rủi ro trong các ngân hàng
niêm yết. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa sở hữu tổ chức và rủi ro được thúc đẩy mạnh hơn ở các
ngân hàng niêm yết, trong khi mối quan hệ giữa hai loại hình sở hữu còn lại (sở hữu tập trung, sở
hữu nhà nước) với rủi ro là không bị ảnh hưởng bởi việc niêm yết.
Từ khoá: Cấu trúc sở hữu, Rủi ro ngân hàng, Ngân hàng thương mại, Z-score
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cấu trúc sở hữu và rủi ro của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(SI):SI1-SI13 Open Access Full Text Article Bài Nghiên cứu Trường Đại học Bách Khoa - ĐHQG TP.Hồ Chí Minh Liên hệ Phạm TiếnMinh, Trường Đại học Bách Khoa - ĐHQG TP.Hồ Chí Minh Email: ptminh@hcmut.edu.vn Lịch sử Ngày nhận: 30/06/2019 Ngày chấp nhận: 15/09/2019 Ngày đăng: 31/12/2019 DOI : 10.32508/stdjelm.v3iSI.606 Bản quyền © ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố mở được phát hành theo các điều khoản của the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Cấu trúc sở hữu và rủi ro của các ngân hàng thươngmại Việt Nam Phạm TiếnMinh*, Bùi Huy Hải Bích Use your smartphone to scan this QR code and download this article TÓM TẮT Nghiên cứu xem xét tác động của cấu trúc sở hữu, gồm bốn loại sở hữu (sở hữu tập trung, sở hữu tổ chức, sở hữu nước ngoài, và sở hữu nhà nước), đến rủi ro của ngân hàng được đo bằng chỉ số Z-score (chỉ số rủi ro ngược). Khung nghiên cứu thực nghiệm dựa trên phương pháp ước lượng bình phương nhỏ nhất tổng quát (kiểm soát cho hiện tượng tự tương quan và phương sai sai số thay đổi), để phân tích tập dữ liệu bảng không cân bằng của 21 ngân hàng thươngmại cổ phần tại Việt Nam từ 2010 đến 2018. Nghiên cứu sau đó tìm hiểu sâu hơn về vai trò điều tiết của nguyên tắc thị trường (đại diện bởi biến niêm yết) lên mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro ngân hàng. Kết quả cho thấy mối quan hệ nghịch giữa ba loại hình sở hữu (sở hữu tập trung, sở hữu tổ chức, và sở hữu nhà nước) với rủi ro ngân hàng, riêng sở hữu nước ngoài chưa cho thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê trong mô hình tác động trực tiếp. Tuy nhiên, kết quả từ mô hình có biến tương tác lại cho thấy cổ đông nước ngoài giúp tăng tính ổn định và giảm rủi ro trong các ngân hàng niêm yết. Bên cạnh đó, mối quan hệ giữa sở hữu tổ chức và rủi ro được thúc đẩy mạnh hơn ở các ngân hàng niêm yết, trong khi mối quan hệ giữa hai loại hình sở hữu còn lại (sở hữu tập trung, sở hữu nhà nước) với rủi ro là không bị ảnh hưởng bởi việc niêm yết. Từ khoá: Cấu trúc sở hữu, Rủi ro ngân hàng, Ngân hàng thương mại, Z-score GIỚI THIỆU Hệ thống ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Một hệ thống ngân hàng khoẻ mạnh với hệ thống quản trị công ty tốt sẽ là nền tảng cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế1. Theo đó, cấu trúc sở hữu được xem là một trong những cơ chế quản lý nội bộ (internal gover- nance mechanisms) quan trọng trong hệ thống quản trị công ty 2, có ảnh hưởng đến quản trị rủi ro của ngân hàng. Thực tế cho thấy rủi ro vỡ nợ tăng cao xuất phát từ quản trị công ty yếu kém của ngân hàng được cho là một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 3. Cuộc khủng hoảng có ảnh hưởng đến hầu hết các nền kinh tế vàViệtNam (VN) cũng không phải ngoại lệ. Sau khủng hoảng, tình hình kinh tế vĩ mô VN suy yếu kết hợp với năng lực quản trị rủi ro yếu kém của hệ thống ngân hàng thươngmại (NHTM), nợ quá hạn và nợ xấu của ngân hàng bắt đầu tăng mạnh từ năm 2011, tỉ lệ nợ xấu ước tính thận trọng có thể lên tới 17,21%, cao hơn nhiều so với tỉ lệ được các ngân hàng công bố4. Trước tình hình này, chính phủ đã có nhiều chính sách can thiệp kịp thời, đặc biệt là quyết định 254/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ phê duyệt đề án ”Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”. Việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã tạo ra những thay đổi về cơ cấu sở hữu của các NHTM, kéo theo sự thay đổi về rủi ro của ngân hàng5. Tuy nhiên đa số các nghiên cứu đều tập trung vàomối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động, khá ít nghiên cứu về mối quan hệ giữa cơ cấu sở hữu và rủi ro của ngân hàng6. Tương tự tại VN, qua tìm hiểu của tác giả, cũng có rất ít các nghiên cứu thực nghiệm về chủ đề này cho ngành ngân hàng, đặc biệt trong bối cảnh ngành ngân hàng đang có nhiều thay đổi mạnh mẽ theo định hướng hội nhập quốc tế của chính phủ. Tiêu biểu gần đây là nghiên cứu của Võ & Mai7, nhưng mới chỉ tập trung vào một loại hình sở hữu là sở hữu nước ngoài. Theo đó, nghiên cứu này sẽ mở rộng thêmmột số loại hình sở hữu khác là sở hữu tập trung, sở hữu tổ chức, và sở hữu nhà nước, cùng với việc áp dụng chỉ số Z-score làm đại diện cho rủi ro của ngân hàng. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn đi sâu hơn vào phân tích vai trò điều tiết của các chuẩn mực và nguyên tắc thị trường (market discipline), thông qua việc niêm yết trên sàn chứng khoán, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các loại hình sở hữu và rủi ro ngân hàng. Đây là điểm mới mà hiện chưa có nghiên cứu nào đi sâu phân tích tại VN. Phần 2 của nghiên cứu sẽ trình bày về cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu, phần 3 thảo luận kết quả, và cuối cùng phần 4 là kết luận và kiến nghị. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trích dẫn bài báo này: Minh P T, Bích B H H. Cấu trúc sở hữu và rủi ro của các ngân hàng thươngmại Việt Nam. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 3(SI):SI1-SI13. SI1 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(SI):SI1-SI13 Cơ sở lý thuyết Nền tảng cho mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro được xây dựng dựa trên lý thuyết đại diện (agency theory) của Jensen vàMeckling8 theo đó, vấn đề người đại diện (agency problem) và mức độ rủi ro của doanh nghiệp (DN) sẽ biến thiên theo đặc thù từng loại cấu trúc sở hữu. Cấu trúc sở hữu khác nhau dẫn đến các mối quan hệ khác nhau giữa người chủ và người đại diện, cơ chế giám sát cũng sẽ khác nhau. Lý thuyết này cho rằng hành vi gia tăng rủi ro bị ảnh hưởng bởimâu thuẫn phát sinh do bất cân xứng thông tin giữa người chủ và người đại diện. Vấn đề người đại diện sẽ càng trầm trọng hơn trong các DN có cơ cấu sở hữu phân tán, nhưng sẽ giảm trong các DN có cấu trúc sở hữu tập trung vì các cổ đông lớn có nhiều động lực để giám sát nhà quản lý, và thậm chí sẵn sàng thay thế nhà quản lý trong trường hợp quản lý kém hiệu quả9. Bên cạnh đó, lý thuyết về quản trị công ty (QTCT) cũng cho thấy ảnh hưởng của cấu trúc sở hữu đến rủi ro doanh nghiệp. Theo Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế (OECD), quản trị công ty là một hệ thống trong đó công ty được chỉ đạo và kiểm soát, bao hàm mối quan hệ giữa ban giám đốc, hội đồng quản trị, các cổ đông và các bên có quyền lợi liên quan khác. Theo Shleifer & Vishny10, QTCT là cách thức mà các nhà đầu tư bảo vệ quyền lợi của bản thân để chống lại các phát sinh từ xung đột lợi ích giữa nhà quản lý và cổ đông. Đối với ngành ngân hàng, Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision) cũng đưa ra các nguyên tắc để nâng cao quản trị công ty trong ngân hàng. Trong đó, cấu trúc sở hữu làmột yếu tố quan trọng thuộcQTCT trong dự báo chỉ số mất khả năng thanh toán của ngân hàng11. QTCT yếu kém được cho là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tăng cao trong ngành ngân hàng và góp phần gây nên khủng hoảng tài chính toàn cầu3. Các thách thức trong QTCT liên quan đến cấu trúc sở hữu (như cổ đông nội bộ hay cổ đông kiểm soát thực hiện các ảnh hưởng cá nhân không phù hợp lên các hoạt động ngân hàng) sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro ngân hàng, và các ngân hàng có khả năng gia tăng rủi ro rất nhanh theo cách mà khó có thể nhận diện dễ dàng bởi các nhà đầu tư 12. Nghiên cứu của Saunders và cộng sự 13 được xem là một trong những nghiên cứu thực nghiệm đầu tiên về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy ngân hàng được kiểm soát bởi các cổ đông lớn sẽ có xu hướng chấp nhận nhiều rủi ro hơn các ngân hàng được kiểm soát bởi nhà quản lý. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm sau đó cũng cho thấy mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và rủi ro ngân hàng, tuy nhiên kết quả là không nhất quán5,14. Barry và cộng sự15 cũng có cùng kết luận các ngân hàng có cấu trúc sở hữu khác nhau sẽ có mức độ rủi ro khác nhau. Các loại hình sở hữu được nghiên cứu chủ yếu tập trung vào sở hữu tập trung, sở hữu tổ chức, sở hữu gia đình, sở hữu nước ngoài và sở hữu nhà nước. Tuy nhiên, do hạn chế về dữ liệu, nghiên cứu này tác giả chỉ tập trung vào 4 loại hình sở hữu gồm: sở hữu tập trung, sở hữu tổ chức, sở hữu nước ngoài và sở hữu nhà nước. Tác động của sở hữu tập trung lên rủi ro Các nghiên cứu thực nghiệm và lý thuyết cho thấy quan hệ giữa sở hữu tập trung và rủi ro là mối quan hệ phức tạp và không rõ ràng theo một chiều hướng. Cụ thể, dưới cấu trúc sở hữu phân tán, các chủ sở hữu thường không đủ quyền và động lực để giám sát các hoạt động và hành vi của nhà quản lý, nên việc ra các quyết định sẽ không thực sự hiệu quả theo đúng lợi ích của cổ đông16, đồng thời phát sinh thêm vấn đề người ăn theo (free-rider problem) khi một cổ đông thực hiện việc giám sát sẽ phải chịu toàn bộ chi phí liên quan nhưng thành quả thu về tất cả cổ đông đều hưởng17. Nghiên cứu của Shleifer & Vishny18 chỉ ra rằng cấu trúc sở hữu tập trung sẽ khắc phục vấn đề người ăn theo và cải thiện hiệu quả hoạt động của DN thông qua cơ chế giám sát chặt chẽ hơn. Lúc này các cổ đông lớn có nhiều quyền hạn, nguồn lực cũng như động lực để giám sát nhà quản lý, đảm bảo các nhà quản lý không bỏ qua các dự án rủi ro nhưng sinh lời tốt để nâng cao hiệu quả hoạt động, tối đa hóa giá trị lợi ích cổ đông19. Nghiên cứu thực nghiệm của Laeven & Levine3 cho thấy ngân hàng có cấu trúc sở hữu tập trung cao thường có xu hướng chấp nhận nhiều rủi ro. Kết quả này cũng tương đồng với kết quả nghiên cứu của Haw & cộng sự20 đối với các NHTM tại Châu Âu và Châu Á. Tuy nhiên, lúc này có thể xuất hiện thêmmâu thuẫn giữa các cổ đông lớn và cổ đông nhỏ, cổ đông lớn có thể tranh thủ quyền kiểm soátDN để tạo ra những lợi ích cá nhân trên chi phí của nhiều cổ đông nhỏ lẻ 10. Một tác hại khác có thể làm giảm hiệu quả hoạt động của DN khi các cổ đông lớn gia tăng sự kiểm soát sẽ làmmất đi tính tự chủ và sự sáng tạo của các nhà quản lý khi điều hành DN21. Với các lập luận trên, giả thuyết H1 được đề xuất như sau: H1: Sở hữu tập trung có tác động làm tăng rủi ro của các ngân hàng Tác động của sở hữu tổ chức lên rủi ro Xét về các đặc điểm như quymô sở hữu, kinh nghiệm trong việc xử lý thông tin và giám sát nhà quản lý, nhà đầu tư tổ chức có lợi thế hơn rất nhiều so với các nhà SI2 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(SI):SI1-SI13 đầu tư cá nhân15. Pound22 nhấn mạnh rằng nhà đầu tổ chức có thể thực hiện việc kiểm soát nhà quản lý tại một mức chi phí thấp hơn do có nhiều kinh nghiệm hơn. Đồng thời họ cũng có nhiều công cụ và phương tiện để thu thập và xử lý thông tin tốt hơn để thực hiện các biện pháp giám sát hiệu quả hơn nhà đầu tư cá nhân15. Tuy nhiên, các nhà đầu tư tổ chức thường có các mục tiêu và chiến lược đầu tư ngắn hạn – dài hạn khác nhau5, dẫn đến các tác động đến rủi ro cũng khác nhau. Nghiên cứu của Barry & cộng sự 15 cho thấy các nhà đầu tư tổ chức trong các ngân hàng tại Châu Âu thường là các nhà đầu tư lớn với tập danh mục được đa dạng hóa, nên có nhiều động lực để theo đuổi các chiến lược đầu tư rủi ro nhằm cực đại lợi nhuận. Các nhà đầu tư tổ chức này thực hiện quyền biểu quyết lớn của mình để ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư của ngân hàng. Iannotta & cộng sự23 cũng xác nhậnmối quanhệ dương giữa sở hữu tổ chức và rủi ro khi nghiên cứu các ngân hàng ở Châu Âu. Tuy nhiên, nhà đầu tư tổ chức cũng có thể đóng vai trò quan trọng trong việc giám sát để giảm các hành vi trục lợi cơ hội của nhà quản lý, giảm các mâu thuẫn giữa nhà quản lý và các bên liên quan khác (như chủ nợ), qua đó giảmđược rủi ro ngân hàng2. Nghiên cứu của Hussain & cộng sự1 tại các ngân hàng ở Pakistan cho thấy tác động của nhà đầu tư tổ chức giúp làm giảm rủi ro của ngân hàng. Tương tự, ghiên cứu của Deng & cộng sự24 tại các ngân hàng tại Mỹ cho thấy tác động của nhà đầu tư tổ chức có định hướng đầu tư ổn định lâu dài sẽ làm giảm rủi ro ngân hàng, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng tài chính 2007-2008, giúp bảo vệ ngân hàng trước nguy cơ phá sản. Trong nghiên cứu này, tác giả đánh giá cao vai trò của nhà đầu tư tổ chức trong việc giảm bất cân xứng thông tin, vấn đề người đại diện và hành vi cơ hội của nhà quản lý, từ đó xây dựng giả thuyết H2 như sau: H2: Sở hữu tổ chức có tác động làm giảm rủi ro của các ngân hàng Tác động của sở hữu nước ngoài lên rủi ro Nhà đầu tư nước ngoài thường được đặc trưng bởi sự hiệu quả về mặt quản lý, trình độ công nghệ tiên tiến, nguồn vốn dồi dào, cơ chế giám sát tốt, có nhiều chuyên gia với đầy đủ kỹ năng chuyên môn và danh tiếng quốc tế19. Những đặc trưng này không chỉ giúp các ngân hàng có sở hữu nước ngoài ổn định về mặt tài chính, nguồn vốn mà còn giúp quản lý rủi ro tốt hơn, giảm rủi ro và đạt hiệu quả hoạt động tốt hơn các ngân hàng nội địa thuần túy25. Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy sở hữu nước ngoài tác động tích cực đến lợi nhuận nhưng tác động nghịch đến rủi ro. Agoraki & cộng sự 26 nghiên cứu về rủi ro của các ngân hàng trong các nền kinh tế mới nổi cho thấy sở hữu nước ngoài làm giảm rủi ro ở các ngân hàng này. Zhu & cộng sự25 nghiên cứu tại các ngân hàng ởTrungQuốc cũng cho kết quả tương tự, sở hữu nước ngoài cao gắn liền với rủi ro ngân hàng thấp. Tuy nhiên, Kobeissi & Sun27 phân tích rằng ngân hàng sở hữu nước ngoài sẽ trải qua các khó khăn và thách thức trong việc nắm bắt và thích nghi với các chuẩn mực đặc thù của thị trường nội địa. Điều này sẽ làm tăng thêm chi phí hoạt động và rủi ro cũng gia tăng. Đồng thời, các ngân hàng sở hữu nước ngoài thường đề cử thêm các nhà quản lý nước ngoài vào bộ máy quản trị của ngân hàng, các nhà quản lý này có thể không nắm bắt đầy đủ các thông tin, điều kiện thực tế tại thị trường bản địa nên có thể thiết lập các chuẩnmực và chính sách không phùhợp, qua đó cũng gián tiếp làm tăng rủi ro cho ngân hàng2. Claessens & cộng sự28 nghiên cứu các ngân hàng ở 80 quốc gia phát triển và đang phát triển cho thấy rằng việc tăng tỉ lệ sở hữu nước ngoài sẽ gắn liền với rủi ro tăng cao và lợi nhuận giảm. Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Hammami & Boubaker5 tại các NHTM ở các quốc gia khu vực Trung Đông – Bắc Phi. Nghiên cứu này tác giả cũng đề cao các tác động tích cực của cổ đông nước ngoài với giả thuyết H3 như sau: H3: Sở hữu nước ngoài có tác động làm giảm rủi ro của các ngân hàng Tác động của sở hữu nhà nước lên rủi ro Sở hữu nhà nước trong ngân hàng đóng vai trò quan trọng về phát triển kinh tế và cải thiện phúc lợi xã hộ10. Ngân hàng sở hữu nhà nước ngoài mục tiêu kinh doanh còn có các mục tiêu liên quan đến chính sách xã hội29 tuy nhiên, các mục tiêu này có thể mâu thuẫn nhau dẫn đến sự không hiệu quả trong sử dụng nguồn lực 10. Các ngân hàng này thường đóng vai trò nền tảng, là nguồn tài trợ cho các dự án của chính phủ bất chấp rủi ro và mức độ sinh lời của dự án19. Iannotta & cộng sự29 khi nghiên cứu về tác động của sở hữu nhà nước đến rủi ro ngân hàng cũng lập luận rằng sở hữu nhà nước gắn với rủi ro cao liên quan đến một thực tế là các ngân hàng này thường tài trợ cho các dự ánmà các ngân hàng tư nhân khôngmuốn đầu tư, đặc biệt là các dự á ... gân hàng. Kiến nghị Kết quả nghiên cứu dù chưa cho thấy rõ vai trò của cổ đông nước ngoài, nhưng với sự minh bạch thông tin từ việc niêm yết, cổ đông nước ngoài đang cho thấy vai trò tích cực trong việc kiểm soát rủi ro nói riêng và tính ổn định nói chung của NHTM cổ phần (thông qua tác động tích cực của biến tương tác LISTED*FOWN lên Z-score). Do đó cần tăng cường sở hữu nước ngoài tại các NHTM cổ phần, kể cả các ngân hàng chưa niêm yết, vì theo định hướng chiến lược phát triển ngành ngân hàng (Quyết định số 986/QĐ-TTg), thì đến năm 2020 mục tiêu 100% cácNHTMcổ phần hoàn thành việc niêm yết trên sàn chứng khoán. Kết quả cũng cho thấy sở hữu nhà nước có vai trò quan trọng trong việc ổn định và giảm rủi ro cho ngân hàng, do đó cần phát huy hơn nữa vai trò tiên phong của các NHTM có sở hữu nhà nước, các SI10 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(SI):SI1-SI13 ngân hàng này sẽ vẫn giữ vai trò là lực lượng chủ lực về quy mô, thị phần, khả năng điều tiết thị trường, nhưng tỉ lệ sở hữu nhà nước chỉ cần duy trì tỉ lệ đảm bảo có quyền chi phối (51%) và các quyền khác theo quy định của pháp luật, qua đó tạo điều kiện gia tăng ”room” cho nhà đầu tư ngoại (hiện đang bị khống chế tối đa 30%, và nhiều ngân hàng đã đạt mức tối đa này) theo các cam kết hội nhập quốc tế. Việc này không những giúp VN đạt được những cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; mà còn thu hút được lượng vốn lớn của nhà đầu tư nước ngoài, góp phần nâng cao năng lực về vốn, về quản trị điều hành, quản trị rủi ro và các tiêu chuẩn khác của ngành ngân hàng theo thông lệ quốc tế. Kết quả cũng cho thấy sở hữu tập trung và sở hữu tổ chức giúp làm giảm rủi ro. Do đó chính phủ cần có các chính sách khuyến khích các quỹ đầu tư, các tổ chức tham gia đầu tư vào ngân hàng vì những lợi thế và kinh nghiệm của họ trong quản trị điều hành, đặc biệt là các ngân hàng chưa niêm yết để nâng cao khả năng quản trị rủi ro, sớm hoàn tất việc niêm yết theo định hướng chung. Đối với sở hữu tập trung cần khuyến khích các cổ đông lớn tham gia hội đồng quản trị nhằm giảm mâu thuẫn lợi ích trong ngân hàng, đồng thời thúc đẩy cải thiện quản trị công ty trong ngân hàng theo thông lệ quốc tế để giảm thiểu các mâu thuẫn giữa các nhóm cổ đông với nhau và với các bên liên quan khác. Nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc xem xét 4 đặc trưng tiêu biểu cho cấu trúc sở hữu, còn nhiều đặc thù sở hữu khác cũng có ảnh hưởng đến rủi ro ngân hàng đã được kiểm chứng như sở hữu nhà quản lý, sở hữu gia đình 5. Đồng thời, trong một loại hình sở hữu cũng có sự phân nhóm, ví dụ như sở hữu tổ chức có thể chia thành các tổ chức tài chính (financial firms), tổ chức phi tài chính (non-financial firms), tổ chức cũng có thể chính là các ngân hàng khác (sở hữu chéo) 15. Khi phân nhóm càng rõ ràng thì việc đánh giá vai trò của từng loại hình sở hữu càng chi tiết và đầy đủhơn. Tuynhiên vì điều kiện dữ liệu khách quan không đầy đủ, nên nghiên cứu chưa thể đưa vào phân tích được. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn hạn chế khi chưa xem xét đến vấn đề nội sinh trong các mô hình nghiên cứu. Do đó, các vấn đề này có thể xem như một định hướng cho các nghiên cứu tiếp theo. DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT VN: Việt Nam DN: Doanh nghiệp QTCT: Quản trị công ty NHTM: Ngân hàng thương mại TUYÊN BỐ XUNGĐỘT LỢI ÍCH Nhóm tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung đột lợi ích nào trong công bố bài báo. TUYÊN BỐĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC GIẢ Phạm Tiến Minh hình thành ý tưởng và thiết kế nghiên cứu, kiểm định mô hình, phân tích kết quả và hoàn chỉnh bản thảo. BùiHuyHảiBíchđóng góp trong tổng quan lý thuyết, thu thập và xử lý dữ liệu, đồng thời rà soát lại bài viết. TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. Hussain A, SiddiqueA, RehmanH. Impact of Ownership Struc- ture on Bank Risk Taking: A Comparative Analysis of Conven- tional Banks and Islamic Banks of Pakistan. Journal of Business and Tourism. 2018;4:175–81. 2. Amor A. Ownership structure and bank risk-taking: empirical evidence from Tunisian banks. Afro-Asian Journal of Finance and Accounting. 2017;7(3):227–241. Available from: https:// doi.org/10.1504/AAJFA.2017.085542. 3. Laeven L, Levine R. Bank governance, regulation and risk taking. Journal of financial economics. 2009;93(2):259–275. Available from: https://doi.org/10.1016/j.jfineco.2008.09.003. 4. Tô N. Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hướng tới phát triển bền vững. Tạp chí ngân hàng. 2017;1&2:30–37. 5. Hammami Y, Boubaker A. Ownership structure and bank risk- taking: Empirical evidence from the Middle East and North Africa. International Business Research. 2015;8(5):271. Avail- able from: https://doi.org/10.5539/ibr.v8n5p271. 6. ZhongH. Commercial bank ownership structure and risk pref- erence. Journal of Mathematical Finance. 2017;7(2):437–450. Available from: https://doi.org/10.4236/jmf.2017.72023. 7. Võ X, Mai X. Sở hữu nước ngoài và rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Kinh tế và Kinh doanh. 2017;33(3):1–11. 8. Jensen M, Meckling W. Theory of the firm: Managerial be- havior, agency costs and ownership structure. Journal of fi- nancial economics. 1976;3(4):305–360. Available from: https: //doi.org/10.1016/0304-405X(76)90026-X. 9. Franks J, Mayer C, Renneboog L. Who disciplines manage- ment in poorly performing companies? Journal of Financial Intermediation. 2001;10(3-4):209–248. Available from: https: //doi.org/10.1006/jfin.2001.0317. 10. Shleifer A, Vishny R. A survey of corporate governance. The journal of finance. 1997;52(2):737–783. Available from: https: //doi.org/10.1111/j.1540-6261.1997.tb04820.x. 11. Berger A, Imbierowicz B, Rauch C. The roles of corporate gov- ernance inbank failuresduring the recent financial crisis. Jour- nal of Money, Credit and Banking. 2016;48(4):729–770. Avail- able from: https://doi.org/10.1111/jmcb.12316. 12. Dong Y, Meng C, Firth M, Hou W. Ownership structure and risk-taking: Comparative evidence from private and state- controlled banks in China . International Review of Financial Analysis. 2014;36:120–130. Available from: https://doi.org/10. 1016/j.irfa.2014.03.009. 13. Saunders A, Strock E, Travlos N. Ownership structure, dereg- ulation, and bank risk taking. The Journal of Finance. 1990;45(2):643–654. Available from: https://doi.org/10.1111/ j.1540-6261.1990.tb03709.x. 14. Jamil N, Said R, Nor F. Ownership Structure and Risk Taking of Malaysian Commercial Banks: TheModerating Effects of Capi- tal Adequacy Ratio. Mediterranean Journal of Social Sciences. 2015;6(6 S4):139. Available from: https://doi.org/10.5901/mjss. 2015.v6n6s4p139. SI11 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 3(SI):SI1-SI13 15. Barry T, Lepetit L, Tarazi A. Ownership structure and risk in publicly held and privately owned banks. Journal of Banking & Finance. 2011;35(5):1327–1340. Available from: https://doi. org/10.1016/j.jbankfin.2010.10.004. 16. Shehzad C, de Haan J, Scholtens B. The impact of bank own- ership concentration on impaired loans and capital adequacy. Journal of Banking & Finance. 2010;34(2):399–408. Available from: https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2009.08.007. 17. Gorton G, Schmid F. Corporate governance, ownership dispersion and efficiency: Empirical evidence from Aus- trian cooperative banking. Journal of Corporate Finance. 1999;5(2):119–140. Available from: https://doi.org/10.1016/ S0929-1199(98)00019-4. 18. Shleifer A, Vishny R. Large shareholders and corporate con- trol. Journal of political economy. 1986;94(3, Part 1):461–488. Available from: https://doi.org/10.1086/261385. 19. Ehsan S, Javid A. Bank ownership structure, regulations and risk-taking: evidence from commercial banks in Pakistan. Por- tuguese Economic Journal. 2018;17(3):185–209. Available from: https://doi.org/10.1007/s10258-018-0147-3. 20. Haw IM, Ho S, Hu B, Wu D. Concentrated control, institu- tions, and banking sector: An international study. Journal of Banking & Finance. 2010;34(3):485–497. Available from: https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2009.08.013. 21. Burkart M, Gromb D, Panunzi F. Large shareholders, monitor- ing, and the value of the firm. The quarterly journal of eco- nomics. 1997;112(3):693–728. Available from: https://doi.org/ 10.1162/003355397555325. 22. Pound J. Proxy contests and the efficiency of shareholder oversight. Journal of financial economics. 1988;20:237–65. Available from: https://doi.org/10.1016/0304-405X(88)90046- 3. 23. Iannotta G, Nocera G, Sironi A. Ownership structure, risk and performance in the European banking industry. Journal of Banking & Finance. 2007;31(7):2127–2149. Available from: https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2006.07.013. 24. Deng S, Elyasiani E, Jia J. Institutional ownership, diversifica- tion, and riskiness of bank holding companies. Financial Re- view. 2013;48(3):385–415. Available from: https://doi.org/10. 1111/fire.12008. 25. ZhuY, Ping L, ZengY, He J. ForeignOwnership and the Risk Be- havior of Chinese Banks: Do Foreign Strategic Investors Mat- ter? Available at SSRN 1460541. 2009;Available from: https: //doi.org/10.2139/ssrn.1460541. 26. Agoraki ME, Delis M, Pasiouras F. Regulations, competition and bank risk-taking in transition countries. Journal of Finan- cial Stability. 2011;7(1):38–48. Available from: https://doi.org/ 10.1016/j.jfs.2009.08.002. 27. Kobeissi N, Sun X. Ownership structure and bank perfor- mance: Evidence from the Middle East and North Africa Re- gion. Comparative Economic Studies. 2010;52(3):287–323. Available from: https://doi.org/10.1057/ces.2010.10. 28. Claessens S, Demirgüç-Kunt A, Huizinga H. How does foreign entry affect domestic bankingmarkets? Journal of Banking & Finance. 2001;25(5):891–911. Available from: https://doi.org/ 10.1016/S0378-4266(00)00102-3. 29. Iannotta G, Nocera G, Sironi A. The impact of government ownership on bank risk. Journal of Financial Intermediation. 2013;22(2):152–176. Available from: https://doi.org/10.1016/j. jfi.2012.11.002. 30. Tran D, Hassan M, Houston R. Ownership structure and bank risk: The effects of crisis, market discipline and regulatory pressure. Networks Financial Institute Working Paper Series. 2018;Available from: https://doi.org/10.2139/ssrn.3150353. 31. Cornett M, Guo L, Khaksari S, Tehranian H. The impact of state ownership on performance differences in privately- owned versus state-owned banks: An international compar- ison. Journal of Financial Intermediation. 2010;19(1):74–94. Available from: https://doi.org/10.1016/j.jfi.2008.09.005. 32. Yu F. Analyst coverage and earnings management. Journal of financial economics. 2008;88(2):245–271. Available from: https://doi.org/10.1016/j.jfineco.2007.05.008. 33. Bliss R, Flannery M. Market discipline in the governance of US bank holding companies: Monitoring vs. influencing. Review of Finance. 2002;6(3):361–396. Available from: https://doi.org/ 10.1023/A:1022021430852. 34. Altman E. Financial ratios, discriminant analysis and the pre- diction of corporate bankruptcy. The journal of finance. 1968;23(4):589–609. Available from: https://doi.org/10.1111/ j.1540-6261.1968.tb00843.x. 35. Boyd J, Graham SL. Risk, regulation, and bank holding company expansion into nonbanking. Quarterly Review. 1986;(Spr):2–17. Available from: https://doi.org/10.21034/qr. 1021. 36. Hannan T, Hanweck G. Bank insolvency risk and the market for large certificates of deposit. Journal of Money, Credit and Banking. 1988;20(2):203–211. Available from: https://doi.org/ 10.2307/1992111. 37. Drakos A, Kouretas G, Tsoumas C. Ownership, interest rates and bank risk-taking in Central and Eastern European coun- tries. International Review of Financial Analysis. 2016;45:308– 319. Available from: https://doi.org/10.1016/j.irfa.2014.08.004. 38. Srairi S. Ownership structure and risk-takingbehaviour in con- ventional and Islamic banks: Evidence for MENA countries. Borsa Istanbul Review. 2013;13(4):115–127. Available from: https://doi.org/10.1016/j.bir.2013.10.010. 39. Kiruri R. The effects of ownership structure on bank profitabil- ity in Kenya. European Journal of Management Sciences and Economics. 2013;1(2):116–127. 40. Kline R. Principles and practice of structural equation model- ing: Guilford publications. 2015;. 41. Rossetto S, StaglianòR, editors. OwnershipConcentration and Firm Risk. Evidence from the US. AAIG Conference, Montpel- lier, France. 2016;. 42. Lê T, Lê N. Cơ hội và thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn hội nhập sâu vào AEC và TPP. Tạp chí ngân hàng. 2016;11:17–23. SI12 Science & Technology Development Journal – Economics - Law andManagement, 3(SI):SI1-SI13 Open Access Full Text Article Research Article Ho Chi Minh City University of Technology, VNUHCM, Viet Nam Correspondence Pham TienMinh, Ho Chi Minh City University of Technology, VNUHCM, Viet Nam Email: ptminh@hcmut.edu.vn History Received: 30/06/2019 Accepted: 15/09/2019 Published: 31/12/2019 DOI : 10.32508/stdjelm.v3iSI.606 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Ownership structure and risk of commercial banks in Vietnam Pham TienMinh*, Bui Huy Hai Bich Use your smartphone to scan this QR code and download this article ABSTRACT This study examines the impact of ownership structure on bank risk. The former is classified into four types, including concentrated, institutional, foreign, and government, while the latter is prox- ied by the Z-score (an inverse measure of risk). The Generalized Least Squares (GLS), which controls for heteroskedasticity and autocorrelation problems, is employed to analyze an unbalanced panel data set including 21 joint-stock commercial banks in Vietnam from 2010 to 2018. We further in- vestigate themoderating effects of market discipline (proxied by variable listed) on the relationship between ownership structure and bank risk. The results suggest that there is a negative association between three proxies of ownership structure (ownership concentration, institutional ownership, and government ownership) and bank risk and that foreign ownership does not have any signifi- cant relationship on the risk of the bank in the direct relationship models. However, the results for the models where interaction variables are included show that foreign shareholders help improve bank stability and reduce risk in listed banks. In addition, the relationship between institutional ownership and bank risk is reinforced for listed banks, while the relationships between the other two (concentration and government) and bank risk are not influenced by the listing status. Key words: Ownership structure, Bank risks, Commercial banks, Z-score Cite this article : Tien Minh P, Huy Hai Bich B. Ownership structure and risk of commercial banks in Vietnam. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 3(SI):SI1-SI13. SI13
File đính kèm:
- cau_truc_so_huu_va_rui_ro_cua_cac_ngan_hang_thuong_mai_viet.pdf